Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh về cổ phiếu chào bán ra công chúng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. GIỚI THIỆU
1.1. Đặt vấn đề
Trong xu thế hội, những vấn đề nghiên cứu xoay quanh cổ phiếu chào bán ra công chúng (sau đây được viết tắt là Cổ phiếu chào bán) là cực kỳ quan trọng vì Cổ phiếu chào bán cho phép cấp vốn trung và dài hạn, được so sánh như đòn bẩy để các doanh nghiệp có nguồn lực đầu tư, phát triển. Trong đó, hai vấn đề nghiên cứu quan trọng nhất liên quan đến Cổ phiếu chào bán là chào bán cổ phiếu ra công chúng (sau đây được viết tắt là Chào bán cổ phiếu) và giao dịch cổ phiếu chào bán ra công chúng (sau đây được viết tắt là Giao dịch cổ phiếu). Chào bán cổ phiếu đóng vai trò tạo hàng còn Giao dịch cổ phiếu đóng vai trò tạo thanh khoản cho thị trường.
Ngày 11/7/1998, Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành nhằm thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đánh dấu một mốc lịch sử đối với sự ra đời của thị trường chứng khoán (sau đây được viết tắt là Thị trường chứng khoán) Việt Nam nói chung và thị trường cổ phiếu (sau đây được viết tắt là Thị trường cổ phiếu) nói riêng. Thị trường cổ phiếu đã có nhiều bước phát triển và đạt được nhiều thành tựu, Thị trường cổ phiếu được đảm bảo hoạt động tốt đã mở ra hướng tiếp cận nguồn vốn trung hạn và dài hạn quan trọng bậc nhất của nền kinh tế. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Ngày 26/6/2006, Quốc hội đã thống nhất ban hành Luật Chứng khoán có hiệu lực thi hành ngày 01/7/2007. Trong quá trình tổ chức thực hiện, nhà nước đã luôn lấy ý kiến của mọi giai tầng cho việc thay đổi nội dung quy định của pháp luật liên quan đến cổ phiếu chào bán ra công chúng làm quy tắc xử sự chung thống nhất từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật cũng như các công trình khoa học nói trên chưa hợp nhất tại một điểm để có thể làm cơ sở áp dụng hoạt động này một cách bền vững trong thực tiễn. Hay nói cách khác, các quy định sửa đổi, bổ sung của pháp luật chưa thực sự phù hợp với thực tế về Cổ phiếu chào bán trên Thị trường cổ phiếu nước ta.
1.2. Tính cấp thiết của đề tài:
Trải qua hơn 25 năm vận hành, Thị trường cổ phiếu nước ta đã không ngừng hoàn thiện về cấu trúc và phát triển mạnh mẽ, trở thành kênh huy động vốn trung hạn, dài hạn quan trọng cho nền kinh tế. Tính đến ngày 30/06/2023, vốn hóa Thị trường cổ phiếu đạt 5,78 triệu tỷ đồng, tương đương 60,8% GDP (tổng sản phẩm quốc nội) năm 2022.1 Thị trường cổ phiếu nước ta đã chứng tỏ sức hấp dẫn mạnh mẽ với các nhà đầu tư, thể hiện bằng việc số lượng nhà đầu tư tham gia vào giao dịch ngày càng tăng. Đến cuối tháng 2 năm 2023, tổng số lượng tài khoản chứng khoán tại Việt Nam đạt gần 7 triệu, con số này gấp 5,83 lần nếu so với năm 2011 (1,2 triệu tài khoản).
TTCP phát triển như vũ bão, pháp luật về Thị trường cổ phiếu cũng có nhiều đổi mới và được đánh dấu mốc với sự ra đời của Luật Chứng khoán năm 2019 số 54/2019/QH14 ngày 26/11/2019 (Sau đây gọi tắt là LCK2019) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021. Các vấn đề chẳng hạn như: bán khống; giao dịch trong ngày (thời gian rút ngắn khi thanh toán xuống T+0); ngắt mạch thị trường,… là những nội dung mới đối với pháp luật về Cổ phiếu chào bán.
Trong bối cảnh Thị trường cổ phiếu phát triển ngày càng tăng nhanh và mạnh, cần có khung pháp lý phát triển tương đương nhằm điều chỉnh các quan hệ trên Thị trường cổ phiếu. Bên cạnh những thành tựu đạt được, pháp luật về Cổ phiếu chào bán vẫn còn những quy định chưa phù hợp với hoàn cảnh hiện nay, cần phải thay đổi; vẫn còn những vấn đề mà pháp luật chưa điều chỉnh, làm các bên liên quan lúng túng khi mắc phải; hoặc hệ thống các cơ quan nhà nước có liên quan đến Thị trường cổ phiếu cũng cần phải được củng cố và thay đổi để theo kịp quy mô và tốc độ lớn mạnh của Thị trường cổ phiếu. Vì vậy, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh về cổ phiếu chào bán ra công chúng” nhằm:
Thứ nhất, nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống các quy định hiện hành liên quan tới Cổ phiếu chào bán vì đối với nền kinh tế, đây là những hoạt động rất quan trọng, có sự phát triển bùng nổ trong những năm gần đây, nhận được sự quan tâm lớn.
Thứ hai, đề tài này cũng nhằm đánh giá Cổ phiếu chào bán về khía cạnh thực trạng pháp luật trong bối cảnh Thị trường cổ phiếu còn nhiều khó khăn, vướng mắc chưa thực hiện được hoặc việc thực hiện còn chưa thỏa đáng, từ đó đề xuất kiến nghị để hoàn thiện pháp luật liên quan ở Việt Nam. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Luận văn nghiên cứu những chế định của pháp luật điều chỉnh về Cổ phiếu chào bán bao gồm việc nghiên cứu khái quát chung đối với Cổ phiếu chào bán và các quy định về Cổ phiếu chào bán.
Luận văn cũng đưa đến thông tin, kiến thức về Cổ phiếu chào bán cho người đọc, làm rõ các vấn đề về Cổ phiếu chào bán đặc biệt là những vấn đề mới phát sinh trong thời gian gần đây.
Công trình cũng nghiên cứu nhằm nêu lên những vấn đề còn bất cập của pháp luật về Cổ phiếu chào bán và thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó có thể đưa ra những kiến nghị hoàn thiện.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
Một số mục tiêu cụ thể cần đạt để đạt mục đích tổng quát:
Thứ nhất, luận văn cần nghiên cứu khái quát về Cổ phiếu chào bán và quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về Cổ phiếu chào bán.
Mục tiêu thứ hai của luận là đánh giá các quy định pháp luật hiện hành của Thị trường cổ phiếu liên quan đến Cổ phiếu chào bán, đặc biệt là các quy định mới đi kèm với việc nghiên cứu về vai trò của pháp luật về Cổ phiếu chào bán cụ thể về hình thức, chủ thể, điều kiện, trình tự thủ tục, quy trình,…
Thứ ba, bài viết muốn nghiên cứu về thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về Cổ phiếu chào bán ở nước ta từ năm 2010 đến nay.
Mục tiêu thứ tư của luận văn là đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về Cổ phiếu chào bán từ năm 2010 đến nay. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật ở nước ta về Cổ phiếu chào bán. Hoạt động về Cổ phiếu chào bán bao gồm hoạt động chào bán, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư Cổ phiếu chào bán, cung cấp dịch vụ về Cổ phiếu chào bán, công bố thông tin, quản trị công ty đại chúng và các hoạt động khác). Tuy nhiên, do dung lượng của luận văn có hạn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về Chào bán cổ phiếu và Giao dịch cổ phiếu vì đây là hai khía cạnh quan trọng nhất của Cổ phiếu chào bán.
Về thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu về Cổ phiếu chào bán trong khoảng thời gian từ khi Luật số 62/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán năm 2006 (sau đây được viết tắt là LCK2010) được Quốc hội ban hành ngày 24/11/2010 và có hiệu lực ngày 01/07/2011 đến nay nhưng tập trung nhất vào khoảng thời gian từ khi LCK2019 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021 đến thời điểm nghiên cứu. Về không gian, luận văn nghiên cứu về Cổ phiếu chào bán trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Luận văn đã sử dụng các phương pháp sau đây:
Phương pháp phân tích: phương pháp này nhằm làm rõ những quy định của pháp luật về Cổ phiếu chào bán cũng như các số liệu một cách đầy đủ và toàn diện. Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các chương của bài viết.
Phương pháp so sánh: nhằm so sánh những điểm giống nhau và khác nhau của các quy định pháp luật, thực tiễn áp dụng về Cổ phiếu chào bán để kết luận để làm sáng tỏ vấn đề. Phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong chương 2 và chương 3 của bài viết.
Phương pháp tổng hợp: tổng hợp những thông tin, số liệu, quan điểm từ những nguồn tài liệu khác nhau từ đó có cái nhìn chính xác về vấn đề đang nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các chương của bài viết.
Phương pháp diễn dịch: nhằm triển khai và làm sáng tỏ luận điểm, cung cấp luận cứ, diễn giải cho người đọc nắm bắt được luận điểm mà luận văn trình bày.
Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các chương của bài viết.
Phương pháp quy nạp: tổng hợp các luận điểm, luận cứ đưa ra và đưa đến kết luận. Phương pháp này được sử dụng trong tất cả các chương của bài viết.
Ngoài ra, bài nghiên cứu còn sử dụng các phương pháp khác để làm rõ các quy định của pháp luật, các số liệu thực tế về Cổ phiếu chào bán và đưa đến kết luận.
5. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, luận văn cần làm rõ các nội dung sau:
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến Cổ phiếu chào bán như khái niệm, đặc điểm, quá trình hình thành và vai trò của pháp luật về Cổ phiếu chào bán.
Thứ hai, luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành của Thị trường cổ phiếu liên quan đến Cổ phiếu chào bán và những quy định này trong giai đoạn hiện nay có gì mới so với các quy định của những giai đoạn trước, từ đó nêu lên vai trò của pháp luật về Cổ phiếu chào bán đối với Nhà nước, nền kinh tế và các nhà đầu tư.
Thứ ba, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về Chào bán cổ phiếu ở nước ta từ năm 2010 đến nay cũng như thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về Giao dịch cổ phiếu ở nước ta từ năm 2010 đến nay. Từ những thực tiễn trên, bài viết nêu lên những thành công của quy định pháp luật cũng như những hạn chế, bất cập còn tồn đọng của lĩnh vực này. Cuối cùng, từ những thực tiễn nêu trên, luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về Cổ phiếu chào bán.
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn nghiên cứu về Cổ phiếu chào bán nhằm bổ sung để hoàn thiện kiến thức khoa học pháp luật về đề tài này.
Việc nghiên cứu các vấn đề được đề cập đến trong luận văn nhằm góp phần thể hiện những phát hiện khoa học để đưa đến những nhận thức mới có giá trị tiền đề cho những nghiên cứu khoa học về Cổ phiếu chào bán về sau trong hoàn cảnh thực tiễn Thị trường cổ phiếu có nhiều thay đổi cả về chất và lượng như hiện nay.
Những kiến nghị của đề tài có thể làm cơ sở cho các nhà làm luật, làm chính sách hoàn thiện các quy định đối với pháp luật về Cổ phiếu chào bán và làm tiền đề để thực hiện mục tiêu phát triển pháp luật về Cổ phiếu chào bán nhằm đảm bảo tính minh bạch, tính công bằng trên thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng (sau đây được viết tắt là Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng). Đề tài của luận văn cũng thể hiện tính tiên phong, mới mẻ, chuyên sâu trong nghiên cứu thuộc phạm vi ngành luật kinh tế của trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh.
7. TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU
Trải qua 17 năm kể từ khi Quốc hội ban hành Luật Chứng khoán năm 2006 (Sau đây gọi tắt là LCK2006) vào ngày 29/6/2006, được thi hành kể từ ngày 01/01/2007 và LCK2019 số 54/2019/QH14 ngày 26/11/2019 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021, đề tài Cổ phiếu chào bán mà cụ thể là Chào bán cổ phiếu và Giao dịch cổ phiếu đã được nghiên cứu trong một số công trình như: Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Giáo trình Luật Chứng khoán do TS. Nguyễn Văn Tuyến làm chủ biên năm 2011; – Đề tài “Một số vấn đề về dự thảo Luật Chứng khoán liên quan đến chào bán chứng khoán ra công chúng” của ThS. Nguyễn Minh Hằng đăng trong Tạp chí luật học số 4 năm 2006;
Đề tài luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về phát hành chứng khoán công ty ở Việt Nam – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Minh Hiếu năm 2008;
Đề tài luận văn thạc sĩ luật học “Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Minh Thu năm 2008;
Đề tài luận văn thạc sĩ luật học “Một số vấn đề pháp lý về chào bán chứng khoán ra công chúng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước” của tác giả Phạm Thị Thanh Hương năm 2010;
Đề tài luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng của ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Thanh Tâm năm 2014;
Đề tài luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Nam năm 2016.
Đề tài luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng” của tác Phạm Thị Vân Anh năm 2022.
Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu của các giáo trình chứng khoán, cụ thể được đề cập ở đây là giáo trình Luật Chứng khoán do TS. Nguyễn Văn Tuyến làm chủ biên chưa đề cập sâu về Chào bán cổ phiếu và Giao dịch cổ phiếu mà chỉ trình bày bao quát chung về chứng khoán.
Đề tài “Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng theo pháp luật Việt Nam” và đề tài “Pháp luật về Chào bán cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam” lại là hai đề tài không nghiên cứu bao quát về Chào bán cổ phiếu và Giao dịch cổ phiếu mà tập trung nghiên cứu chuyên sâu các mảng nhỏ của đề tài này như chào bán lần đầu, chào bán của ngân hàng cổ phần.
Đề tài “Một số vấn đề pháp lý về chào bán chứng khoán ra công chúng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật một số nước” là đề tài chủ yếu tập trung vào việc so sánh cụ thể một số quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng của Việt Nam và một số nước trên thế giới. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Các đề tài “Một số vấn đề về dự thảo Luật Chứng khoán liên quan đến chào bán chứng khoán ra công chúng”, “Pháp luật về phát hành chứng khoán công ty ở Việt Nam – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” không còn phù hợp với các quy định pháp luật được ban hành mới trong hoàn cảnh thay đổi của Luật Chứng khoán Việt Nam hiện nay do có phạm vi thời gian nghiên cứu đã quá lâu so với hiện nay.
Đề tài “Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam” mặc dù được viết vào khoảng thời gian khá gần đây – năm 2016, tuy nhiên, đề tài trên vẫn chưa theo kịp bước phát triển của Chào bán cổ phiếu và Giao dịch cổ phiếu trong bối cảnh Việt Nam hiện nay khi các văn bản pháp luật mới như LCK2019 số 54/2019/QH14, các Nghị định, Thông tư được ban hành kèm theo ra đời.
Đề tài “Pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng” chỉ mới đề cập đến Chào bán cổ phiếu chứa chưa nghiên cứu song song cả hai vấn đề là Chào bán cổ phiếu và Giao dịch cổ phiếu. Do đó chưa thể hiện được mối quan hệ, sự tương tác giữa hai vấn đề trên.
Như vậy, các công trình nghiên cứu mà luận văn vừa nêu phía trên còn có hạn chế là đề tài hoặc là quá rộng, chưa đi sâu vào nghiên cứu về Chào bán cổ phiếu mà cụ thể là Chào bán cổ phiếu và Giao dịch cổ phiếu, có đề tài lại nghiên cứu các vấn đề hẹp hơn về Cổ phiếu chào bán. Một số đề tài tuy đã đảm bảo về bao quát và nghiên cứu sâu về Cổ phiếu chào bán nhưng một phần đã không còn phù hợp với sự ra đời của các văn bản pháp luật mới về Cổ phiếu chào bán.
Pháp luật về Cổ phiếu chào bán có nhiều sự thay đổi, chuyển biến mới cũng tạo ra nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các tài liệu cụ thể là giáo trình, sách, luận án, luận văn, tạp chí, báo liên quan nghiên cứu về các quy định pháp luật mới về lĩnh vực này đặc biệt là trong bối cảnh LCK2019 mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 nên thực trạng áp dụng chưa có nhiều thời gian để thử nghiệm, đánh giá trên phương diện thực tiễn.
Do đó, tôi chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh về Cổ phiếu chào bán” nhằm nghiên cứu về vấn đề này trong bối cảnh pháp luật về Cổ phiếu chào bán có nhiều sự đổi mới tạo ra nhiều “khoảng trống” nghiên cứu còn bỏ ngỏ.
8. BỐ CỤC DỰ KIẾN CỦA LUẬN VĂN Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài của luận văn gồm 3 chương được trình bày cụ thể tên các chương, nội dung các chương và các tiểu mục như sau:
- CHƯƠNG 1. Lý luận chung về cổ phiếu chào bán ra công chúng
- CHƯƠNG 2. Quy định pháp luật điều chỉnh về cổ phiếu chào bán ra công chúng
- CHƯƠNG 3. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng từ năm 2010 đến nay và một số kiến nghị hoàn thiện
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHIẾU CHÀO BÁN RA CÔNG CHÚNG
1.1. Những khái luận cơ bản liên quan đến cổ phiếu chào bán ra công chúng
Trong thập kỷ vừa qua, cổ phiếu là từ khóa thu hút sự quan tâm lớn không chỉ đối với những nhà đầu tư cá nhân, tổ chức chuyên nghiệp mà còn dành được sự quan tâm của cả xã hội. Cổ phiếu trở thành một trong những hình thức đầu tư tâm điểm của xã hội những năm vừa qua xuất phát một phần từ việc đại dịch Covid-19 làm cho kinh tế phát triển chậm lại (GDP năm 2020 tăng 2,91%, GDP năm 2021 tăng 2,58%), lãi suất huy động giảm (ngân hàng Nhà nước trong năm 2020 liên tiếp điều chỉnh giảm 3 lần các mức lãi suất, năm 2021 tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng tiếp tục giảm lãi suất cho vay) khiến cho cổ phiếu trở thành kênh đầu tư hấp dẫn do có thể mang lại lợi nhuận cao trong điều kiện các kênh đầu tư truyền thống trở nên kém hấp dẫn. Tuy có sự thúc đẩy phát triển do đại dịch nhưng cổ phiếu không chỉ là kênh đầu tư nổi lên nhất thời mà là một kênh đầu tư hấp dẫn, còn nhiều tiềm năng phát triển vì với nền kinh tế, đây là kênh huy động vốn rất quan trọng. Cổ phiếu được chào bán có cách phân loại phổ biến nhất là cổ phiếu chào bán riêng lẻ và cổ phiếu chào bán ra công chúng (sau đây được viết tắt là Cổ phiếu chào bán). Trong đó, cổ phiếu chào bán riêng lẻ chỉ chiếm một phần nhỏ, cổ phiếu được phân tích trong luận văn này là Cổ phiếu chào bán.
1.1.1. Một số khái niệm, đặc điểm liên quan đến chào bán cổ phiếu ra công chúng
- Khái niệm chào bán cổ phiếu ra công chúng Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Theo khoản 2 Điều 4 Luật Chứng khoán năm 2019 (sau đây được viết tắt là LCK2019): “Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành (Chào bán)”. Dựa vào điểm a khoản 1 Điều 111 Luật doanh nghiệp năm 2020, có thể hiểu cổ phiếu là loại chứng khoán được công ty cổ phần (sau đây được viết tắt là Công ty cổ phần) chào bán, phần vốn cổ phần là phần vốn được chia thành nhiều phần bằng nhau từ vốn điều lệ của Công ty cổ phần.Như vậy, cổ phiếu là một loại chứng khoán vốn, loại chứng khoán xác nhận khoản vốn góp của cổ đông đối với tài sản của tổ chức chào bán và mang đến cho chủ sở hữu quyền hưởng thu nhập của doanh nghiệp hàng năm nếu có lãi và chia sẻ rủi ro với doanh nghiệp khi làm ăn thua lỗ hoặc phá sản.
Công chúng được định nghĩa là “đông đảo những người đọc, người nghe, người xem, nghe,…”. Ở khía cạnh kinh tế, chào bán cổ phiếu ra công chúng (sau đây được viết tắt là Chào bán cổ phiếu) là một hoạt động kinh doanh nhằm huy động vốn trung và dài hạn trên thị trường sơ cấp. Trong quan hệ đó, người nhận vốn là tổ chức chào bán và người cấp vốn là nhà đầu tư.
LCK2019 và những văn bản hướng dẫn không định nghĩa Chào bán cổ phiếu, tuy nhiên, căn cứ khoản 19 Điều 4 LCK2019 định nghĩa về chào bán chứng khoán ra công chúng thì: “Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức sau đây:
- Chào bán thông qua phương tiện thông tin đại chúng;
- Chào bán cho từ 100 nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;
- Chào bán cho các nhà đầu tư không xác định.”
Do cổ phiếu cũng là một loại chứng khoán căn cứ vào định nghĩa của cổ phiếu đã nêu trên nên Chào bán cổ phiếu có thể được định nghĩa là việc chào bán cổ phiếu theo một trong các phương thức sau đây: Chào bán cổ phiếu thông qua phương tiện thông tin đại chúng; chào bán cổ phiếu cho từ 100 nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; chào bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư không xác định.
Từ khái niệm được rút ra trên, có thể thấy Luật Chứng khoán định nghĩa Chào bán cổ phiếu dựa trên số lượng nhà đầu tư mua cổ phiếu và lấy mốc là từ 100 nhà đầu tư trở lên nhưng không tính nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Hai phương thức được đề cập đến còn lại cũng dẫn đến hệ quả là số lượng nhà đầu tư mua cổ phiếu có thể vượt qua 100 vì chào bán thông qua phương tiện thông tin đại chúng hay chào bán cho các nhà đầu tư không xác định đều là các phương thức mang tính phổ biến cao. Trong trường hợp lấy mốc “chào bán cổ phiếu cho từ 100 nhà đầu tư trở lên”, nhà đầu tư phải thỏa mãn điều kiện không phải là “nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp”. Theo khoản 1 Điều 11 LCK2019: “Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là nhà đầu tư có năng lực tài chính hoặc có trình độ chuyên môn về chứng khoán” bao gồm những nhà đầu tư được liệt kê tại điều này. Vậy, dù có đến 1000 nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp mua cổ phiếu thì cũng không phải là Chào bán cổ phiếu mà chỉ là chào bán cổ phiếu riêng lẻ. Luật Chứng khoán quy định điều kiện này nhằm thể hiện tính “công chúng”, tính phổ biến rộng rãi của hình thức chào bán. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
- Đặc điểm chào bán cổ phiếu ra công chúng
Thứ nhất, Chào bán cổ phiếu mang tính đại chúng, quy mô rộng rãi, số lượng lớn (tính “công chúng”). Tính công chúng là đặc điểm quan trọng nhất vì nó là đặc điểm cốt lõi trong định nghĩa về hoạt động Chào bán cổ phiếu, cụ thể: “Chào bán thông qua phương tiện thông tin đại chúng” thể hiện tính đại chúng, rộng rãi, rất nhiều người có thể tiếp cận được;
Chào bán cho từ 100 nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp” thể hiện quy mô lớn, số lượng nhà đầu tư mua lớn thì số lượng cổ phiếu trong đợt chào bán cũng phải lớn tương xứng để thỏa mãn nhu cầu nhà đầu tư; “Chào bán cho các nhà đầu tư không xác định” thể hiện tính không giới hạn trong hoạt động Chào bán cổ phiếu. Việc Chào bán cổ phiếu được thực hiện trên một phạm vi lớn, thu hút một số lượng lớn nhà đầu tư bỏ vốn để mua cổ phiếu trong đợt chào bán bao gồm nhà đầu tư là cá nhân, tổ chức, nhà đầu tư chuyên nghiệp, nhà đầu tư trong nước và cả nước ngoài.
Thứ hai, việc Chào bán cổ phiếu chỉ được thực hiện sau khi chủ thể chào bán đã đăng ký với cơ quan nhà nước quản lý thị trường chứng khoán (sau đây được viết tắt là Thị trường chứng khoán). Theo khoản 1 Điều 16 LCK2019 thì Công ty cổ phần trước khi Chào bán cổ phiếu phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (sau đây được viết tắt là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) trừ một số trường hợp đặc biệt được nêu ở khoản 2 cùng điều này. Các hoạt động về chứng khoán là những hoạt động liên quan đến đầu tư mang tính rủi ro cao bởi vì hàng hóa trao đổi trên Thị trường chứng khoán chủ yếu là cổ phiếu, khoảng thời gian từ lúc nhà đầu tư mới đầu tư đến lúc đạt kết quả là khoảng thời gian tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trong khoảng thời gian này, giá cả của cổ phiếu chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố chẳng hạn như tình hình kinh tế trong nước và trên thế giới, tình hình kinh doanh của tổ chức phát hành, tin giả, yếu tố tâm lý của các chủ thể trên thị trường và các hành vi vi phạm nhằm thu lợi bất chính khác trên TTCK. Khi rủi ro xảy ra, nhà đầu tư và các tổ chức Chào bán cổ phiếu đều là những chủ thể có thể phải chịu thiệt hại, thậm chí, khi Thị trường chứng khoán xảy ra rủi ro có thể dẫn đến “hiệu ứng Domino” gây ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Do đó, việc hoạt động Chào bán cổ phiếu được quản lý và giám sát bởi cơ quan nhà nước, cụ thể là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là hoàn toàn hợp lý và cần thiết;
Ba là, chủ thể Chào bán cổ phiếu chỉ có thể là Công ty cổ phần hoặc một số chủ thể đặc biệt khác chứ không đa dạng như chào bán chứng khoán ra công chúng. Chủ thể chào bán chứng khoán ra công chúng rất đa dạng, có thể gồm doanh nghiệp, Chính phủ hoặc chính quyền địa phương còn đối với Chào bán cổ phiếu thì chủ thể chào bán chỉ có thể là Công ty cổ phần vì chỉ có Công ty cổ phần mới có thể chào bán cổ phiếu. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Bốn là, mục đích của Chào bán cổ phiếu là huy động vốn trung và dài hạn. Huy động vốn trung và dài hạn cũng là mục đích của chào bán chứng khoán nói chung. Khác với huy động vốn thông qua thị trường tiền tệ (hay còn gọi là thị trường tài chính ngắn hạn là nơi diễn ra các hoạt động của cung và cầu về vốn ngắn hạn, thường được thông qua các tổ chức tín dụng và có ưu điểm là mức độ an toàn tương đối cao nhưng nhược điểm là thời gian trả nợ ngắn và lãi suất cao) thì huy động vốn bằng Chào bán cổ phiếu là huy động vốn trung và dài hạn (TTCK nằm trong thị trường tài chính dài hạn hay còn được gọi là thị trường vốn).
Năm là, chào Chào bán cổ phiếu phải thỏa mãn các điều kiện và tuân thủ quy trình luật định. Để Chào bán cổ phiếu, Công ty cổ phần phải tuân thủ nhiều điều kiện như mức vốn điều lệ, tình hình hoạt động kinh doanh, có phương án chào bán và sử dụng vốn,… để các cơ quan nhà nước có thể kiểm soát hoạt động này, tránh rủi ro lớn cho các nhà đầu tư nói riêng và rộng hơn là tránh rủi ro cho nền kinh tế nói chung.
Thứ sáu, việc Chào bán cổ phiếu thường được tiến hành thông qua các tổ chức trung gian là các công ty bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành. Các công ty bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành là những tổ chức có trình độ nghiệp vụ cao, giàu kinh nghiệm trong hoạt động bảo lãnh phát hành cổ phiếu. Việc Chào bán cổ phiếu thành công mang tầm quan trọng lớn với tổ chức công ty chào bán vì việc Chào bán cổ phiếu nếu thành công sẽ có khả năng làm tăng uy tín và mang đến lợi nhuận trong kinh doanh và trong việc huy động vốn sau này cho công ty. Do đó, việc lựa chọn các công ty bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành cổ phiếu cũng rất quan trọng.
1.1.2. Một số khái niệm, đặc điểm liên quan đến giao dịch cổ phiếu chào bán ra công chúng
- Khái niệm giao dịch cổ phiếu chào bán ra công chúng
Căn cứ từ điển tiếng Việt Hoàng Phê thì giao dịch được định nghĩa là “có quan hệ gặp gỡ, tiếp xúc với nhau”. Tuy nhiên, nếu kết hợp định nghĩa này với định nghĩa về cổ phiếu và chào bán ra công chúng như đã nêu trên thì chúng ta sẽ không có một định nghĩa hợp lý và sát nghĩa đối với giao dịch cổ phiếu chào bán ra công chúng (sau đây được viết tắt là Giao dịch cổ phiếu) được sử dụng trong pháp luật về chứng khoán ngày nay vì định nghĩa về giao dịch như trên mang nghĩa quá rộng.
Theo đó, định nghĩa về giao dịch hay cụ thể hơn là giao dịch dân sự sẽ phù hợp với định nghĩa ở Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015 là: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Nếu tiếp cận khái niệm giao dịch cổ phiếu trên quan điểm chung là giao dịch dân sự thì có thể hiểu theo nghĩa rộng giao dịch là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ đối với cổ phiếu. Căn cứ định nghĩa này, giao dịch cổ phiếu được hiểu là một hình thức giao dịch có phát sinh trong việc chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng cổ phiếu từ chủ thể này sang chủ thể khác.
Khác với chào bán cổ phiếu, giao dịch cổ phiếu không được định nghĩa trong Luật Chứng khoán mà được định nghĩa lần đầu tiên trong Quyết định số 127/2008/QĐ-BTC ngày 31/12/2008. Sau đó, đến năm 2013 thuật ngữ này mới được định nghĩa trong các Thông tư liên quan. Theo nghĩa hẹp, giao dịch cổ phiếu căn cứ Quyết định số 127/2008/QĐ-BTC có thể được định nghĩa như sau: Giao dịch cổ phiếu là việc mua, bán, chuyển nhượng quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu cổ phiếu.
Định nghĩa này khá đơn giản và có phần giống với định nghĩa theo nghĩa rộng.
Sau đó 05 năm, tại khoản 2 Điều 3 Thông tư số 13/2013/TT-BTC đã có định nghĩa khác về giao dịch chứng khoán từ đó ta có định nghĩa giao dịch cổ phiếu là việc mua, bán cổ phiếu được niêm yết, đăng ký giao dịch trên Thị trường chứng khoán có tổ chức nói chung và thị trường cổ phiếu (sau đây được viết tắt là Thị trường cổ phiếu) có tổ chức nói riêng.
Định nghĩa này giống với định nghĩa trong Quyết định số 127/2008/QĐ-BTC ở vế đầu nhưng có thêm điều kiện là cổ phiếu trong giao dịch phải được niêm yết, đăng ký giao dịch trên Thị trường chứng khoán có tổ chức. Định nghĩa này đã thu hẹp đối tượng của cổ phiếu trong giao dịch cổ phiếu, phạm vi cho phép là trên Thị trường chứng khoán có tổ chức.
Tuy nhiên, ở thời điểm này, Quyết định số 127/2008/QĐ-BTC chưa định nghĩa thế nào là Thị trường chứng khoán có tổ chức mà mãi đến năm 2017, Thông tư số 115/2017/TT-BTC ở khoản 1 Điều 3 mới định nghĩa “TTCK có tổ chức là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán niêm yết, đăng ký giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán, bao gồm cả thị trường giao dịch chứng khoán phái sinh.” Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
TTCK có tổ chức hay còn gọi là Thị trường chứng khoán tập trung. Nếu “căn cứ vào phương thức tổ chức và giao dịch, thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung và thị trường phi tập trung”. Thị trường chứng khoán tập trung “là thị trường trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại một điểm tập trung gọi là sàn giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán. Thị trường này hoạt động theo quy định của pháp luật, thời gian biểu của việc giao dịch được quy định rõ. Các chứng khoán được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán thường là chứng khoán của những công ty có quy mô vốn lớn, có “uy tín”, kinh doanh có lãi và phải đáp ứng yêu cầu của thị trường chứng khoán tập trung”.
Tại khoản 1 Điều 48 và khoản 2 Điều 50 LCK2019 đã quy định rằng cổ phiếu đã được chào bán ra công chúng “phải được niêm yết, đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch chứng khoán” và “không được giao dịch bên ngoài hệ thống giao dịch chứng khoán do Sở giao dịch chứng khoán Việt nam và công ty con tổ chức, trừ trường hợp giao dịch không mang tính chất mua bán hoặc giao dịch khác không thể thực hiện được thông qua hệ thống giao dịch chứng khoán”.
Đến năm 2020, khoản 1 Điều 3 Thông tư 95/2020/TT-BTC cũng có cùng nội dung tương tự nhưng được rút gọn và tổng quát hơn Thông tư số 115/2017/TT-BTC về định nghĩa của giao dịch chứng khoán, theo đó có thể rút ra định nghĩa giao dịch cổ phiếu là việc mua, bán cổ phiếu thực hiện qua hệ thống giao dịch chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán.
Tuy nhiên, cần làm rõ giao dịch chào bán cổ phiếu có phải là giao dịch cổ phiếu hay không cũng là vấn đề cần xem xét kỹ lưỡng. Xét về mặt lý luận, hiện nay tồn tại hai luồng quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng giao dịch chào bán cổ phiếu là một trong các loại giao dịch cổ phiếu bởi lẽ nếu hiểu theo nghĩa giao dịch cổ phiếu là giao dịch mua bán dẫn đến chuyển quyền sở hữu cổ phiếu đơn thuần thì ở giao dịch chào bán đã có sự chuyển nhượng cổ phiếu từ Công ty cổ phần chào bán đến nhà đầu tư đầu tiên.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng giao dịch cổ phiếu chỉ là các giao dịch mua bán trên thị trường thứ cấp sau khi cổ phiếu đã được đưa vào trong lưu thông, tức là chỉ bao gồm việc chuyển nhượng cổ phiếu giữa các nhà đầu tư với nhau. Việc cổ phiếu có thể được chào bán tại các sở giao dịch hay trung tâm giao dịch không thể hiện rõ bản chất giao dịch mua bán giữa các nhà đầu tư và như vậy không phải là giao dịch chứng khoán. Luận văn cho rằng quan điểm thứ hai là hợp lý hơn vì giao dịch chào bán không phải là giao dịch cổ phiếu bởi vì tại thời điểm cổ phiếu chuyển từ công ty chào bán đến nhà đầu tư đầu tiên (giai đoạn chào bán) thì cổ phiếu chưa phải là loại hàng hoá theo đúng nghĩa của nó. Cổ phiếu chưa chứa đựng những quyền mà nó phải có tương ứng với loại cổ phiếu đó, ví dụ quyền biểu quyết, quyền nhận cổ tức,… Các quyền này chỉ phát sinh ở nhà đầu tư đầu tiên sau khi mua cổ phiếu lần đầu. Sau khi cổ phiếu được đưa vào thị trường thứ cấp thì việc chuyển nhượng quyền sở hữu nó diễn ra đồng thời với việc chuyển nhượng các quyền mà cổ phiếu đó chứa đựng. Quan điểm thứ hai này cũng được các tác giả của giáo trình Luật Chứng khoán của trường Đại học Luật Hà nội phân tích và đồng thuận.
Như vậy, từ những lý luận trên có thể định nghĩa Giao dịch cổ phiếu là việc mua, bán cổ phiếu thực hiện qua hệ thống giao dịch chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán trên thị trường thứ cấp. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
- Đặc điểm giao dịch cổ phiếu chào bán ra công chúng:
GDCP là một hoạt động quan trọng của nền kinh tế và có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, đối tượng của Giao dịch cổ phiếu là một dạng giao dịch tài sản đặc biệt trong thị trường vì cổ phiếu là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với phần vốn của Công ty cổ phần. Cổ phiếu được coi là một loại tài sản vì cổ phiếu là một loại giấy tờ có giá, trong khi thực ra cổ phiếu là một loại chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu đối với một khoản vốn nhất định và cổ phần mới thực sự là tài sản. Do vậy, việc mua, bán, chuyển nhượng cổ phiếu là chuyển nhượng vốn và các quyền gắn với khoản vốn đó chứ không phải thuần túy là chuyển nhượng một loại chứng chỉ hay giấy tờ có giá. Việc xác định không phù hợp với bản chất tài sản của cổ phiếu có thể gây khó khăn trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ phát sinh.
Thứ hai, chủ thể Giao dịch cổ phiếu không xác định cụ thể trong hợp đồng. Các bên đặt lệnh mua, bán bên ngoài hệ thống thông qua trung gian môi giới là các công ty chứng khoán, sau đó trung gian này chuyển lệnh đưa vào giao dịch và được tổ chức khớp lệnh bằng hệ thống máy tính.
Các lệnh phù hợp với nhau sẽ được hệ thống tìm kiếm và so khớp để tìm ra giá cả tốt nhất cho các bên hay có thể hiểu hệ thống giao dịch là “người làm thay” công đoạn tìm kiếm đối tác và thỏa thuận các điều khoản của giao dịch. Giao dịch cổ phiếu kết thúc, cổ phiếu và tiền được chuyển giao, song người mua và người bán không thể biết mình đã mua bán với ai.
Thứ ba, Giao dịch cổ phiếu có tính hệ thống và tính tập trung cao thông qua phương thức khớp lệnh tập trung tại Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và các công ty con như đã trình bày ở đặc điểm thứ hai. Đây chính là điểm khó xác định bên bị hại cụ thể trong quan hệ giao dịch cổ phiếu trên thị trường tập trung với chủ thể trực tiếp gây ra hành vi thiệt hại cho nhà đầu tư trong quan hệ giao dịch chẳng hạn như việc mua bán cổ phiếu được thực hiện thông qua quá nhiều chủ thể trung gian và một người mua có thể mua hàng hóa từ nhiều người bán và ngược lại, một người bán cũng có thể mua hàng hóa từ nhiều người mua. Như vậy, để xác định chính xác bên bị hại và bên gây thiệt hại sẽ tốn nhiều thời gian cũng như phải thông qua sự phối hợp giữa nhiều chủ thể trung gian. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Thứ tư, Giao dịch cổ phiếu là một kênh đầu tư có mức độ rủi ro khá cao do Thị trường cổ phiếu chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố như tình hình kinh tế ở trong nước và thế giới, tình hình kinh doanh của tổ chức kinh tế, tin giả, yếu tố tâm lý và các hoạt động thu lợi bất chính khác trên thị trường. Ngoài ra, trong năm 2021, một trong những rủi ro lớn trong thị trường giao dịch cổ phiếu Việt Nam đó là về thời gian nhập lệnh và khớp lệnh: thông tin sai lệch do lỗi mạng mà nhà đầu tư đưa ra các quyết định đầu tư không chính xác. Rủi ro này đôi khi là bất khả kháng, thường được các công ty chứng khoán/SGDCK xem là bất khả kháng, đòi hỏi nhà đầu tư khi lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ phải tìm hiểu kỹ về khả năng, năng lực thực sự của các công ty cung cấp dịch vụ này. Trong năm 2022, rủi ro về bảo mật là một vấn đề nóng được quan tâm, các tài khoản tham gia Giao dịch cổ phiếu bị xâm nhập và chiếm đoạt tài khoản dẫn đến việc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cảnh báo nguy cơ bị chiếm đoạt tài khoản chứng khoán và yêu cầu các công ty chứng khoán phải gửi cảnh báo đến cho tất cả các nhà đầu tư trên thị trường.
Cuối cùng, hoạt động Giao dịch cổ phiếu chịu sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Sở giao dịch chứng khoán và của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trên cơ sở pháp luật chứng khoán. Trong quá trình tiến hành hoạt động của mình, các chủ thể trên thị trường có thể có những hành vi làm ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác như đã nêu trên. Vì vậy, việc quản lý và giám sát các hoạt động trên thị trường này là rất quan trọng.
1.2. Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật một số nước trên thế giới và Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
1.2.1. Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật một số nước trên thế giới về cổ phiếu chào bán ra công chúng
Lịch sử phát triển của pháp luật trên thế giới về Cổ phiếu chào bán là một bộ phận không thể tách rời và là bộ phận quan trọng nhất, gắn liền với lịch sử phát triển của pháp luật trên thế giới về Thị trường cổ phiếu và Thị trường chứng khoán. Dựa vào lịch sử của Thị trường chứng khoán được trình bày ở giáo trình Thị trường chứng khoán của trường đại học kinh tế Hồ Chí Minh năm 2008, giáo trình Luật chứng khoán của TS. Nguyễn Văn Tuyến năm 2011, giáo trình Pháp luật về Thị trường chứng khoán của đại học quốc gia Hà Nội năm 2017, luận văn đưa đến thông tin và có những phân tích dưới đây về lịch sử phát triển của pháp luật trên thế giới về Cổ phiếu chào bán.
TTCK ban đầu phát triển một cách tự phát và sơ khai. Nó xuất phát từ nhu cầu đơn lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ XV ở tại các thành phố trung tâm buôn bán ở Phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi, mua, bán các vật phẩm, hàng hóa, ngoại tệ và giá khoán động sản. Tại những cuộc bàn bạc này, họ trao đổi, thương lượng, nhưng chỉ là những lời nói miệng với nhau, không có bất cứ một loại giấy tờ, hàng mẫu nào trong tay cả. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau các “hợp đồng” mua bán, trao đổi thực hiện ngay, và những hợp đồng cho tương lai ba tháng, sáu tháng hay một năm sau mới thực hiện.
Lúc ban đầu chỉ là hoạt động của một nhóm nhỏ thương gia, sau đó số lượng thương gia tham gia tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Tuy gọi là “chợ” nhưng những khu chợ này lại mua bán những hàng hóa đặc biệt mang tính gọi vốn đầu tư nhỏ và đây chính là những mầm mống ban đầu của thị trường vốn mà sau này sẽ được nâng cấp cả về mặt số lượng và chất lượng thành Thị trường chứng khoán gồm cả thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng (sau đây được viết tắt là Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng) là trung tâm. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Sự phát triển về hình thức kinh tế mới sẽ dẫn đến sự phát triển của pháp luật mà ở cuối thế kỷ XV được thể hiện dưới dạng đơn giản là các quy ước, quy tắc. Do đó, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ huy động vốn này trở thành thị trường với việc thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước này được sửa đổi hoàn chỉnh thành các quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia thị trường.
Giao lưu, trao đổi kinh tế ngày càng phát triển, những phiên chợ trước đây được mở cách nhau cả tháng không còn phù hợp nên đã được rút xuống hàng tuần và sau đó là hàng ngày. Phiên chợ riêng đầu tiên đã được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruge nước Bỉ. Tại đây, một bảng hiệu đặc biệt đã đi vào lịch sử thị trường thế giới đã in hình ba túi da với một từ tiếng Pháp là “Bourse” tức là “Mậu dịch thị trường” hay còn gọi là Sở giao dịch.
Đến năm 1547, thành phố ở Bruge nước Bỉ mất đi sự hưng thịnh do eo biển Even bị cát lấp nên thị trường ở đây bị sụp đổ nhưng sau này được chuyển dần qua thị trường Auvers nước Bỉ dẫn đến thị trường ở đây phát triển rất nhanh. Sau một thời gian hoạt động, thị trường tỏ ra không đáp ứng được yêu cầu của ba loại giao dịch khác nhau. Vì vậy, theo quy luật tự nhiên nó lại được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường giao dịch hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và Thị trường chứng khoán… Việc tập trung hóa và chuyên biệt hóa hoạt động gọi vốn đã tạo điều kiện cho các hoạt động chuyên sâu về cổ phiếu ra đời, từ đó thúc đẩy pháp luật về Cổ phiếu chào bán. Cho đến giữa thế kỷ XVI, một quan chức đại thần của Anh quốc đã đến đây nghiên cứu và học hỏi nhằm mục đích thiết lập một mậu dịch thị trường tại Luân Đôn, nơi sẽ trở thành tiền thân của Sở giao dịch chứng khoán London. Cũng như sự phát triển Thị trường chứng khoán của các quốc gia đầu tiên, ở Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu, Tây Âu và Bắc Mỹ thị trường cũng lần lượt ra đời và phát triển tương tự.
Sự phát triển của Thị trường chứng khoán ở các nền kinh tế lớn bấy giờ là điều tất yếu và chỉ là vấn đề thời gian, giai đoạn này đã đánh dấu mốc bùng nổ sự phát triển của Thị trường chứng khoán thế giới nói chung và Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng nói riêng.
Sự phát triển của Thị trường chứng khoán ngày càng diễn ra một cách mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng với số thành viên tham gia ngày càng đông đảo và thuộc nhiều ngành nghề khác nhau. Điều này dẫn đến số lượng các quan hệ xã hội về Cổ phiếu chào bán tăng đột biến. Sự thay đổi về chất dẫn đưa đến sự thay đổi về lượng, khiến cho các quan hệ xã hội về Cổ phiếu chào bán ngày càng phức tạp và do đó dẫn đến sự phát triển của các quan hệ pháp luật về Cổ phiếu chào bán.
Về phương thức giao dịch, ban đầu giao dịch chứng khoán được diễn ra ngoài trời qua những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh riêng của khách hàng. Sau này, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các phương thức giao dịch đã có những sự phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu về khối lượng cũng như tốc độ giao dịch để đảm bảo tính hiệu quả và chất lượng. Theo đó các Sở giao dịch chứng khoán dần dần sử dụng hệ thống máy tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyển dần từ phương thức giao dịch thủ công kết hợp với máy tính sang sử dụng hoàn toàn bằng máy tính. Số lượng và khối lượng giao dịch giờ đây đã nhiều và nhanh đến mức cần phải có sự hỗ trợ đắc lực của máy tính, tuy nhiên khi có sự tham gia của máy tính vào khâu trung gian sẽ phát sinh rất nhiều quan hệ xã hội đan xen phức tạp, do đó các quan hệ pháp luật cũng cần có những phát triển lớn để theo kịp các quan hệ kinh tế. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Cho đến nay, các nước trên thế giới đã có khoảng trên 160 Sở giao dịch chứng khoán phân tán trên khắp các nơi trên thế giới. Quá trình hình thành và phát triển của Thị trường chứng khoán trên thế giới cho thấy giai đoạn đầu Thị trường chứng khoán phát triển một cách tự phát với sự tham gia và chi phối lớn của các nhà đầu cơ. Về sau, Thị trường chứng khoán dần phát triển và bắt đầu có sự tham gia của công chúng đầu tư. Khi Thị trường chứng khoán phát triển đến một mức độ nhất định, thị trường bắt đầu phát sinh những trục trặc mà đòi hỏi phải có sự tham gia quản lý của nhà nước thông qua việc hình thành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật cũng như hệ thống cơ quan để có thể quản lý được hoạt động của Thị trường chứng khoán. Tóm lại, Thị trường chứng khoán cũng như Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng được hình thành từ nhu cầu về vốn của các nhà các kinh doanh dẫn đến việc hình thành từ tính tự phát lên đến có sự điều chỉnh của nhà nước và dẫn đến sự hình thành, phát triển của pháp luật về Cổ phiếu chào bán.
Mặc dù, Thị trường chứng khoán được hình thành phát triển từ thế kỷ XV nhưng các đạo luật đầu tiên về chứng khoán và Thị trường chứng khoán chỉ mới ra đời cách đây chưa đầy một trăm năm. Hai đạo luật về chứng khoán và giao dịch chứng khoán của Mỹ ra đời vào năm 1933 và 1934 là hai đạo luật đầu tiên trên thế giới về chứng khoán và Thị trường chứng khoán. Cho đến nay thì hầu hết các nước trên thế giới kể cả các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi cũng đã có Luật Chứng khoán và Thị trường chứng khoán như: Nhật Bản, Úc, Thái Lan, Bungari Ba Lan, Belarus…
Thông thường, đa số các Thị trường chứng khoán xuất hiện trước rồi nhà nước mới dần tham gia vào điều chỉnh hoạt động của thị trường này và hình thành nên pháp luật về Thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, một số Thị trường chứng khoán hình thành muộn như Thị trường chứng khoán Việt Nam vì lý do lịch sử và sự kế thừa tri thức từ các nền kinh tế lâu đời nên có sự phát triển khác hơn, cụ thể, đó là pháp luật về Thị trường chứng khoán cũng như pháp luật về Cổ phiếu chào bán có trước mới dẫn đến sự sinh ra của Thị trường chứng khoán gồm Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng. Do đó, pháp luật về Cổ phiếu chào bán ở các nước có sự phát triển khác nhau mà không có chung một quá trình hình thành duy nhất.
1.2.2. Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Không như quá trình hình thành và phát triển của Cổ phiếu chào bán trên thế giới như đã nêu trên, Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng ở Việt Nam có những bước hình thành và phát triển tương đối khác. Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng tại Việt Nam được hình thành dựa trên những điều kiện kinh tế – xã hội sau: Nền kinh tế Việt Nam chưa mang đầy những đặc điểm của nền kinh tế thị trường; các hàng hóa cho Thị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa có thật nhiều và mang tính hấp dẫn; Thị trường chứng khoán Việt Nam xuất hiện chưa phải thật sự dựa trên nhu cầu thiết thực về vốn của nền kinh tế mà dựa trên ý chí của cơ quan nhà nước nhằm chuẩn bị cho quá trình thu hút vốn của nền kinh tế trong phát triển kinh tế để đi lên xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng Việt Nam xuất hiện sau pháp luật về Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Dựa vào sự xuất hiện và phát triển của pháp luật về Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng tại Việt Nam, luận văn chia sự hình thành và phát triển của Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng thành ba giai đoạn: i) Giai đoạn trước khi Thị trường chứng khoán chính thức ra đời, xuất hiện đến khi Luật Chứng khoán năm 2006 (sau đây được viết tắt là LCK2006) có hiệu lực ngày 01/01/2007; ii) Từ khi LCK2006 được ban hành và có hiệu lực đến khi LCK2019 có hiệu lực (Từ 01/01/2007 đến 01/01/2021); iii) Từ khi LCK2019 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021 đến nay.
Giai đoạn thứ nhất của thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng: Giai đoạn trước khi Thị trường chứng khoán chính thức ra đời, xuất hiện đến khi LCK2006 có hiệu lực ngày 01/01/2007.
Trong giai đoạn thứ nhất, giai đoạn trước khi thị trường chứng khoán chính thức ra đời, xây dựng và phát triển, Thị trường chứng khoán là mục tiêu đã được Nhà nước định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20 nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung hạn và dài hạn trực tiếp, giúp tiết kiệm chi phí huy động vốn, đưa nhiều khoản vốn nhàn rỗi được huy động vào tiêu dùng, tạo đòn bẩy cho phát triển kinh tế Việt Nam mà trong đó, Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng là thị trường được quan tâm nhất.
Việc thành lập Thị trường chứng khoán cũng như Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng đã được các cơ quan nhà nước nghiên rất kỹ lượng để đệ trình cho Chính phủ. Ngày 06/11/1993, Quyết định số 207/QĐ-TCCB đã được ban hành nhằm chuẩn bị các điều kiện để thành lập thị trường như nhân lực, vật lực, các hoạt động nghiên cứu, khảo sát các nước có thị trường tiên tiến trên thế giới. Đến tháng 9/1994, Ban soạn thảo Pháp lệnh về thị trường được thành lập. Ngày 29/6/1995, Ban Chuẩn bị tổ chức Thị trường chứng khoán được thành lập nhằm triển khai chi tiết kế hoạch để thực hiện các công tác chuẩn bị cho thị trường.
Ngày 28/11/1996, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước được ra đời bằng Nghị định số 75/CP. Cơ quan này trực thuộc Chính phủ, có chức năng tổ chức và quản lý Thị trường chứng khoán.
Đây là quyết định có ý nghĩa quan trọng cho sự ra đời của Thị trường chứng khoán những năm sau đó. Đến ngày 11/07/1998, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã được thành lập bằng Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Ngày 28/07/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức tổ chức phiên giao dịch đầu tiên, đánh dấu một cột mốc lịch sử đối với Thị trường chứng khoán Việt Nam. Vào giai đoạn trước khi Thị trường chứng khoán chính thức ra đời, ở Việt Nam chưa có sự xuất hiện của Thị trường chứng khoán tự phát cũng như Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng tự phát, nền kinh tế Việt Nam chưa mang đầy đủ những đặc điểm của nền kinh tế thị trường, nhà đầu tư chưa có sự am hiểu về Thị trường chứng khoán và Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng, việc tuyên truyền và phổ cập kiến thức về chứng khoán chưa sâu rộng. Tuy nhiên, đây là giai đoạn có ý nghĩa lịch sử để tạo tiền đề cho sự hình thành Thị trường chứng khoán, Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Sau khi Thị trường chứng khoán xuất hiện cho đến ngày 28/7/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã có phiên giao dịch đầu tiên được diễn ra với 2 cổ phiếu có mã giao dịch là REE và SAM, Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng chính thức được hình thành.
Năm 2000, với 2 mã cổ phiếu đầu tiên được niêm yết và đưa vào hoạt động, Thị trường chứng khoán đã có mức tăng trưởng nhanh về giá do nguồn cung hàng hóa khan hiếm, chỉ số VN Index liên tục tăng cao. Tuy nhiên, Thị trường chứng khoán đã liên tục sụt giảm trong suốt 3 năm sau đó trước khi tăng mạnh trở lại vào cuối năm 2003. Ngày 08/3/2005, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chính thức đi vào hoạt động mở rộng thêm Thị trường chứng khoán Việt Nam, tạo ra cơ hội được niêm yết cho những doanh nghiệp không đủ điều kiện niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Đến ngày 27/7/2005, Quyết định 189/2005/QĐ-TTg được ban hành nhằm thành lập Trung tâm lưu ký chứng khoán độc lập duy nhất, hỗ trợ cho hoạt động của cả Thị trường chứng khoán. Việc thành lập Trung tâm lưu ký chứng khoán trong bối cảnh Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ là hoàn toàn phù hợp với sự đòi hỏi từ thực tiễn thị trường, đồng thời cũng phù hợp với khuyến nghị của các tổ chức quốc tế như G30, IOSCO, theo đó mỗi thị trường cần có một Trung tâm lưu ký chứng khoán độc lập. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Giai đoạn đầu tiên này là giai đoạn lịch sử, đưa lý thuyết về Thị trường chứng khoán vào thực tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, giai đoạn này lại là giai đoạn hoạt động khá trầm của Thị trường chứng khoán Việt Nam, nền kinh tế nước ta cũng vẫn còn non trẻ, Nhà nước chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc vận hành, quản lý và giám sát Thị trường chứng khoán cũng như Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Nhà đầu tư chưa am hiểu sâu và còn hạn chế trong khả năng phân tích, các hàng hóa trên thị trường chưa có nhiều và chưa mang tính hấp dẫn. Thị trường chưa có tính minh bạch cao.
Giai đoạn thứ hai của thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng: từ khi LCK2006 được ban hành và có hiệu lực đến khi LCK2019 có hiệu lực (Từ 01/01/2007 đến 01/01/2021);
Giai đoạn thứ hai của Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng bắt đầu từ ngày 01/01/2007, nhằm tạo hành lang pháp lý vững chắc và thúc đẩy Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng phát triển mạnh mẽ, Quốc hội đã soạn thảo và thông qua LCK2006 là văn bản xác định hành lang pháp lý cao nhất trong lĩnh vực chứng khoán, đánh dấu mốc lịch sử tiếp theo trong quá trình phát triển của Thị trường chứng khoán và Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng ở Việt Nam đến khi LCK2019 số 54/2019/QH14 ngày 26/11/2019 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021. Đây là giai đoạn phát triển và có những dấu mốc vàng son của Thị trường chứng khoán và Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng của Việt Nam. Vào ngày 11/5/2007, Quyết định số 599/QĐ đã chuyển Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh thành Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Việc chuyển đổi mô hình đã giúp Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh có một vị trí ngang tầm với các Sở giao dịch khác trên thế giới trong quan hệ hợp tác với nhau, từ đó, nâng cao vị trí và tầm ảnh hưởng của Thị trường chứng khoán Việt Nam trên thế giới. Vào ngày 02/01/2009, Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg đã cho phép Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chuyển đổi thành Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Ngày 24/6/2009, Thị trường giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết được khai trương, tạo ra đột phá cho thanh khoản của Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng, mở rộng Thị trường chứng khoán Việt Nam thêm một lần nữa. Luật số 62/2010/QH12 được ban hành ngày 24/11/2010 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán đã góp phần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về lĩnh vực chứng khoán của nước ta. Trong các năm 2017 và năm 2018, Thị trường chứng khoán Việt Nam có sự tăng trưởng lớn nhất trong khu vực mà trụ cột là Thị trường cổ phiếu. Trong giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện linh hoạt công tác quản lý và điều hành thị trường, giúp Thị trường chứng khoán minh bạch, ổn định, không để xảy ra khủng hoảng, song song đó nâng cao năng lực giám sát và cưỡng chế thực thi pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thẻ trên thị trường. Các năm gần đây, số vụ vi phạm pháp luật về chứng khoán bị xử phạt, tăng cao nhất từ trước tới nay đảm bảo tính minh bạch cho Thị trường chứng khoán Việt Nam. Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng cũng theo đó mà phát triển mạnh mẽ.
Giai đoạn thứ ba của thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng: từ khi LCK2019 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021 đến nay. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Ở giai đoạn thứ hai, LCK2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 (sau đây được viết tắt là LCK2010) đã thực hiện tốt nhiệm vụ trong giai đoạn của mình, tuy nhiên, đến giai đoạn thứ ba, luật này không còn phù hợp với sự phát triển của Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng, đòi hỏi cần có một chiếc áo rộng hơn, phù hợp hơn, tạo động lực và hành lang pháp lý cho giai đoạn tiếp theo.
- Yêu cầu đó đã dẫn đến sự ra đời của LCK2019.
Theo đó, tính đến cuối năm 2021, chỉ số VN Index trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tăng trưởng mạnh mẽ tương ứng mức tăng 27,6% và 59,2% so với cuối năm 2020, vốn hóa Thị trường cổ phiếu đã tăng 29,2% so với năm 2020, tương đương 108,7% GDP. Thanh khoản của Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng ngày càng được cải thiện. Đến ngày 30/6/2021, sàn Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã có đến 385 mã cổ phiếu giao dịch với tổng khối lượng Cổ phiếu chào bán đạt hơn 103,88 tỷ cổ phiếu, vốn hóa đạt hơn 5,28 triệu tỷ đồng, tăng 6,18% so với tháng trước đó và tăng 29,52% so với cuối năm 2020, đạt khoảng 83,99% GDP năm 2020 (GDP theo giá hiện hành). Thanh khoản thị trường được tăng mạnh theo từng năm. Đáng chú ý, thanh khoản Thị trường cổ phiếu 6 tháng đầu năm 2021 tăng mạnh nhất kể từ khi Thị trường chứng khoán ra đời, đạt giá trị giao dịch trên 18.554 tỷ đồng/phiên với khối lượng giao dịch bình quân phiên đạt 688,5 triệu cổ phiếu, tương ứng tăng 285,5% về giá trị và tăng 141,7% về khối lượng so với mức thanh khoản 6 tháng đầu năm 2020. Đặc biệt, trong phiên giao dịch ngày 04/6/2021, thanh khoản lập kỷ lục với giá trị giao dịch lên tới trên 30.728 tỷ đồng.
Có thể thấy, LCK2019 ra đời đi kèm với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam đã vừa tạo động lực và vừa tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển của Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng những năm vừa qua, mở ra thời kỳ hoàng kim cho Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng.
1.3. Vai trò của pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
1.3.1. Vai trò của pháp luật về chào bán cổ phiếu ra công chúng
CBCP là hoạt động chủ đạo của Thị trường chứng khoán, có vai trò và ý nghĩa đặc biệt với nền kinh tế và xã hội.
TTCK Việt Nam tuy đã có hơn 20 năm thành lập và phát triển nhưng so với các Thị trường chứng khoán của các nước khác trên thế giới thì Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn là một thị trường trẻ và chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức, vận hành cũng như quản lý. Sự hình thành của các Thị trường chứng khoán ở các nước trên thế giới đa phần đều dựa trên cơ sở của sự xuất hiện các quan hệ xã hội tự phát dựa trên nhu cầu về vốn của các nhà kinh doanh. Khi phát triển đến một mức độ nhất định, Thị trường chứng khoán và Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng bắt đầu phát sinh những trục trặc mà đòi hỏi phải có sự tham gia quản lý của Nhà nước thông qua việc hình thành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật cũng như hệ thống cơ quan nhà nước để có thể quản lý được hoạt động của thị trường.
Đa số các Thị trường chứng khoán và Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng trên thế giới đều hình thành theo hướng này, sự hình thành của thị trường tạo nên sự hình thành của pháp luật về Thị trường chứng khoán các nước đó. Thị trường chứng khoán có trước mới dẫn đến sự hình thành của pháp luật về Thị trường chứng khoán các nước, tuy nhiên, Thị trường chứng khoán ở Việt Nam lại hình thành theo một cách khác, Thị trường chứng khoán Việt Nam được hình thành chưa phải dựa trên nhu cầu cấp thiết về vốn của nền kinh tế mà dựa trên ý chí của cơ quan nhà nước nhằm chuẩn bị cho quá trình thu hút vốn của nền kinh tế trong phát triển kinh tế trong quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa. Hay nói cách khác, sự hình thành của pháp luật về Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng tạo nên sự hình thành của Thị trường cổ phiếu CBRCC ở Việt Nam. Ở mức độ nhỏ hơn, pháp luật về Chào bán cổ phiếu đã tạo cơ sở pháp lý để hình thành nên hoạt động Chào bán cổ phiếu ở Việt Nam.
Pháp luật về Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng bên cạnh đó cũng tạo ra hàng hóa cho Thị trường cổ phiếu CBRCC, tạo ra hành lang pháp lý để quản lý và vận hành những loại hàng hóa đó ở Việt Nam. Hàng hóa cho Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng ở Việt Nam khi mới thành lập có số lượng chưa nhiều và chưa mang tính hấp dẫn. Pháp luật về Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng đã tạo ra cơ sở pháp lý thuận lợi để tạo nhiều hàng hóa trên thị trường hơn so với thời điểm mới thành lập. Hơn nữa, pháp luật về Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng cũng tạo ra nhiều hàng hóa hơn bằng việc cho phép các Công ty cổ phần không đạt đủ điều kiện niêm yết ở các Sở giao dịch chứng khoán thì có thể giao dịch trên hệ thống giao dịch cho cổ phiếu chưa niêm yết. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Tính minh bạch là một trong những yếu tố quan trọng nhất của Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng. Chào bán cổ phiếu là hoạt động huy động vốn từ nhiều chủ thể trên thị trường, trong những chủ thể đó có cả những nhà đầu tư không chuyên nghiệp, những nhà đầu tư nhỏ, chưa có nhiều kinh nghiệm và kiến thức đối với lĩnh vực này. Tình trạng thiếu minh bạch trên thị trường sẽ mang lại nhiều thiệt hại cho những nhà đầu tư trên. Tình trạng thiếu minh bạch trên thị trường không chỉ mang lại bất lợi cho những nhà đầu tư nhỏ lẻ và không chuyên nghiệp mà còn có thể gây thiệt hại cho nhiều chủ thể khác trong thị trường và thậm chí gây thiệt hại cho cả nền kinh tế vì Thị trường chứng khoán nói chung và Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng nói riêng là một thiết chế phức tạp, hết sức nhạy cảm, đầy rủi ro, ảnh hưởng toàn diện đến nền kinh tế. Do đó, để đảm bảo tính minh bạch cho hoạt động Chào bán cổ phiếu thì cần có pháp luật về hoạt động Chào bán cổ phiếu để điều chỉnh, giám sát và quản lý hoạt động này, tạo ra tính minh bạch cho hoạt động Chào bán cổ phiếu nói riêng và cho Thị trường chứng khoán nói chung.
1.3.2. Vai trò của pháp luật về giao dịch cổ phiếu chào bán ra công chúng
Thứ nhất, pháp luật về Giao dịch cổ phiếu thiết lập hệ thống giao dịch và hệ thống quản lý giao dịch cổ phiếu, tạo hành lang pháp lý để Cổ phiếu chào bán được mua, bán theo trình tự, thủ tục luật định.
Thứ hai, pháp luật về Giao dịch cổ phiếu tạo ra cơ chế kiểm soát đặc biệt để các chủ thể tham gia hoạt động này không vi phạm nguyên tắc bình đẳng của thị trường, tất cả người mua và người bán đều được mua bán, trao đổi bình đẳng, công bằng với nhau thông qua hệ thống máy tính được lập trình hoạt động dựa trên các quy định pháp luật.
Thứ ba, các quy định của pháp luật về Giao dịch cổ phiếu hiện nay đã phân chia thị trường Giao dịch cổ phiếu thành ba thị trường nhỏ đó là Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (còn gọi là HSX), Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và Hệ thống giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết (còn gọi là Upcom). Việc phân loại thị trường giúp phân loại cổ phiếu, mỗi nhóm cổ phiếu sẽ có cơ chế quản lý, giám sát khác nhau. Đối với nhà đầu tư, nhà đầu tư sẽ có cơ sở để đánh giá và lựa chọn cổ phiếu với tỷ lệ cơ hội so với rủi ro phù hợp.
Thứ tư, pháp luật về Giao dịch cổ phiếu có vai trò tạo cơ chế giám sát chặt sẽ, cơ chế xử phạt nghiêm minh giúp hoạt động chào bán ra công chúng có tính minh bạch cao, hạn chế và tránh rủi ro cho các chủ thể tham gia, Thị trường chứng khoán và rộng hơn là nền kinh tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Tại chương 1, bài nghiên cứu đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về Cổ phiếu chào bán (phạm vi của luận văn tập trung vào hoạt động Chào bán cổ phiếu và Giao dịch cổ phiếu) và pháp luật về Cổ phiếu chào bán, cụ thể như sau:
Khái quát và phân tích một số khái niệm, đặc điểm về Cổ phiếu chào bán và pháp luật về Cổ phiếu chào bán mà quan trọng nhất là Chào bán cổ phiếu và Giao dịch cổ phiếu.
Trình bày và phân tích quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về Cổ phiếu chào bán ở một số nước trên thế giới và ở tại Việt Nam:
TTCP CBRCC trên thế giới đa số được hình thành từ nhu cầu về vốn của các nhà các kinh doanh dẫn đến việc hình thành từ tính tự phát lên đến có sự điều chỉnh của nhà nước và từ đó hình thành pháp luật về Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng, nghĩa là thị trường có trước rồi mới dẫn đến sự hình thành của pháp luật.
Tuy nhiên, Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng ở Việt Nam, pháp luật về Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng có trước mới dẫn đến sự sinh ra của Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng.
Trình bày và phân tích quá vai trò của Cổ phiếu chào bán (gồm Chào bán cổ phiếu và Giao dịch cổ phiếu). Chào bán cổ phiếu là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng, tạo hàng cho thị trường thứ cấp, mang lại lợi ích cho cả tổ chức chào bán lẫn nhà đầu tư. Pháp luật về Chào bán cổ phiếu đóng vai trò tạo ra Thị trường cổ phiếu chào bán ra công chúng, tạo ra hàng hóa cho thị trường, duy trình và tăng tính minh bạch của thị trường. Giao dịch cổ phiếu có vai trò phân phối lại nguồn vốn của nhà đầu tư, xác định giá Thị trường cổ phiếu, tạo tính thanh khoản cho thị trường sơ cấp và thứ cấp. Pháp luật về Giao dịch cổ phiếu đóng vai trò thiết lập hệ thống giao dịch và quản lý hệ thống giao dịch, tạo ra cơ chế quản lý các chủ thể trên thị trường, đánh giá và phân loại cổ phiếu.
Việc nghiên cứu lý luận chung của pháp luật về Cổ phiếu chào bán sẽ tạo cơ sở để nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật về Cổ phiếu chào bán. Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: lamluanvan24h@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Pháp luật Việt Nam về cổ phiếu chào bán ra công chúng […]