Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Tên đề tài: Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Tóm tắt: Tỷ suất sinh lời là một chỉ số quan trọng để đánh giá sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày tăng cao. Các ngân hàng thương mại và các đơn vị khác trong nền kinh tế hoạt động hướng đến mục tiêu lợi nhuận, đó là kết quả của quá trình hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, nhà quản trị quan tâm đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại và luôn tìm ra các phương án để cải thiện tỷ suất sinh lời. Trong giai đoạn 2011 – 2021, khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra vào 2012. Năm 2019, kinh tế toàn cầu tăng chậm dưới tác động căng thẳng thương mại giữa các nước lớn, nguy cơ Brexit không đạt được thỏa thuận, rủi ro chính trị tại nhiều khu vực; đại dịch Covid 19 và thương mại toàn cầu sụt giảm. Những tình hình trên có tác động đến kinh tế Việt Nam và ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng. Tác giả đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2021. Luận văn đã đạt được mục tiêu nghiên cứu tổng quát và các mục tiêu nghiên cứu cụ thể đã đề ra trong chương 1 là xác định những nhân tố có ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam và đề xuất các hàm ý chính sách. Kết quả nghiên cứu của mô hình FEM cho thấy các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam đã làm rõ các biến có ý nghĩa thống kê và có tác động cùng chiều đến ROA của trong giai đoạn 2011 – 2021 là: Quy mô ngân hàng, đòn bẩy tài chính, thanh khoản, chi phí hoạt động, đa dạng hóa thu nhập, GDP, tuy nhiên nợ xấu có tác động ngược chiều. Dựa vào kết quả nghiên cứu này, tác giả đưa ra một số hàm ý chính sách cho ngân hàng thương mại như gia tăng quy mô, khả năng thanh khoản, sử dụng chi phí hiệu quả, tăng cường đa dạng hóa thu nhập, giảm nợ xấu.
Từ khóa: tỷ suất sinh lời, quy mô, đòn bẩy tài chính, thanh khoản, vĩ mô.
ABSTRACT Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
Title: Factors affecting profitability of Vietnamese commercial banks.
Abstract: Profitability ratio becomes an important criterion to evaluate the existence of a bank in an increasingly competitive international environment. Commercial banks and other units in the economy operate towards the profit goal, which is the result of the business process. In addition, managers are interested in the business performance of commercial banks and always find ways to improve profitability. In the period 2011 – 2021, the world economic crisis occurred in 2012. In 2019, the global economy grew slowly under the impact of trade tensions between major countries, the risk of Brexit no agreement, risks, geopolitics in many regions; Covid-19 pandemic and global trade decline. These situations have an impact on the Vietnamese economy and on banking activities. The author has studied the factors affecting the profitability ratio of Vietnamese commercial banks in the period 2011 – 2021. The thesis has achieved the general research objectives and the specific research objectives set out in the study. Chapter 1 is to identify factors affecting profitability of Vietnamese commercial banks and propose policy implications. The research results of the FEM model show that the factors affecting profitability of Vietnamese commercial banks have clarified variables that are statistically significant and have a positive impact on ROA of the period 2011 – 2021 are: Bank size, financial leverage, liquidity, operating costs, income diversification, GDP, but bad debt has the opposite effect. Based on the results of this study, the author gives some policy implications for commercial banks such as increasing scale, liquidity, using cost effectively, increasing income diversification, and reducing bad debts.
Keywords: profitability ratio, scale, financial leverage, liquidity, macro.
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1. Lý do chọn đề tài Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
Qua nhiều giai đoạn hình thành và phát triển, hệ thống các ngân hàng (NH) Việt Nam ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng vốn cho nền kinh tế, là trung gian thanh toán cho các chủ thể kinh tế và góp phần không nhỏ vào mức tăng trưởng GDP hàng năm, cũng như công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, lĩnh vực ngân hàng còn có sự gia tăng đáng kể về cả quy mô tài sản, sự phát triển mạng lưới giao dịch, các sản phẩm, dịch vụ mới và hệ thống công nghệ NH. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống ngân hàng vẫn tồn tại một số vấn đề như: thanh khoản của hệ thống chưa thực sự ổn định, nợ xấu tăng cao, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu ở một số ngân hàng chưa thực sự vững chắc, sức cạnh tranh chưa cao, cải cách diễn ra chậm và thiếu tính minh bạch, năng lực quản trị và công nghệ yếu. Thực tế cho thấy, chỉ các NH có tỷ suất sinh lời (TSSL) cao, kinh doanh hiệu quả nhất thì mới có thể tăng trưởng và phát triển, những ngân hàng yếu kém, tỷ suất sinh lợi thấp sẽ dần bị thay thế. Như vậy, TSSL là một chỉ tiêu quan trọng để gia tăng sức cạnh tranh giữa các ngân hàng, ảnh hưởng đến sự tồn tại của một ngân hàng trong bối cảnh môi trường kinh doanh quốc tế ngày càng cạnh tranh khốc liệt.
Sau hơn 15 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Kinh tế Thế giới – WTO từ ngày 11/01/2007, ngành ngân hàng cũng gặp nhiều biến động thăng trầm. Tác động từ môi trường quốc tế được thể hiện rõ qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, điển hình là cuộc chạy đua lãi suất, khi mà lãi suất huy động của các ngân hàng có lúc lên đến 21%. Đến đầu năm 2011, cuộc biến động tăng lãi suất giữa các ngân hàng càng trở nên gay gắt hơn, gây ra nhiều nguy cơ – rủi ro cho nền kinh tế. Với sự xé rào trong việc huy động vốn, lãi suất huy động được thỏa thuận giữa các ngân hàng và người gửi tiền, với mức lãi suất cao nhất đạt 22%/năm. Từ đó các ngân hàng tiếp tục cho vay với lãi suất cao lên đến 25%/năm. Giai đoạn cuối năm 2018 và đầu 2019, nợ xấu của các NH gia tăng đột biến dẫn đến tính thanh khoản của các NH rất thấp, gây ra nguy cơ đổ vỡ rất cao. Nhận thức tình hình trên, Chính phủ (CP) ra quyết định 254/QĐ-TTg có hiệu lực ngày 01/03/2019 về việc phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2020-2025. Theo đề án này, việc đánh giá và nâng cao TSSL của các ngân hàng hiện nay rất cần thiết, đây là tiền đề quan trọng giúp các nhà hoạch định có thể thực hiện việc cơ cấu lại hệ thống NH một hợp lý và hiệu quả hơn, việc sáp nhập, hợp nhất giữa các ngân hàng cũng có căn cứ thuyết phục hơn.
Ngoài ra, với vai trò là kênh trung gian tài chính quan trọng trong nền kinh tế, ngân hàng có đặc thù là tổ chức kinh doanh tiền tệ với độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng rất lớn thị trường. Do vậy mà công chúng và thị trường phản ứng rất nhạy cảm đối với bất kỳ tín hiệu phát sinh từ các yếu kém trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Vì vậy, tỷ suất sinh lợi chính là thước đo cho sức khỏe tài chính của một ngân hàng, việc nâng cao TSSL là cần thiết không chỉ đối với bản thân ngân hàng mà còn cho cả hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Khi một NH yếu kém sẽ không chỉ gây tổn thất cho chính ngân hàng đó mà sẽ gây nên những rủi ro nhất định mang tính dây chuyền cho các bên liên quan như khách hàng, người lao động, trái chủ, nhà đầu tư tiềm năng, cổ đông ngân hàng và xa hơn là cả hệ thống NH và nền kinh tế như đã kể trên.
Trong giai đoạn 2011-2021, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra vào 2012 có tác động đến kinh tế Việt Nam và ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
Năm 2019, kinh tế toàn cầu tăng chậm dưới tác động căng thẳng thương mại giữa nền kinh tế lớn, nguy cơ Brexit không đạt được thỏa thuận, rủi ro chính trị tại nhiều khu vực; thương mại toàn cầu sụt giảm. Mặt bằng lạm phát và giá hàng hóa thế giới ở mức thấp hơn sơ với cùng kỳ. Theo thống kê của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2019 đạt 2,9% thấp hơn mức 3,6% của năm 2018; lạm phát toàn cầu tăng chậm lại, từ mức 3,6% năm 2018 xuống mức 3,5% năm 2019. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng không ngoại lệ trong các nước có nền kinh tế đang phát triển khi bị ảnh hưởng nghiệm trọng từ nền kinh tế toàn cầu, với thực tế là trong thời gian qua ngân hàng bộc lộ một số yếu điểm: tỷ suất sinh lợi có tăng trưởng không đáng kể, điển hình đến cuối năm 2019, ROA và ROE toàn hệ thống lần lượt là 1,08% và 15,29%, tăng so với năm 2018 (năm 2018 lần lượt là 0,9% và 11,8%). Vấn đề đặt ra là hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2021 như thế nào, cần có những nghiên cứu thường xuyên hơn để cập nhật những thông tin mới nhất.
Từ những vấn đề trên cho thấy, TSSL đảm bảo giúp hệ thống ngân hàng hoạt động bền vững, giảm thiểu rủi ro và gia tăng niềm tin từ các bên liên quan và nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngoài ra, việc xem xét một cách tổng quát và xác định những nhân tố ảnh hưởng đến TSSL là hết sức cần thiết và có giá trị, đây là cơ sở quan trọng cho các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách và các nhà đầu tư trong việc ra quyết định. Qua đó, nó cũng là cơ sở để hoàn thiện một khung chính sách hợp lý trong quá trình quản lý hoạt động của các NH trong thời kỳ hội nhập. Chính vì lẽ đó, để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, khóa luận hướng đến nghiên cứu đề tài: “Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là xác định các yếu tố và mức độ ảnh hưởng của chúng đến tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2021. Từ kết quả nghiên cứu sẽ đề xuất một số hàm ý chính sách cho các NHTM Việt Nam và các cơ quan liên quan nhằm cải thiện tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tương lai.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu tổng quát được cụ thể hóa thành các mục tiêu sau:
- Thứ nhất, xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Thứ hai, đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Thứ ba, đề xuất các hàm ý chính sách và khuyến nghị cho các NHTM Việt Nam nhằm nâng cao tỷ suất sinh lời trong tương lai.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu thì tác giả cần trả lời được các câu hỏi nghiên cứu tương ứng như sau:
- Thứ nhất, các yếu tố nào ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam?
- Thứ hai, mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam như thế nào?
- Thứ ba, các hàm ý chính sách và khuyến nghị nào được đề xuất cho các NHTM Việt Nam nhằm nâng cao tỷ suất sinh lời trong tương lai?
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các NHTM Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: Tác giả sử dụng dữ liệu tài chính từ 30 ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay (trong tổng số 31 ngân hàng thương mại tại Việt Nam) với việc phân tích tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến TSSL. Cơ sở để lựa chọn 30 ngân hàng vì những NH này có đầy đủ số liệu qua các năm để tác giả có thể phân tích dữ liệu, mặt khác, các ngân hàng này đa phần là các ngân hàng TMCP niêm yết nên tổng số thị phần mà các ngân hàng này chiếm trên thị trường Việt Nam đủ tính đại diện cho toàn bộ hệ thống.
Phạm vi thời gian: Số liệu phục vụ cho nghiên cứu được lấy từ năm 2011 đến năm 2021 dựa trên báo cáo kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán được công bố tại các NHTM Việt Nam. Nguyên nhân tác giả lựa chọn giai đoạn này vì từ năm 2011 – 2021 thì NHTM Việt Nam trải qua những cột mốc quan trọng với sự phát triển mạnh mẽ trong những năm 2011 – 2013 rồi đến giai đoạn suy thoái và cuối cùng là trong giai đoạn 2020 – 2021 chịu tác động nặng nề của đại dịch Covid 19. Vì vậy, TSSL của các ngân hàng trong giai đoạn này cũng sẽ có nhiều biến động.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận văn kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu là: nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng.
- Trong đó:
Phương pháp nghiên cứu định tính: Tác giả tiến hành tổng hợp khung lý thuyết liên quan đến TSSL và các yếu tố ảnh hưởng đến TSSL tại các NHTM cũng như cách thức đo lường cho các biến và TSSL. Ngoài ra, thông qua việc lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm nhằm xác định các khoảng trống nghiên cứu để tạo cơ sở cho việc đề xuất mô hình cùng giả thuyết nghiên cứu. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
Phương pháp nghiên cứu định lượng: Phương pháp này bắt đầu bằng việc thu thập dữ liệu thứ cấp của 30 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2021 sau đó tiến hành phân tích hồi quy đa biến đối với dữ liệu thu thập. Trên cơ sở dữ liệu bảng cân đối, luận văn đánh giá mức độ ảnh hưởng của các biến số trong mô hình nghiên cứu đến TSSL của các NHTM Việt Nam hiện nay. Để thực hiện phân tích hồi quy, luận văn sử dụng ba phương pháp ước lượng khác nhau bao gồm: (1) Mô hình hồi quy dữ liệu gộp Pooled OLS, (2) mô hình hiệu ứng cố định FEM (Fix Effects Model) và (3) mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên REM (Random Effects Model).
Sau khi thực hiện lần lượt 3 mô hình trên, để lựa chọn phương pháp hồi quy phù hợp nhất, tác giả sử dụng kiểm định F-test và kiểm định Breusch-Pagan Test (Breuch và Pagan, 1979). Kiểm định F-test để lựa chọn giữa mô hình Pooled OLS và mô hình FEM. Để lựa chọn giữa mô hình Pooled OLS và mô hình REM, tác giả thực hiện kiểm định Breusch-Pagan Test. Giữa mô hình FEM hay REM tác giả sử dụng kiểm định Hausman để lựa chọn.
Sau khi lựa chọn được mô hình phù hợp nhất với bộ dữ liệu nghiên cứu, luận văn sẽ tiến hành kiểm tra các khuyết tật của mô hình, bao gồm: hiện tượng tự tương quan và hiện tượng phương sai của sai số thay đổi. Để khắc phục hiện tượng tự tương quan hay hiện tượng phương sai xảy ra của sai số thay đổi thì nghiên cứu sẽ sử dụng phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát khả thi FGLS (Feasible Generalized Least Squares – FGLS) để nhằm hoàn thiện mô hình hồi quy của luận văn.
1.6 Đóng góp của đề tài
Đóng góp về mặt lý thuyết: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tổng hợp khung lý thuyết liên quan đến TSSL tại các NHTM Việt Nam. Ngoài ra, nghiên cứu mang tính cập nhật về các khoảng trống của các nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước về số liệu hoặc nghiên cứu đầy đủ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến TSSL tại các NHTM. Mặt khác, kết quả nghiên cứu có thể làm cơ sở tiếp nối cho các nghiên cứu tiếp theo có cùng lĩnh vực mở rộng hướng tiếp cận sâu hơn.
Đóng góp về mặt thực tiễn: Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng thực nghiệm về các yếu tố ảnh hưởng đến TSSL tại các NHTM Việt Nam dựa trên số liệu thứ cấp trong giai đoạn 2011 – 2021. Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm đó tác giả sẽ dựa trên mức độ cũng như chiều ảnh hưởng của các yếu tố để đưa ra các hàm ý chính sách và khuyến nghị cho các nhà quản trị ngân hàng nhằm có những chiến lược khả thi để nâng cao và duy trì TSSL ổn định cho các NHTM tại Việt Nam.
1.7 Kết cấu luận văn Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
Ngoài phần mở đầu, các danh mục, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có các nội dung chính sau:
Chương 1: Giới thiệu đề tài
Chương này sẽ trình bày lý do chọn đề tài, từ đó xác định mục tiêu nghiên cứu cũng như các câu hỏi nghiên cứu tương ứng. Đồng thời, để hoàn thành được mục tiêu nghiên cứu thì chương này sẽ lựa chọn đối tượng và phạm vi nghiên cứu cùng với phương pháp nghiên cứu. Cuối cùng, chương này sẽ trình bày đóng góp của nghiên cứu và kết cấu dự kiến của luận văn.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và khảo lược nghiên cứu
Nội dung chương 2 trình bày các nội dung chính như nền tảng cơ sở lý thuyết về TSSL, các chỉ tiêu đánh giá TSSL tại các NHTM. Chương này cũng giới thiệu sơ lược một số nghiên cứu trước đây trên thế giới và trong nước về các yếu tố ảnh hưởng đến TSSL tại các NHTM, đồng thời nhận xét và xác định khoảng trống nghiên cứu.
Chương 3: Mô hình và phương pháp nghiên cứu
Chương này bao gồm các nội dung chính như trình bày về mô hình và giả thuyết nghiên cứu cùng với phương pháp đo lương biến. Trình bày chi tiết quy trình và phương pháp nghiên cứu, mô tả mẫu nghiên cứu cùng với phương pháp tính toán và xử lý số liệu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 4 chủ yếu là trình bày kết quả mô hình: thống kê mô tả mẫu nghiên cứu, phân tích tương quan mô hình nghiên cứu, kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến, kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi, kiểm định hiện tượng tự tương quan. Sử dụng phương pháp bình phương bé nhất tổng quát khả thi (GLS) để khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi và tự tương quan, xác định kết quả cuối cùng của mô hình.
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách
Dựa trên kết quả của mô hình nghiên cứu, quan điểm của tác giả sẽ đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao TSSL tại các NHTM Việt Nam trong tương lai.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong chương 1, luận văn đã trình bày tổng quan về lý do chọn đề tài, xác định được mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu để thực hiện, những đóng góp của đề tài nghiên cứu và kết cấu của luận văn. Đây là phần định hướng quan trọng, có tác động trực tiếp đến những nội dung liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu. Đồng thời, chương này làm tiền đề để thực hiện các quá trình nghiên cứu tiếp theo.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHẢO LƯỢC NGHIÊN CỨU
2.1. Lý thuyết về ngân hàng thương mại
2.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Phan Thị Thu Hà (2013) và Nguyễn Văn Tiến (2015) cho rằng ngân hàng thương mại (NHTM) là một định chế trung gian tài chính trên thị trường, làm cầu nối giữa khu vực tiết kiệm với khu vực đầu tư của nền kinh tế, cụ thể hơn thì NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, thực hiện các nghiệp vụ nhận tiền gửi từ các chủ thể trong nền kinh tế, từ nguồn vốn huy động được, NHTM sẽ thực hiện các nghiệp vụ cho vay đối với các chủ thể cần vốn và đầu tư vào các tài sản có khả năng sinh lời khác, ngoài ra NHTM còn cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, thanh toán cho các tác nhân trong nền kinh tế. Như vậy, NHTM là một loại hình tổ chức tài chính có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Trước hết, thông qua vai trò trung gian tài chính, NHTM thực hiện việc chuyển các khoản tiết kiệm từ các chủ thể thừa vốn thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các tác nhân khác có nhu cầu vốn để sử dụng đầu tư. Đồng thời, NHTM là nơi cấp các tín dụng cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất. Ngoài ra, NHTM còn là thành viên quan trọng của thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền trung ương và địa phương phát hành để tài trợ cho các chương trình công cộng. Đối với các doanh nghiệp, NHTM cũng là một trong những tổ chức cung cấp vốn lưu động, vốn ngắn hạn và dài hạn. Trong đó, ngân hàng thương mại có các vai trò đặc thù sau:
- Vai trò trung gian thanh toán: NHTM thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hóa, dịch vụ theo các phương thức như phát hành và bù trừ séc, hình thức thanh toán điện tử…
- Vai trò bảo lãnh: NHTM cam kết trả nợ cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không khả năng thanh toán.
- Vai trò đại lý: Các NHTM thay mặt khách hàng thực hiện các nghiệp vụ như quản lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán, chuộc lại chứng khoán.
- Vai trò thực hiện chính sách: Các NHTM còn là một kênh quan trọng để thực hiện chính sách vĩ mô của chính phủ, tham gia vào việc điều tiết sự tăng trưởng kinh tế vào đảm bảo các mục tiêu xã hội.
2.1.2. Khái niệm tỷ suất sinh lời của ngân hàng thương mại Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
Trần Huy Hoàng (2011) cho rằng tỷ suất sinh lời (hay hiệu quả hoạt động) của ngân hàng được thể hiện ở hai phương diện: Phương diện hiệu quả kinh tế, TSSL phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp cũng như của xã hội để gặt hái được những kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất; Phương diện hiệu quả xã hội, TSSL phản ảnh những lợi ích xã hội đạt được trong quá trình của hoạt động kinh doanh. Trong hai phương diện này thì khía cạnh hiệu quả kinh tế có tính quyết định hơn. TSSL của ngân hàng là một tỷ số được dùng để đo lường khả năng sinh lợi, thể hiện mối tương quan giữa lượng thu nhập đạt được với các nguồn lực sử dụng mà tổ chức bỏ ra. Trong đó, kết quả tử số là các biến lợi nhuận còn mẫu số là các nguồn hình thành nên lợi nhuận. TSSL được tính bằng tỷ lệ phần trăm, có thể đánh giá đúng đắn kết quả kinh doanh của NH hơn so với các kết quả lợi nhuận tuyệt đối.
Theo Phan Thị Thu Hà (2013) thì TSSL là chỉ thước đo đánh giá thành quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thước đo để so sánh giữa kết quả đạt được và rủi ro giữa ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác và khả năng thành công của ngân hàng. TSSL giúp ban lãnh đạo ngân hàng có thể đo lường hiệu quả quản trị đối với sự biến động của tình hình kinh tế, là động lực thúc đẩy nhà điều hành trong việc hoạch định các chiến lược, quyết định tài trợ, đầu tư, kinh doanh theo từng giai đoạn nhất định. TSSL cũng thể hiện sức mạnh tài chính của ngân hàng được thể hiện thông qua các chỉ số trên báo cáo hoạt động kinh doanh và bảng cân đối kế toán (Nguyễn Văn Tiến, 2015).
Rose (2002) cho rằng, việc đo lường giá trị tỷ suất sinh lời của NH cũng được dựa trên các nền tảng lý thuyết về đánh giá HQHĐKD của doanh nghiệp và xem xét thêm những tính chất đặc thù của ngân hàng. Theo nghĩa hẹp, hiệu quả HĐKD của ngân hàng chính là khả năng tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng cùng với sự đảm bảo an toàn cho các hoạt động của tổ chức. Theo nghĩa rộng HQHĐKD không chỉ đề cập đến lợi nhuận mà cần phải xem xét tính hợp lý của lợi nhuận đạt được từ cấu trúc tài sản nợ và tài sản, cũng như xu hướng tăng trưởng lợi nhuận ổn định. Có nhiều nguồn lực của tổ chức như: cơ sở vật chất, lao động, nguồn tài chính cho các hoạt động chủ yếu của NH bao gồm: cho vay và đầu tư, đây là những căn cứ quan trọng để xác định mức độ hiệu quả và yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lời của ngân hàng.
Từ các khái niệm trên cho thấy tỷ suất sinh lời của ngân hàng thương mại được xem như là khả năng kết hợp tối ưu để tối đa hoá giá trị đầu ra dựa trên việc tối thiểu hóa các yếu tố đầu vào bao gồm: nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất và các yếu tố khác trong các hoạt động trung gian tài chính và sản xuất kinh doanh của bản thân ngân hàng như huy động vốn, cho vay, đầu tư và dịch vụ. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM được đo lường thông qua việc so sánh với đường biên sản xuất của nó. Tóm lại, việc đánh giá tỷ suất sinh lời của các NHTM khá đa dạng, tùy theo những mục đích nghiên cứu khác nhau mà tỷ suất sinh lời sẽ được xét trên những khía cạnh khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, hiệu quả HĐKD của ngân hàng sẽ được đo lường dựa trên khả năng sinh lời (thu nhập) của các NHTM trong điều kiện đảm bảo hoạt động được ổn định, đồng thời hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
2.1.3. Các chỉ tiêu đo lường tỷ suất sinh lời của các ngân hàng thương mại
Hiện nay, việc đánh giá mức độ hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại có nhiều chỉ tiêu được sử dụng, tuy nhiên, theo Trần Huy Hoàng (2011) cho rằng chỉ tiêu về khả năng sinh lời thường được sử dụng để đo lường tỷ suất sinh lời của ngân hàng thương mại. Những kết quả về khả năng sinh lời được xem là chỉ tiêu có khả năng phản ánh tổng hợp tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tiềm năng tạo ra lợi nhuận, đồng thời chỉ tiêu cũng xem xét đến các yếu tố rủi ro đối với NHTM, do vậy thông qua khả năng sinh lời mà NHTM có thể đánh giá tỷ suất sinh lời của tổ chức một cách bao quát hơn. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả sử dụng hai chỉ tiêu phổ biến để đo lường khả năng sinh lời là Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA) và Tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE) để thực hiện nghiên cứu.
ROA – Return On Assets: Theo Ongore (2013), ROA là một chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của một ngân hàng. Theo Khrawish (2011) ROA là một tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản. Nó đánh giá khả năng quản lý của các nhà quản trị ngân hàng để tạo thu nhập bằng cách sử dụng tài sản của ngân hàng theo ý của họ. Nói cách khác, ROA cho thấy nguồn lực của ngân hàng được sử dụng để tạo ra thu nhập. Nó còn cho thấy hiệu quả của việc quản lý một ngân hàng trong việc tạo ra thu nhập ròng từ tất cả các nguồn lực của tổ chức.
ROA (Return on Assets) là một trong những chỉ số quan trọng được sử dụng để đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng. Chỉ số này tính toán tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản của ngân hàng, giúp đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản để tạo ra lợi nhuận. ROA không chỉ được sử dụng rộng rãi trong ngành ngân hàng mà còn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực tài chính khác như đầu tư chứng khoán. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
Một trong những lý do quan trọng khiến ROA trở thành chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng là tính toán đơn giản và dễ hiểu. Chỉ cần chia lợi nhuận của ngân hàng cho tổng tài sản, ROA sẽ cung cấp cho chúng ta một con số cho thấy ngân hàng đang hoạt động hiệu quả hay không. Vì vậy, ROA không chỉ dễ dàng theo dõi mà còn giúp người quản lý đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng một cách nhanh chóng và chính xác.
Ngoài ra, ROA cũng cho thấy sức mạnh tài chính của ngân hàng. Nếu ROA của ngân hàng cao, điều này cho thấy ngân hàng có khả năng tạo ra lợi nhuận cao từ các khoản đầu tư và hoạt động tài chính. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư hoặc khách hàng mới.
Wen (2010) cho biết ROA cao hơn cho thấy công ty có hiệu quả hơn trong việc sử dụng các nguồn lực của nó. ROA được xác định bằng cách lấy phần trăm của kết quả của tổng lợi nhuận sau thuế chia cho tổng tài sản bình quân của doanh nghiệp, kết quả này đánh giá mỗi đồng tài sản của ngân hàng có khả năng sinh lời bao nhiêu, qua đó thể hiện được khả năng ngân hàng đã sử dụng tài sản của mình để có thể tạo ra được bao nhiêu lợi nhuận. Tỷ số ROA càng cao thì thể hiện được khả năng sinh lời của ngân hàng càng cao. Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp ROA cao nhưng không có nghĩa là ngân hàng khai thác hiệu quả tài sản mà nguyên nhân có thể xuất phát từ việc đầu tư thiếu hụt vào tài sản làm cho giá trị TS giảm xuống, gây ra những ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của ngân hàng.
- ROA = 100%
ROE – Return on Equity: Theo Ongore (2013), ROE là một chỉ tiêu tài chính liên quan đến lợi nhuận mà một doanh nghiệp kiếm được so với tổng số tiền vốn cổ phần đã đầu tư. ROE là những gì mà các cổ đông xem xét trả lại cho nhà đầu tư của họ. Một doanh nghiệp có ROE cao có nhiều khả năng tạo tiền mặt nội bộ. Do đó, ROE cao hơn thì công ty tốt hơn về mặt tạo ra lợi nhuận. Điều này được giải thích thêm bởi Khrawish (2011) rằng ROE là tỷ suất lợi nhuận thuần sau thuế chia cho tổng vốn cổ phần. Nó đại diện cho tỷ suất lợi nhuận thu được từ các quỹ đầu tư vào các NH của các cổ đông. ROE phản ánh mức độ hiệu quả của việc quản lý ngân hàng đang sử dụng lợi ích của cổ đông. Như vậy, có thể suy luận rằng ROE càng có hiệu quả hơn quản lý sử dụng vốn cổ đông. ROE là chỉ tiêu tài chính đo lường khả năng sinh lời trên mỗi đồng vốn chủ sở hữu, được tính bằng phần trăm lợi nhuận ròng chia cho vốn chủ sở hữu bình quân của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Chỉ số này thể hiện quy mô lợi nhuận sau thuế được tạo ra từ mỗi đồng vốn CSH, qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của chủ sở hữu của ngân hàng và lợi nhuận mà các cổ động nhận được khi bỏ vốn đầu tư. ROE càng cao thì càng hấp dẫn cho các nhà đầu tư vì nó cho thấy ngân hàng đang sử dụng hiệu quả đồng vốn của nhà đầu đầu tư. Tuy nhiên, tương tự ROA, ROE cao không có nghĩa ngân hàng đã sử dụng hiệu quả vốn CSH mà do việc ngân hàng giảm tỷ trọng vốn chủ sở hữu và tăng tỷ trọng vốn vay khiến cho mẫu số của tỷ số ROE nó giảm xuống thì ROE sẽ tăng lên nhưng việc làm này sẽ gây ra nhiều rủi ro tiềm ẩn như rủi ro vỡ nợ, rủi ro thanh toán hay rủi ro phá sản cũng tăng theo nếu mất kiểm soát.
- ROE x 100%
Trong các nghiên cứu gần đây, một số tác giả sử dụng tỷ lệ ROA được tính bằng lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân và ROE được tính bằng lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân vì số liệu lợi nhuận là số thời kỳ được thu thập từ báo cáo KQHĐKD trong khi tổng tài sản và vốn chủ sở hữu là số thời điểm nên các tác giả đã tính tổng tài sản bình quân và vốn chủ sở hữu bình quân. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (Net interest margin – NIM): Tỷ lệ này là chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi chia cho tổng tài sản sinh lời. Theo Golin (2001) thì biên độ được tính cho một khoảng thời gian, một quý hoặc một năm và được đo lường bằng một tỷ lệ %. Hempel và cộng sự (1986) cho rằng thu nhập lãi cận biên là rất hữu ích trong việc đo lường những thay đổi và xu hướng trong biên độ lãi suất và so sánh thu nhập lãi giữa các ngân hàng. NIM cũng là tỷ số rất cần thiết để chúng ta tìm hiểu cách đo lường khả năng sinh lời cũng như tìm hiểu các các yếu tố ảnh hưởng bởi hai quyết định bên trong và bên ngoài như thế nào.
- NIM x 100%
Chỉ số tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu – ROS (Return On Sales): Đây là chỉ số thể hiện tỷ suất sinh lời dựa trên doanh thu thực tế của ngân hàng, đánh giá xem một đồng ngân hàng thu vào sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hempel và cộng sự (1986) cho rằng doanh thu xem xét là doanh thu thuần từ các hoạt động bán hàng và dịch vụ, tính toán trừ đi toàn bộ chi phí cũng như thuế suất phải chịu để ra lợi nhuận. Chỉ số ROS đồng thời phản ánh hiệu quả việc ngân hàng đã và đang thực hiện quản lý kiểm soát chi tiêu trong kỳ như thế nào. ROS càng cao chứng tỏ ngân hàng đang thực hiện tốt, làm ăn có lãi. ROS được tính bằng tỷ lệ phần trăm của lợi nhuận sau thuế theo từng tháng, quý hay năm chia cho tổng doanh thu theo từng tháng, quý, năm tương ứng. Cụ thể cách tính như sau:
- ROS x 100%
Trong đó: Lợi nhuận sau thuế và doanh thu thuần được lấy từ báo cáo kết quả sản xuất của doanh nghiệp hằng tháng, quý, năm.
- Doanh thu thuần = Doanh thu từ cung cấp dịch vụ, bán sản phẩm – Các khoản giảm trừ doanh thu.
- Lợi nhuận sau thuế = Tổng lợi nhuận từ cung cấp các dịch vụ, bán sản phẩm + lợi nhuận thuần thu được – Tất cả các khoản thuế của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, luận văn chủ yếu sử dụng hai chỉ tiêu chính là ROA, ROE vì hai chỉ tiêu này đo lường dựa trên tổng tài sản và vốn chủ sở hữu bình quân tạo ra được bao nhiêu lợi nhuận sau thuế. Hay nói cách khác, tài sản và vốn chủ sở hữu mới chính là hai chỉ tiêu mà nhà đầu tư thật sự quan tâm và nó phản ánh quy mô ngân hàng lớn mạnh.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của ngân hàng thương mại Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
2.2.1. Nhóm các yếu tố thuộc về ngân hàng
- Quy mô ngân hàng
Hiện nay, trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì tổng tài sản là một chỉ tiêu được dùng để đánh giá quy mô của NHTM. Tài sản của NHTM bao gồm TS sinh lời và TS không sinh lời. Hiện nay, tài sản của ngân hàng chủ yếu là tài sản sinh lời chiếm tỷ trọng 80% – 90%, còn tài sản không sinh lời chỉ chiếm một tỷ trọng thấp từ 10% – 20%. Một ngân hàng có tỷ trọng TSSL càng cao thì sẽ có khả năng đem đến lợi nhuận cao. Do đó, việc đánh giá tài sản trở nên quan trọng đối với các ngân hàng, việc xác định quy mô, chất lượng tài sản sẽ quyết định lớn đến tăng trưởng và phát triển của ngân hàng. Qua đó có thể xác định năng lực tài chính, năng lực điều hành của ngân hàng. Hiện nay có hai hoạt động chính đóng góp vào sự phát triển quy mô tổng tài sản của ngân hàng, đó là hoạt động tín dụng và hoạt động đầu tư (Nguyễn Văn Tiến, 2015). Trong báo cáo tài chính, các khoản mục đầu tư thường gặp như góp vốn đầu tư dài hạn, chứng khoán đầu tư và kinh doanh. Kết quả đầu tư được đánh giá bằng các chỉ tiêu như: tốc độ tăng trưởng, quy mô tăng trưởng, tỷ lệ dự phòng giảm giá chứng khoán… Hiện nay, những ngân hàng có các tài sản ở nước ngoài sẽ chịu tác động mạnh của các biến động về kinh tế chính trị của các nước trên thế giới.
Trên thế giới có những công trình nghiên cứu liên quan đến mối quan hệ giữa quy mô ngân hàng và tỷ suất sinh lời. Theo nghiên cứu của Wahdan và cộng sự (2017) thì kết quả là không có mối quan hệ giữa hai yếu tố quy mô ngân hàng và tỷ suất sinh lời. Nhưng theo Petria và cộng sự (2015); San (2013) thì kết quả nghiên cứu của họ tại các công trình về vấn đề TSSL của ngân hàng thì ROA và ROE có mối quan hệ cùng chiều với quy mô của ngân hàng vì khi mở rộng được quy mô thì tạo ra việc khách hàng càng tin tưởng ngân hàng thì sẽ giao dịch nhiều hơn, hay việc ngân hàng có lợi nhuận nhiều giúp ngân hàng tái đầu tư liên tục. Mặt khác, Vincent và cộng sự (2013) cho rằng quy mô ngân hàng tác động ngược chiều đến ROA; ROE điều này chứng minh cho việc quy mô tăng nhanh thì ngân hàng đầu tư liên tục nhưng lại làm ăn kém hiệu quả thì lợi nhuận sinh ra chủ yếu để trả nợ thì vẫn làm cho TSSL kém. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
- Đòn bẩy tài chính
Bên cạnh cho vay thì huy động vốn của NHTM có vai trò quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển bền vững của ngân hàng, tham gia vào chi phối cũng như quyết định việc thực hiện các chức năng của ngân hàng thương mại. Trong đó, nguồn vốn CSH giúp ngân hàng thực hiện hoạt động kinh doanh và quyết định quy mô của NH. Chỉ số tỷ lệ vốn CSH trên tổng tài sản của ngân hàng cho thấy mức độ chịu thiệt hại cũng như khả năng hồi phục của ngân hàng khi xảy ra khủng hoảng. Deger và cộng sự (2011) đều sử dụng tỷ số vốn CSH/TTS làm biến độc lập để nghiên cứu về vấn đề hiệu quả hoạt động tài chính của ngân hàng vì họ cho rằng vốn CSH càng nhiều thì rủi ro của NHTM cũng từ đó được giảm thiểu và tạo được niềm tin cho khách hàng cũng như các cổ đông. Cùng với các tác giả trên thì Ongore và cộng sự (2013) trong công trình của mình cũng đưa ra kết quả tỷ lệ vốn CSH/TTS hay là mức độ an toàn vốn tác động cùng chiều đến TSSL của ngân hàng.
- Đa dạng hóa thu nhập
Theo lý thuyết về trung gian tài chính, việc gia tăng lợi nhuận trên cơ sở gia tăng quy mô liên quan đến việc đa dạng hóa nguồn thu nhập, theo đó các ngân hàng nếu cung cấp nhiều loại sản phẩm và dịch vụ hơn sẽ tạo ra nhiều nhu cầu hơn và sẽ kiếm được nhiều thu nhập hơn. Nghiên cứu của Stiroh (2004) cho rằng bên cạnh việc chia sẻ thông tin, NHTM có thể chia sẻ các yếu tố đầu vào như lao động và công nghệ cùng lúc cho nhiều hoạt động khác nhau nên được hưởng lợi ích về quy mô bằng cách hạ thấp chi phí hoạt động và tận dụng các chi phí cố định. Mặt khác, theo Baele và cộng sự (2007), thông qua việc đa dạng hóa hoạt động, các ngân hàng có thể thu thập được nhiều thông tin hơn nên tạo điều kiện để bán chéo sản phẩm và phát triển các hoạt động khác hơn.
- Tỷ lệ thanh khoản
Khả năng thanh khoản của ngân hàng thương mại là khả năng có thể đáp ứng tức thời nhu cầu khách hàng rút các khoản tiền gửi hay giải ngân các khoản tín dụng mà ngân hàng đã cam kết. Tỷ lệ tài sản thanh khoản của ngân hàng sẽ tương quan nghịch đối sẽ với rủi ro tài chính. Nếu ngân hàng không đủ nguồn vốn cần thiết trên thị trường để đáp ứng các nhu cầu hay mất khả năng thanh toán thì sự uy tín của ngân hàng sẽ bị đe dọa cùng với đó là kéo theo sự suy thoái của toàn hệ thống ngân hàng, vì vậy tỷ lệ thanh khoản hay quản lý thanh khoản là một trong những công tác rất quan trọng nhằm quản trị rủi ro và duy trì hoạt động tài chính ổn định cho ngân hàng. Để phục vụ cho nghiên cứu của luận văn thì tác giả sử dụng công thức tỷ lệ nợ cho vay/tổng vốn huy động để đo lường tính thanh khoản. Tỷ lệ này cho biết phần trăm các khoản cho vay đến từ những nguồn huy động, tỷ lệ này càng cao thì khả năng thanh khoản càng thấp. Theo Dawood (2014) cho rằng ROA tương quan ngược chiều với khả năng thanh khoản vì nếu NHTM quá nâng cao hệ số này thì thắt chặt tín dụng thì sẽ không tạo ra được hoạt động cho vay phát triển và làm cho lợi nhuận giảm. Mặt khác theo Muhammad (2014) lại cho rằng tính thanh khoản lại đồng biến với các chỉ tiêu khả năng sinh lời của NHTM.
- Tỷ lệ nợ xấu
Hệ thống ngân hàng được xem là trung gian tài chính, là cầu nối của người cho vay và đi vay. Nhờ có ngân hàng mà các hoạt động kinh doanh, vận hành trong nền kinh tế được diễn ra một cách liên tục, cũng từ đó mà ta có thể thấy lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng đến từ hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, hoạt động tín dụng sẽ đem lại những rủi ro cho ngân hàng. Do đó, tại bất cứ ngân hàng thương mại nào thì song song với hoạt động tín dụng chính là rủi ro tín dụng. Chất lượng tín dụng hay chất lượng các khoản cho vay thể hiện qua tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn nó tác động trực tiếp đến hoạt động của NHTM. Tỷ lệ nợ quá hạn hay nợ xấu càng cao thì ngân hàng có nguy cơ đối diện với tổn thất càng cao và lợi nhuận của ngân hàng cũng từ đó mà giảm xuống. Nợ xấu càng cao cho thấy tín dụng của ngân hàng đang có chất lượng kém và khả năng thu hồi kém. Theo San và cộng sự năm (2013) thì tỷ lệ nợ xấu có mối quan hệ nghịch biến với ROA; ROE.
2.2.2. Nhóm các yếu tố thuộc vĩ mô nền kinh tế Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP)
Là một trong những yếu tố vĩ mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế – GDP nằm ngoài khả năng kiểm soát của các nhà quản trị, không thể đo lường trước được. Tuy nhiên, bằng khả năng và các công cụ dự báo thị trường, nhà quản trị có thể dự báo về GDP, từ đưa ra những ước lượng về sự thay đổi của tỷ suất sinh lợi của Ngân hàng. Tăng trưởng kinh tế cao có thể đem lại những kỳ vọng về sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ GDP giảm xuống có thể báo hiệu sự giảm sút của thị trường. Theo nghiên cứu của Dawood (2014) thì GDP đồng biến với TSSL của ngân hàng. Trong khi đó, Nasserinia và cộng sự (2014) thì lại cho rằng đây là mối quan hệ ngược chiều vì nếu GDP tăng trưởng mà ngân hàng làm ăn không hiệu quả thì vẫn không tạo ra TSSL và theo Wahdan cùng cộng sự (2017) thì lại cho rằng không tồn tại sự tương quan giữa hai biến số này.
- Tỷ lệ lạm phát
Trên thế giới cũng có nhiều nghiên cứu liên quan đến mối liên hệ giữa lạm phát với tỷ suất sinh lời của ngân hàng, San và cộng sự năm (2013) cho rằng lạm phát tác động cùng chiều với tỷ suất sinh lời, Khrawish (2011) thì lại kết luận ngược lại lạm phát lại có quan hệ ngược chiều với ROA, ROE. Tuy nhiên, Wahdan cùng cộng sự (2017) thì lại cho rằng không có sự tồn tại mối quan hệ của lạm phát và tỷ suất sinh lời. Rose (1999) xác định chênh lệch giữa thu nhập và chi phí của ngân hàng khi lãi suất thay đổi phụ thuộc vào khả năng dự đoán tỷ lệ lạm phát và năng lực quản lý tài sản – nguồn vốn của ngân hàng. Nhìn chung, lạm phát tăng cao thì lãi suất cho vay tăng cao làm cho thu nhập của ngân hàng cũng tăng lên. Tuy nhiên, nếu các ngân hàng không điều chỉnh kịp thời lãi suất khi xảy ra lạm phát bất ngờ thì chi phí ngân hàng có thể tăng cao làm ảnh hưởng tiêu cực đến TSSL của ngân hàng.
2.3. Khảo lược các nghiên cứu liên quan Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
2.3.1. Các nghiên cứu trong nước
Trần Việt Dũng (2014) với nghiên cứu “Xác định các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam”. Tác giả nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu hàng năm từ 22 ngân hàng trong giai đoạn 2006 đến năm 2012. Các biến đại diện cho tỷ suất sinh lợi của ngân hàng là ROA, ROE, NIM. Sử dụng phương pháp hồi quy theo mô hình GMM, kết quả nghiên cứu cho thấy việc cổ phần hóa có tác động cùng chiều đến TSSL của các ngân hàng, tỷ lệ tăng trưởng GDP có tác động thuận chiều đến TSSL của ngân hàng. Trong khi đó, yếu tố lạm phát lại ảnh hưởng ngược chiều đến khả năng sinh lợi của các ngân hàng và các ngân hàng có xu hướng hoạt động hiệu quả hơn khi nắm nhiều vốn CSH hơn.
Nguyễn Thị Mỹ Linh và Nguyễn Thị Ngọc Hương (2015) thực hiện đề tài “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập lãi cận biên của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam”. Các tác giả sử dụng bộ dữ liệu của 27 ngân hàng TMCP trong giai đoạn từ 2008 đến năm 2013 theo các phương pháp nghiên cứu là phương pháp bình phương nhỏ nhất (Pooled OLS), FEM, REM và phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát (GLS). Kết quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố tác động cùng chiều với thu nhập lãi cận biên gồm: Tỷ lệ lãi suất, rủi ro tín dụng, quy mô hoạt động cho vay, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô hoạt động cho vay và quy mô ngân hàng. Ngoài ra các yếu tố khác có tác động ngược chiều đến thu nhập lãi cận biên như tỷ lệ tăng trưởng GDP, hiệu quả quản lý.
Võ Xuân Vinh và Trần Thị Phương Mai (2015) nghiên cứu đề tài “Lợi nhuận và rủi ro từ đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng thương mại Việt Nam”. Các tác giả sử dụng bộ dữ liệu của 37 NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn 8 năm từ 2006 đến 2013 với các biến đại diện cho lợi nhuận của ngân hàng là ROA và ROE.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong nghiên cứu là hồi quy theo các mô hình OLS gộp, FEM, REM và GMM. Kết quả nghiên cứu tìm ra các NHTM có mức độ đa dạng hóa thu nhập càng cao thì khả năng sinh lợi càng giảm. Bên cạnh đó, dư nợ cho vay và huy động của ngân hàng cũng có tác động ngược chiều đến lợi nhuận của các ngân hàng. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng cho vay và tốc độ tăng trưởng tài sản có tác động cùng chiều đến TSSL các ngân hàng.
Nguyễn Thị Diễm Hiền và Nguyễn Hồng Hạt (2016) đã nghiên cứu thu nhập ngoài lãi và hiệu quả tài chính của các NHTM. Đề tài được thực hiện dựa trên mẫu dữ liệu của 33 ngân hàng TMCP Việt Nam giai đoạn 2006-2013 với việc sử dụng mô hình Pooled, mô hình tác động cố định FEM và mô hình tác động ngẫu nhiên REM. Các tác giả đã tìm ra được thu nhập ngoài lãi, tỷ lệ thu nhập lãi trên tổng tài sản, biến giả tăng trưởng tài sản, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản có tác động cùng chiều với hiệu quả tài chính. Bên cạnh đó, logarit tự nhiên tổng tài sản, tỷ lệ VCSH trên TTS, tốc độ tăng trưởng GDP tỷ lệ tiền gửi trên tổng tài sản có tác động ngược chiều với hiệu quả tài chính. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
Thân Thị Thu Thuỷ và Trương Mỹ Kim (2017) nghiên cứu các nhân tố nội tại và nhân tố vĩ mô của nền kinh tế đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, các tác giả đã xem xét ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính 2008-2010 đến tỷ suất sinh lợi tại các ngân hàng đang niêm yết. Bài viết sử dụng dữ liệu bảng với hai mô hình hồi quy là mô hình tác động cố định FEM và mô hình tác động ngẫu nhiên REM để đánh giá mức độ tác động của các nhân tố và khủng hoảng tài chính năm 2008-2010 đối với tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE). Kết quả nghiên cứu cho thấy, bên cạnh các nhân tố có ảnh hưởng tương tự nhau đối với ROA và ROE thì cũng có các nhân tố ảnh hưởng khác nhau đến ROA, ROE như vốn chủ sở hữu có ảnh hưởng tích cực đến ROA nhưng có ảnh hưởng tiêu cực đến ROE, tiền gửi khách hàng và tính thanh khoản có ảnh hưởng tiêu cực đến ROA nhưng không có tác động đến ROE. Ngoài ra kết quả cũng cho thấy khủng hoảng tài chính có ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi tại các NHTM niêm yết với độ trễ nhất định.
Nguyễn Thị Thu Hiền (2017) nghiên cứu các yếu tố đặc trưng xác định khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam. Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu được thu thập từ BCTC 22 NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2006-2015. Tác giả sử dụng phân tích mô hình hồi quy nhằm nhận diện các yếu tố bên trong ảnh hưởng đến ROA và ROE của các NHTMCP Việt Nam . Kết quả cho thấy rằng cho thu nhập phi lãi trên tài sản, vay trên tổng tài sản, dự phòng rủi ro tín dụng trên cho vay, chi phí trả lãi trên nợ phải trả ảnh hưởng cùng chiều với khả năng sinh lời của ngân hàng. Trong khi đó, nợ xấu, chi phí hoạt động trên thu nhập và quy mô hội đồng thành viên có tương quan nghịch với khả năng sinh lời. Nghiên cứu chưa tìm thấy bằng chứng có ý nghĩa thống kê về ảnh hưởng của các biến đại diện cho quản trị rủi ro thanh khoản, cấu trúc nguồn vốn, kiểm soát chi phí và quy mô.
Lê Đồng Duy Trung (2020) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của 30 NHTM bao gồm 04 NHTM cổ phần có vốn nhà nước chi phối, 25 NHTM cổ phần tư nhân trong nước và 01 NHTM nước ngoài (ShinhanBank Việt Nam). Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính hàng năm của các NHTM trên trong giai đoạn từ 2009-2017. Tác giả đã ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến cả ROA và ROE. Kết quả ước lượng cho thấy quy mô tổng tài sản tác động dương đến ROA có ý nghĩa thống kê tại mức 1%, tuy nhiên tác động này không có ý nghĩa thống kê với ROE. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tác động dương đến ROA nhưng tác động âm đến ROE, thu nhập lãi cận biên tác động dương đến cả ROA và ROE, tỷ lệ dư nợ trên tiền gửi khách hàng tác động âm đến ROA nhưng không có ý nghĩa thống kê với ROE. Tỷ lệ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng và tỷ lệ chi phí hoạt động tác động âm đến cả ROA và ROE. Tỷ lệ tập trung thị trường tác động âm tới ROA nhưng tác động dương đến ROE. Tốc độ tăng trưởng cung tiền có tác động dương đến ROA trong khi không có ý nghĩa thống kê với ROE. Tỷ lệ lạm phát tác động dương đối với cả ROA và ROE.
Nguyễn Thị Thanh Bình và cộng sự (2022) đã sử dụng mô hình hồi quy OLS với biến phụ thuộc là ROA và các biến độc lập là quy mô ngân hàng, chi phí hoạt động, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ cho vay trên tiền gửi khách hàng, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản, chỉ số giá tiêu dùng và hình thức sở hữu để đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của NHTM. Bộ dữ liệu được nhóm tác giả thu thập trên cơ sở báo cáo tài chính được kiểm toán đã được công bố tại website của 24 NHTM niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2017- 2020. Kết quả định lượng cho thấy tỷ lệ nợ xấu và lạm phát không có ý nghĩa thống kê. Quy mô ngân hàng có tác động thuận chiều với ROA, tỷ lệ chi phí hoạt động, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản và hình thức sở hữu tác động ngược chiều với ROA.
2.3.2. Các nghiên cứu nước ngoài Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
Vincent và cộng sự (2013) thực hiện nghiên cứu về hiệu quả hoạt động tài chính của NHTM tại Kenya với dữ liệu của 37 NHTM tại Kenya trong giai đoạn 2001 – 2010 với các yếu tố nội tại và các yếu tố vĩ mô nền kinh tế. Các tác giả đã tìm ra được mối quan hệ cùng chiều của tỷ lệ lợi nhuận/tổng lợi nhuận, tỷ lệ VCSH/TTS với hiệu suất của ngân hàng. Trong đó các yếu tố như tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ, lại có quan hệ nghịch chiều với TSSL. Mặt khác kết quả nghiên cứu cũng cho rằng các yếu tố vĩ mô không đóng góp đáng kể vào TSSL mà thay vào đó là các quyết định của ban quản lý và lãnh đạo ngân hàng.
San và cộng sự (2013) thực hiện nghiên cứu về những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng ở quốc gia Malaysia giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2009, nhóm tác giả đã nghiên cứu đặc điểm đặc thù của NHTM và các yếu tố vĩ mô trong nền kinh tế tác động đến hoạt động tài chính của ngân hàng cũng như TSSL của ngân hàng. Nhóm nghiên cứu sử dụng ba chỉ tiêu đo lường yếu tố lợi nhuận của NHTM đó là ROA, ROE, NIM .Trong ba biến giải thích trên thì ROA được xem là phù hợp nhất để lý giải về khả năng sinh lời của NHTM và trong đó tỷ lệ VCSH/TTS, quy mô ngân hàng, tính thanh khoản, có tương quan đồng biến với lợi nhuận. Ngược lại thì tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, tỷ lệ chi phí trên tổng thu nhập lại có mối quan hệ nghịch biến với lợi nhuận, đồng thời các biến số thuộc yếu tố thuộc môi trường vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát không có ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng.
Muhammad (2014) trong nghiên cứu các nhân tố tác động đến khả năng sinh lợi của NH từ dữ liệu được thu thập từ các ngân hàng của Anh, thông qua số liệu thứ cấp của 73 NHTM trong giai đoạn 2006 – 2012. Tác giả đã tìm thấy mối quan hệ đồng biến giữa ROA, ROE và các nhân tố đó là quy mô ngân hàng, tỷ lệ vốn cho vay, tiền gửi, tỷ lệ thanh khoản và lãi suất. Ngược lại thì các nhân tố tỷ lệ lạm phát tốc độ tăng trưởng GDP lại có mối quan hệ ngược chiều với ROA, ROE.
Theo Nicole cộng sự (2015) trong nghiên cứu về các nhân tố tác động đến lợi nhuận của ngân hàng, bằng chứng ở 27 quốc gia EU, nghiên cứu này được nhóm tác giả thực hiện điều tra, khảo sát tại 1098 ngân hàng tại 27 quốc gia trong khu vực EU giai đoạn 2004 – 2011. Nhóm tác giả đã đề xuất mô hình thực nghiệm để nghiên cứu và kết quả của nghiên cứu này như sau: Yếu tố quy mô ngân hàng có tác động cùng chiều với ROA nhưng lại không tác động đến ROE; các loại rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản cũng như tỷ lệ chi phí trên thu nhập thì có quan hệ ngược chiều với cả ROA, ROE. Đối với các yếu tố vĩ mô thì GDP có quan hệ đồng biến với ROA, ROE và yếu tố lạm phát không có quan hệ với TSSL của ngân hàng. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
Shahidul và Ichi (2016) xem xét các yếu tố quyết định tỷ suất lợi nhuận ròng của ngân hàng thông qua việc nghiên cứu các yếu tố quyết định tỷ suất lợi nhuận ròng của các ngân hàng (NIM) tại 04 quốc gia Nam Á (Băng-la-đét, Ấn Độ, Nê-pan và Pa-ki-xtan). Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu bảng của 230 ngân hàng với phương pháp nghiên cứu là mô hình hồi quy tác động cố định (FEM) trong giai đoạn năm 1997-2012. Nghiên cứu chỉ ra rằng, tỷ lệ thanh khoản, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, dự trữ bắt buộc và chi phí hoạt động trên tổng tỷ lệ tài sản ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất lợi nhuận ròng. Ngược lại, quy mô ngân hàng tương đối, mức độ tập trung của thị trường và tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng ngược chiều với tỷ suất lợi nhuận ròng.
Birchwood và cộng sự (2017) đã nghiên cứu lãi suất biên và quy định ngân hàng tại Trung Mỹ và Ca-ri-bê. Tác giả sử dụng dữ liệu trên báo cáo tài chính của 134 ngân hàng thương mại từ 17 quốc gia ở Trung Mỹ và Ca-ri-bê trong giai đoạn 1998 -2014. Bằng phương pháp nghiên cứu định lượng và sử dụng phân tích hồi quy GMM. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, sức mạnh thị trường ngân hàng, chi phí hoạt động, rủi ro tín dụng và thanh khoản tác động cùng chiều với lợi nhuận ngân hàng.
Homaidi và cộng sự (2018) trong nghiên cứu về sự ảnh hưởng của các nhân tố đến thu nhập của ngân hàng thương mại tại Ấn Độ, nhóm tác tác giả đã sử dụng số liệu thứ cấp của 60 ngân hàng thương mại tại quốc gia này trong giai đoạn 2008 – 2017. Cùng với phương pháp nghiên cứu định lượng, nhóm tác giả sử dụng mô hình Pooled OLS, FEM, REM và GMM để kết luận kết quả nghiên cứu. Trong đó, nhóm tác giả sử dụng NIM để đo lường cho lợi nhuận của các ngân hàng tại Ấn Độ. Các nhân tố vĩ mô bao gồm GDP và tỷ lệ lạm phát có tác động tiêu cực đến NIM, ngược lại, các nhân tố quy mô ngân hàng, tỷ lệ tài sản đảm bảo, số chi nhánh ngân hàng, tỷ lệ đòn bẩy tài chính có tác động tích cực đến NIM.
Sanko và cộng sự (2019) trong nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập tại các ngân hàng thương mại xây dựng tại Ethiopia, nhóm tác giả đã sử dụng dữ liệu thứ cấp của 13 ngân hàng trong giai đoạn 2012 – 2017. Cùng với phương pháp nghiên cứu định lượng, nhóm tác giả sử dụng mô hình Pooled OLS, FEM, REM. Trong đó, nhóm tác giả đo lường lợi nhuận thông qua ROA, ROE, NIM. Kết quả nghiên cứu cho thấy tài sản ngân hàng, đòn bẩy tài chính, tỷ lệ tiền gửi có tác động tích cực đến lợi nhuận và tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP. Ngược lại, tỷ lệ lạm phát, các khoản nợ có tác động tiêu cực đến lợi nhuận ngân hàng.
Al-Homaidi và cộng sự (2020) nghiên cứu tác động của các yếu tố bên trong và bên ngoài ngân hàng ảnh hưởng tới HQHĐ kinh doanh của 37 ngân hàng thương mại được niêm yết trên sàn chứng khoán Bombay Exchange (BSE), Ấn Độ trong khoảng thời gian từ 2008 đến 2017. Các mô hình FEM, REM và GMM được sử dụng. Kết quả cho thấy quy mô ngân hàng, chất lượng tài sản, tính thanh khoản, quản lý tài sản, đa dạng hóa thu nhập và biên lãi ròng là những yếu tố bên trong quan trọng ảnh hưởng đến ROA. Mức an toàn vốn, tiền gửi, hiệu quả hoạt động, tổng sản phẩm trong nước và tỷ lệ lạm phát được cho là có ảnh hưởng ngược chiều đến ROA. Hơn nữa, kết quả chỉ ra rằng mức độ an toàn vốn, quy mô ngân hàng, hiệu quả hoạt động, tổng sản phẩm quốc nội và tỷ lệ lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến ROA. Tuy nhiên, chất lượng tài sản, đa dạng hóa thu nhập và chiến lược quản trị tài sản thể hiện tác động tích cực đến ROA nhưng tính thanh khoản, tiền gửi, biên lãi ròng và biến số thu nhập ngoài lãi có tác động không đáng kể lên ROA.
2.3.3. Khoảng trống nghiên cứu Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
Sau quá trình lược khảo tài liệu, tác giả nhận thấy luận văn có thể khai thác những khoảng trống nghiên cứu sau:
Thứ nhất, đa phần các nghiên cứu ít tập trung vào chi phí hoạt động hay hiệu quả quản lý chi phí của ngân hàng. Trong khi đó tại các NHTM thì việc để cạnh tranh được với các ngân hàng khác thì cần phải bỏ ra rất nhiều chi phí nhằm thu hút, tạo sự ảnh hưởng đến khách hàng. Mặt khác, đó chính là các chi phí liên quan đến sự đầu tư về công nghệ, con người tại ngân hàng nhằm tạo ra bộ máy vận hành (Nguyễn Thị Mỹ Linh và Nguyễn Thị Ngọc Hương 2015; Birchwood và cộng sự, 2017). Do đó, nếu việc quản lý các chi phí này không hiệu quả thì việc doanh thu được tạo ra dù nhiều nhưng chi phí lớn cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến TSSL.
Thứ hai, nhiều nghiên cứu ngoài nước không tập trung vào chất lượng tín dụng đó là nợ xấu hay tỷ lệ dự phòng rủi ro. Mặc dù, San và cộng sự (2013) cho rằng đây được xem là yếu tố cho thấy mức độ rủi ro tiềm ẩn tại các ngân hàng vì khi các ngân hàng đẩy mạnh tăng trưởng dư nợ tín dụng sẽ nới lỏng các công cụ quản lý hoạt động tín dụng thì sẽ tạo ra rủi ro tín dụng tiềm ẩn. Chính điều này sẽ làm hạn chế lợi nhuận tại các ngân hàng do việc phải trích lập chi phí để bảo hiểm cho các khoản vay. Vì vậy nó ảnh hưởng rất lớn đến TSSL tại các NHTM.
Thứ ba, các nghiên cứu trong và nước ngoài vẫn ít tập trung vào hoạt động đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng. Trong khi đó, thời điểm hiện nay thì các hoạt động đầu tư khác của ngân hàng đêm lại nguồn thu nhập ngoài lãi đáng kể cho ngân hàng. Hay nói cách khác, vào thời điểm mà các NHTM cạnh tranh nhau lãi suất cho vay thì khả năng dư nợ sẽ có phần suy giảm vì phải chia sẻ lượng khách hàng, lúc này thì các NHTM thì cần phải có các nguồn thu đến từ các hoạt động khác nhằm thu được phần lợi nhuận thay thế cho tín dụng truyền thống. Do đó, việc đa dạng hóa các nguồn thu của ngân hàng cũng đóng góp một phần không nhỏ đến việc nâng cao tỷ suất sinh lời chung cho các NHTM.
Tóm lại, đã có nhiều nghiên cứu về hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM trên thế giới và tại Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu thực hiện cho những quốc gia khác nhau sẽ cung cấp thêm nhiều bằng chứng thực nghiệm, vì vậy cần thiết thực hiện đề tài các nhân tố ảnh hưởng đến HQHĐKD tại Việt Nam. Đối với các nghiên cứu trong nước, cũng có một số nghiên cứu của các tác giả về chủ đề này, tuy nhiên thời gian nghiên cứu chưa cập nhật và đầy đủ nên tác giả thực hiện cho một giai đoạn nghiên cứu mới từ năm 2011 – 2021 với mong muốn lấp đầy các khoảng trống nghiên cứu về mặt thời gian. Hơn nữa các nghiên cứu thực hiện các mô hình với các biến độc lập khác nhau, cung cấp những kết quả nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh khác nhau, tác giả thực hiện nghiên cứu này để chứng minh thêm các yếu tố theo mô hình.
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Nội dung chương 2 giới thiệu tổng quan về khái niệm tỷ suất sinh lời cũng như các cách đo lường tỷ suất sinh lời và trong nghiên cứu này các tác giả sử dụng hai tỷ số ROA, ROE để đo lường cho TSSL của ngân hàng. Đồng thời, tại chương này tác giả đã tổng hợp khung lý thuyết cũng như chiều hướng tác động của các yếu tố đến tỷ suất sinh lời của NHTM, trong đó các nhân tố được chi vào hai nhóm chính đó là thuộc nội tại bên trong ngân hàng và bên ngoài ngân hàng. Ngoài ra, chương 2 cũng đã tiến hành lược khảo tổng quan các nghiên cứu trước đây về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Từ việc lược khảo đó tác giả rút ra các khoảng trống nghiên cứu đó là các nghiên cứu ít tập trung vào chi phí hoạt động hay hiệu quả quản lý chi phí của ngân hàng. Ngoài ra, các nghiên cứu không tập trung vào chất lượng tín dụng đó là nợ xấu hay tỷ lệ dự phòng rủi ro và hoạt động đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng. Các khoảng trống nghiên cứu này sẽ làm cơ sở cho tác giả đề xuất mô hình và giả thuyết nghiên cứu cho chương sau ứng dụng vào bối cảnh hệ thống NHTM Việt Nam. Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: PPNC ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng
![Luận văn: Kết quả nghiên cứu đến hiệu quả kinh Doanh của NH](https://dichvuvietluanvan.com/wp-content/uploads/2021/07/Chuyen-nganh-Viet-Thue-Tieu-Luan.jpg)
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: lamluanvan24h@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời các ngân hàng […]