Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Quy định pháp luật điều chỉnh về cổ phiếu chào bán ra công chúng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Quy định pháp luật điều chỉnh về chào bán cổ phiếu ra công chúng

2.1.1. Hình thức chào bán cổ phiếu ra công chúng

Tùy vào tiêu chí phân loại, hoạt động Chào bán cổ phiếu có thể chia làm nhiều loại:

  • Căn cứ vào tiêu chí thời gian chào bán, ta có thể phân loại Chào bán cổ phiếu thành hai hình thức: Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng.
  • Căn cứ vào chủ thể chào bán, ta có thể phân loại hoạt động Chào bán cổ phiếu thành hai hình thức: Chào bán cổ phiếu trực tiếp và Chào bán cổ phiếu gián tiếp. Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Tuy có nhiều cách để phân loại nhưng căn cứ Điều 15 LCK2019, các nhà làm luật phân loại Chào bán cổ phiếu thành chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng. Luận văn cho rằng cách phân loại này thích hợp hơn việc phân loại theo chủ thể chào bán vì sẽ phù hợp với điều kiện Chào bán cổ phiếu theo Điều 15 LCK2019.

Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng, chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng

Căn cứ vào tiêu chí thời gian chào bán, ta có thể phân loại hoạt động Chào bán cổ phiếu thành các hình thức: hình thức thứ nhất là chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng (thuật ngữ tiếng Anh gọi là initial public offering được viết tắt là IPO) và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng (thuật ngữ tiếng Anh gọi là seasoned public offering).

Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng gồm hai hình thức:

Thứ nhất là chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng để huy động thêm vốn cho tổ chức phát hành.

Thứ hai là chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng để trở thành công ty đại chúng thông qua thay đổi cơ cấu sở hữu nhưng không làm tăng vốn điều lệ của tổ chức phát hành. Theo khoản 1 Điều 32 LCK2019: “Công ty đại chúng là công ty cổ phần thuộc một trong hai trường hợp sau đây:

  1. Công ty có vốn điều lệ đã góp từ 30 tỷ đồng trở lên và có tối thiểu là 10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết do ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn nắm giữ;
  2. Công ty đã thực hiện chào bán thành công cổ phiếu lần đầu ra công chúng thông qua đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Luật này.”.

Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng còn có cách chia khác ngoài hai cách chia trên là chia thành: “IPO sơ cấp (cổ phiếu được bán lần đầu ra công chúng nhằm tăng vốn) và IPO thứ cấp (cổ phiếu được bán lần đầu từ số cổ phiếu hiện hữu)”.

Thứ ba là hình thức chào bán kết hợp hình thức một và hai nghĩa là kết hợp: “Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng để huy động thêm vốn cho tổ chức phát hành và chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng để trở thành công ty đại chúng thông qua thay đổi cơ cấu sở hữu nhưng không làm tăng vốn điều lệ của tổ chức phát hành”.

Qua các hình thức kể trên, có thể thấy chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng thường được thực hiện bởi các công ty mới thành lập hoặc các công ty nhỏ muốn huy động vốn để thực hiện kế hoạch kinh doanh. Ngoài ra, Chào bán cổ phiếu cũng có thể được thực hiện bởi các công ty không phải là công ty đại chúng nay muốn chuyển đổi thành công ty đại chúng thông qua việc thay đổi cơ cấu sở hữu nhưng không làm tăng vốn điều lệ của tổ chức để có thêm cơ hội huy động vốn từ các nhà đầu tư nhằm phục vụ mục đích kinh doanh của mình. Hình thức này thường được các doanh nghiệp nhà nước hoặc đơn vị sự nghiệp công lập áp dụng để trở thành Công ty cổ phần, phục vụ mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, tổ chức Chào bán cổ phiếu cũng có thể kết hợp cả hai hình thức trên để vừa huy động vốn thêm vừa thay đổi loại hình doanh nghiệp.

Chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng là việc công ty đại chúng chào bán cổ phiếu mới, được thực hiện sau đợt chào bán lần đầu. Loại chào bán này thường được các công ty đại chúng thực hiện trong quá trình kinh doanh để mở rộng quy mô kinh doanh hoặc để thực hiện một dự án kinh doanh cần nhiều vốn mà ở thời điểm hiện tại, nguồn vốn sẵn có của công ty không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh đó. Bên cạnh đó, chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng cũng là một hình thức để kêu gọi thêm các cổ đông chiến lược nhằm bổ sung thêm các lĩnh vực phục trợ doanh nghiệp đang thiếu mà nếu có thêm các lĩnh vực này thì giá trị của doanh nghiệp sẽ được tăng thêm rất nhiều, chẳng hạn như sàn thương mại điện tử bán cổ phần cho các doanh nghiệp vận tải giao nhận hàng hóa sẽ giúp hỗ trợ lĩnh vực kinh doanh của sàn thương mại, chủ động được trong chính sách và điều phối vận chuyển hàng hóa. Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Ngoài hình thức chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng, căn cứ khoản 1 Điều 14 LCK2019, Chào bán cổ phiếu còn có hình thức khác chào bán khác. Hình thức khác chào bán khác được khoản 3 Điều 10 Nghị định 155/2020/NĐ-CP diễn giải là hình thức cổ đông công ty đại chúng Chào bán cổ phiếu. Tuy nhiên, như đã phân tích ở phần khái niệm Giao dịch cổ phiếu, luận văn có quan điểm rằng hình thức cổ đông công ty đại chúng Chào bán cổ phiếu được xem là một hình thức giao dịch cổ phiếu ra công chúng chứ không phải một hình thức Chào bán cổ phiếu. Chào bán cổ phiếu chỉ là các hoạt động mua bán trên thị trường sơ cấp trước khi cổ phiếu được đưa vào trong lưu thông, tức chỉ bao gồm việc chuyển nhượng cổ phiếu từ công ty chào bán đến nhà đầu tư đầu tiên (giai đoạn chào bán), thời điểm mà cổ phiếu chưa phải là loại hàng hoá theo đúng nghĩa của nó. Lúc đó, cổ phiếu chưa chứa đựng những quyền mà nó phải có tương ứng với loại cổ phiếu đó, ví dụ quyền biểu quyết, quyền nhận cổ tức… Các quyền này chỉ phát sinh ở nhà đầu tư đầu tiên sau khi mua cổ phiếu lần đầu. Quan điểm này cũng được giáo trình Luật Chứng khoán của trường Đại học Luật Hà Nội đồng thuận.

Chào bán cổ phiếu ra công chúng trực tiếp và chào bán cổ phiếu ra công chúng gián tiếp

Căn cứ vào chủ thể chào bán, ta có thể phân loại Chào bán cổ phiếu thành hai hình thức:

  • CBCP trực tiếp và Chào bán cổ phiếu gián tiếp.

CBCP trực tiếp là việc chủ thể Chào bán cổ phiếu tự mình thực hiện toàn bộ mọi công việc liên quan đến Chào bán cổ phiếu. Chủ thể của hình thức chào bán này thường là các doanh nghiệp lớn, có kinh nghiệm trong lĩnh vực Chào bán cổ phiếu và có các điều kiện cần thiết khác nhằm đảm bảo sự thành công cho đợt chào bán. Chào bán cổ phiếu trực tiếp sẽ giúp tổ chức chào bán tiết kiệm được chi phí thuê các tổ chức trung gian giúp mình thực hiện hoạt động Chào bán cổ phiếu. Tuy nhiên, việc tự Chào bán cổ phiếu cũng sẽ có những rủi ro nhất định do chủ thể chào bán có thể không nhiều kinh nghiệm và trình độ nghiệp vụ. Trên thị trường không chỉ có các doanh nghiệp lớn có tiềm lực, có thể “tự lực cánh sinh” mà ở nước ta hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có nhiều kinh nghiệm cùng những điều kiện cần thiết để có thể tự mình thực hiện toàn bộ những công việc, thủ tục phức tạp liên quan đến Chào bán cổ phiếu.

Chính vì thế, các doanh nghiệp này thường thuê tổ chức trung gian có trình độ nghiệp vụ cao, giàu kinh nghiệm trong hoạt động Chào bán cổ phiếu để giúp mình đạt thành công trong đợt chào bán. Hình thức chào bán này chính là hình thức Chào bán cổ phiếu gián tiếp. Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Hình thức Chào bán cổ phiếu gián tiếp gồm chào bán thông qua bảo lãnh phát hành do các tổ chức bảo lãnh phát hành thực hiện và chào bán thông qua đại lý. Căn cứ khoản 31 Điều 4 LCK2019 về bảo lãnh phát hành chứng khoán, ta có thể suy ra được bảo lãnh phát hành cổ phiếu là việc cam kết với tổ chức chào bán nhận mua một phần hoặc toàn bộ cổ phiếu của tổ chức chào bán để bán lại hoặc mua số cổ phiếu còn lại chưa được phân phối hết hoặc cố gắng tối đa để phân phối số cổ phiếu cần chào bán. Chào bán thông qua đại lý được định nghĩa ở khoản 17 Điều 3 Nghị định số 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và Thị trường chứng khoán là: “Đại lý phát hành chứng khoán là các công ty chứng khoán, tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng nhận bán chứng khoán cho tổ chức phát hành trên cơ sở thỏa thuận hoặc thông qua tổ chức bảo lãnh phát hành chính”. Tuy nhiên, Nghị định này đã hết hiệu lực, LCK2019 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành cũng không quy định về khái niệm đại lý phát hành chứng khoán mà đại lý phát hành chứng khoán được nhắc đến với thuật ngữ đại lý phân phối chứng khoán như một nghiệp vụ của Công ty chứng khoán tại điểm a khoản 1 Điều 86 LCK2019.

Hình thức Chào bán cổ phiếu gián tiếp sẽ làm các chủ thể Chào bán cổ phiếu tốn thêm chi phí cho các tổ chức trung gian nhưng nhưng sẽ tiết kiệm được nguồn lực thời gian, nhân sự để tìm hiểu và thực hiện các thủ tục pháp lý liên quan. Đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc thuê tổ chức trung gian thực hiện chào bán sẽ là phương án giảm thiểu rủi ro, hứa hẹn mang lại thành công nhiều hơn cho đợt chào bán.

2.1.1.1. Chủ thể chào bán cổ phiếu ra công chúng

Chủ thể Chào bán cổ phiếu cũng là một loại tổ chức chào bán theo khoản 21 Điều 4 LCK2019 vì chủ thể Chào bán cổ phiếu cũng thực hiện chào bán, phát hành chứng khoán mà cụ thể là Chào bán cổ phiếu. Căn cứ vào hình thức Chào bán cổ phiếu, chủ thể Chào bán cổ phiếu bao gồm các tổ chức như sau:

Đối với hình thức chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng:

Ở hình thức chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng, xét ở góc độ loại hình doanh nghiệp thì chủ thể chào bán gồm Công ty cổ phần và các chủ thể khác, xét ở góc độ nguồn vốn thì gồm có tổ chức kinh tế tư nhân và tổ chức kinh tế nhà nước.

Ở hình thức chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng, chủ thể chào bán bắt buộc phải là công ty đại chúng vì sau khi Chào bán cổ phiếu lần đầu thì chủ thể chào bán đã trở thành công ty đại chúng.

Đối với hình thức chào bán cổ phiếu trực tiếp và gián tiếp, chủ thể Chào bán cổ phiếu tùy vào trường hợp mà sẽ chia ra chào bán lần đầu hoặc chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng, khi đó, chủ thể Chào bán cổ phiếu sẽ giống như đã trình bày ở trên.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2.1.2. Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

So với LCK2006 và LCK2010, LCK2019 đã tách điều kiện Chào bán cổ phiếu thành điều kiện Chào bán cổ phiếu lần đầu và điều kiện chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng cho phù hợp với tính chất của từng hình thức.

Theo đó, điều kiện Chào bán cổ phiếu ở LCK2006 sẽ giống với điều kiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng của LCK2019. LCK2019 đã có rất nhiều thay đổi và cập nhật về điều kiện Chào bán cổ phiếu. Ở LCK2006 và LCK2010, Công ty cổ phần khi Chào bán cổ phiếu cần đảm bảo các điều kiện liên quan đến vốn, kết quả kinh doanh, dự định cùng kế hoạch sử dụng vốn huy động và phải cam kết đưa cổ phiếu vào giao dịch trên thị trường có tổ chức.

Mặc dù tại thời điểm xây dựng và ban hành LCK2006, các điều kiện Chào bán cổ phiếu đã được các nhà làm luật hoàn thiện nhiều, tuy nhiên, đến LCK2019, không những Công ty cổ phần phải đáp ứng các điều kiện trên ở mức cao hơn mà còn phải thỏa mãn thêm nhiều điều kiện khác.

Thứ nhất, ở LCK2006, Công ty cổ phần muốn Chào bán cổ phiếu thì cần đạt mức vốn điều lệ ít nhất là mười tỷ đồng tính theo giá trị ghi trên sổ sách kế toán, còn ở LCK2019 mức này đã được các nhà làm luật nâng lên ba mươi tỷ đồng. Nếu nhìn lại quá trình phát triển của quy định về Chào bán cổ phiếu, ta có thể thấy một sự lên xuống thú vị của mức điều kiện vốn điều lệ cần đạt. Thời điểm Thị trường cổ phiếu chính thức của nước ta mới ra đời, căn cứ Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 14/11/1998, mức vốn điều lệ tối thiểu của Công ty cổ phần muốn Chào bán cổ phiếu phải đạt cũng là mười tỷ đồng giống với quy định của LCK2006. Tuy nhiên, do số lượng cổ phiếu lưu hành trên Thị trường cổ phiếu khi đó quá nhỏ và có chiều hướng tăng chậm, vì vậy, khi Nghị định số 144/2003/NĐ-CP được ban hành, mức vốn điều lệ này đã được giảm xuống ở mức năm tỷ đồng để thúc đẩy tăng trưởng số lượng hàng hoá được giao dịch lúc bấy giờ. Đến nay, các CTCP nước ta đã có tiềm lực lớn về năng lực tài chính, do đó, quy định về mức vốn điều lệ mà các Công ty cổ phần cần đáp ứng để được Chào bán cổ phiếu đã được nâng lên ở LCK2006 là mười tỷ đồng như đã trình bày ở trên và nâng lên ở LCK2019 là ba mươi tỷ đồng.

Thứ hai, ở LCK2006, Công ty cổ phần muốn Chào bán cổ phiếu cần phải phải thỏa điều kiện kết quả kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào cổ phiếu bán phải có lãi và không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán. Kết quả kinh doanh của Công ty cổ phần dự định chào bán cổ phiếu được xem xét trên cả hai phương diện: một là năm liền kề trước đó Công ty cổ phần phải có lãi và hai là Công ty cổ phần không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán cổ phiếu. Điều kiện này ở LCK2019 đã được nâng cao hơn ở vế một, theo đó, Công ty cổ phần cần có hai năm liên tục liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi thay vì một năm. Điều kiện này được nhà làm luật nâng cao dần vì muốn đảm bảo Công ty Chào bán cổ phiếu phải là công ty có hoạt động kinh doanh hiệu quả, đảm bảo sự an toàn của nhà đầu tư trên Thị trường cổ phiếu và góp phần bảo đảm Công ty cổ phần chào bán có khả năng đem lại nguồn lợi thỏa đáng cho các nhà đầu tư. Việc đảm bảo hiệu quả cho đồng vốn đầu tư của các cổ đông sẽ góp phần củng cố niềm tin của các nhà đầu tư tiềm năng vào thị trường, từ đó ngày càng thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia vào thị trường vốn. Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Thứ ba, trước đây, theo LCK2010 tại điểm d khoản 1 Điều 12: “Công ty đại chúng đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng phải cam kết đưa chứng khoán vào giao dịch trên thị trường có tổ chức trong thời hạn một năm, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua.”, tuy nhiên, theo LCK2019 tại điểm h khoản 1 Điều 15 đã rút ngắn thời gian đưa cổ phiếu vào giao dịch, không cho Công ty cổ phần khoảng thời gian một năm nữa mà phải “có cam kết và phải thực hiện niêm yết hoặc đăng ký giao dịch cổ phiếu trên hệ thống giao dịch chứng khoán sau khi kết thúc đợt chào bán”. Sự thay đổi này giúp tránh rủi ro cho các nhà đầu tư, tăng tính thanh khoản của cổ phiếu, tránh trường hợp nhiều công ty sau khi chào bán thì cố tình kéo dài thời gian “lên sàn”.

Như vậy, LCK2019 so với LCK2006 và LCK2010 đã có ba điều kiện được nâng cao mức độ và chỉ có một điều kiện được giữ nguyên đó là Công ty cổ phần dự định Chào bán cổ phiếu phải dành được sự chấp thuận của đại hội cổ đông về phương án phát hành cổ phiếu và phương án sử dụng vốn huy động được từ đợt Chào bán cổ phiếu.

Bên cạnh ba điều kiện được nâng cao và một điều kiện được giữ nguyên, điều kiện chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng ở LCK2019 đã có thêm nhiều điều kiện mới:

Điều kiện mới đầu tiên đó là Công ty cổ phần cần đạt “tối thiểu là 15% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành phải được bán cho ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn; trường hợp vốn điều lệ của tổ chức phát hành từ 1.000 tỷ đồng trở lên, tỷ lệ tối thiểu là 10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành”. Điều kiện này cũng góp phần thể hiện tính đại chúng của công ty chào bán và giúp các cổ đông nhỏ có tiếng nói, quyền quyết định hơn trong các vấn đề quan trọng của công ty vì số lượng cổ động nhỏ chiếm tỷ lệ không quá ít.

Điều kiện mới thứ hai đó là “Cổ đông lớn trước thời điểm chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng của tổ chức phát hành phải cam kết cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% vốn điều lệ của tổ chức phát hành tối thiểu là 01 năm kể từ ngày kết thúc đợt chào bán”. Điều này nhằm ràng buộc trách nhiệm đối với các cổ đông lớn, tránh trường hợp các cổ đông lớn chào bán cổ phần chỉ nhằm mục đích tư lợi và sau khi chào bán thành công, sử dụng vốn không đúng mục đích hoặc không hiệu quả thì nhanh chóng thoái vốn để né tránh trách nhiệm.

Điều kiện mới thứ ba đó là “tổ chức phát hành không thuộc trường hợp đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án về một trong các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà chưa được xóa án tích”. Điều kiện này được đặt ra nhằm hạn chế các công ty đã có lịch sử hoạt động tài chính không tốt về mặt hình sự, tránh rủi ro lớn cho các nhà đầu tư và nền kinh tế.

Điều kiện mới thứ tư đó là doanh nghiệp muốn Chào bán cổ phiếu phải “có công ty chứng khoán tư vấn hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng, trừ trường hợp tổ chức phát hành là công ty chứng khoán. Điều kiện này được quy định nhằm đảm bảo Công ty cổ phần khi chào bán được tư vấn đúng và đầy đủ, giúp rút ngắn thời gian chào bán và giúp đảm bảo đợt chào bán được diễn ra một cách chuyên nghiệp, góp phần vào sự thành công của đợt chào bán.

Điều kiện mới cuối cùng đó là “tổ chức phát hành phải mở tài khoản phong tỏa nhận tiền mua cổ phiếu của đợt chào bán”.20 Quy định này được đưa ra nhằm đảm bảo đảm bảo sự an toàn cho các nhà đầu tư khi góp vốn vào Công ty cổ phần. Thật ra, điều kiện này đã được LCK2006 quy định gián tiếp tại khoản Điều 21, LCK2019 quy định cụ thể nội dung này tại điều kiện Chào bán cổ phiếu. Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Đối với điều kiện chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng, đây là điểm mới gần như hoàn toàn của LCK2019 so với LCK2006 và LCK2010 vì năm 2006, các nhà làm luật chỉ quy định điều kiện chung cho cả trường hợp chào bán lần đầu và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng.

Theo đó ngoài các điều kiện về vốn, hoạt động có hiệu quả một năm liền trước, phương án huy động và sử dụng vốn, đang không chịu các trách nhiệm hình sự, được sự tư vấn của công ty chứng khoán, sự cam kết đưa cổ phiếu giao dịch trên hệ thống giao dịch, mở tài khoản phong tỏa thì chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng còn có thêm các điều kiện cụ thể như sau:

Một là, “giá trị cổ phiếu phát hành thêm theo mệnh giá không lớn hơn tổng giá trị cổ phiếu đang lưu hành tính theo mệnh giá, trừ trường hợp có bảo lãnh phát hành với cam kết nhận mua toàn bộ cổ phiếu của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số cổ phiếu còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành, phát hành tăng vốn từ nguồn vốn chủ sở hữu, phát hành để hoán đổi, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp” nhằm đảm bảo tính an toàn cho đợt chào bán và cho các nhà đầu tư.

Hai là, “đối với đợt chào bán ra công chúng nhằm mục đích huy động phần vốn để thực hiện dự án của tổ chức phát hành, cổ phiếu được bán cho các nhà đầu tư phải đạt tối thiểu là 70% số cổ phiếu dự kiến chào bán. Tổ chức phát hành phải có phương án bù đắp phần thiếu hụt vốn dự kiến huy động từ đợt chào bán để thực hiện dự án” nhằm đảm bảo số lượng vốn cần thiết cho dự án, tránh việc dự án bị thiếu vốn, hoạt động không hiệu quả, ảnh hưởng đến lợi nhuận của các nhà đầu tư.

Tóm lại, LCK2019 đã có bước nâng cao điều kiện chào Chào bán cổ phiếu một cách chi tiết, số lượng điều kiện nhiều hơn hẳn so với LCK2006 và LCK2010.

2.1.3. Trình tự, thủ tục chào bán cổ phiếu ra công chúng

Trình tự, thủ tục Chào bán cổ phiếu cơ bản gồm ba bước: Thứ nhất, đăng ký Chào bán cổ phiếu; Thứ hai, công bố thông tin trước khi Chào bán cổ phiếu; Thứ ba, phân phối Cổ phiếu chào bán. Trong ba bước trên, bước thứ ba, phân phối Cổ phiếu chào bán có thể được xem là bước quan trọng nhất vì bước này sẽ quyết định thành bại của đợt Chào bán cổ phiếu.

  • Đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng  Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Đăng ký Chào bán cổ phiếu là bước đầu tiên mà tổ chức phát hành phải thực hiện khi muốn Chào bán cổ phiếu. Căn cứ khoản 2 Điều 16 LCK2019, doanh nghiệp muốn Chào bán cổ phiếu phải đăng ký với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trừ trường hợp Chào bán cổ phiếu “để chuyển doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần” hoặc chào bán “theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của Trọng tài hoặc việc bán chứng khoán của người quản lý hoặc người được nhận tài sản trong trường hợp phá sản hoặc mất khả năng thanh toán”.

Căn cứ khoản 1 Điều 18 LCK2019, hồ sơ đăng ký Chào bán cổ phiếu được chia thành hồ sơ đăng ký chào bán lần đầu và hồ sơ đăng ký chào bán thêm tương ứng với các điều kiện chào bán của từng hình thức.

Trước đây khi Thị trường cổ phiếu còn trong giai đoạn sơ khai, Nghị định số 144/2003/NĐCP tại Điều 10 cũng quy định chia hồ sơ đăng ký Chào bán cổ phiếu thành hai loại: hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng để tăng vốn. Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Tuy nhiên, đến giai đoạn tiếp theo, căn cứ Điều 14 LCK2006 và LCK2010 đã đơn giản hoá hồ sơ đăng ký Chào bán cổ phiếu theo hướng chỉ quy định một loại hồ sơ đăng ký chào bán cho cả chào bán lần đầu và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng. Ngoài ra, nội dung của hồ sơ đăng ký Chào bán cổ phiếu lúc bấy giờ cũng được quy định theo hướng giảm bớt các tài liệu, hồ sơ mà trước đây doanh nghiệp phải cần cung cấp như: “Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”; “danh sách và sơ yếu lý lịch thành  viên hội đồng quản trị, ban giám đốc, ban kiểm soát”; và “báo cáo tài chính của 02 năm liên tục liền trước năm đăng ký phát hành đã được kiểm toán”.

Như vậy có thể thấy các nhà làm luật đã điều chỉnh các quy định pháp luật cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của Thị trường cổ phiếu.

  • Công bố thông tin trước khi chào bán cổ phiếu ra công chúng

Sau khi hoàn thành bước đăng ký Chào bán cổ phiếu và được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy chứng nhận Chào bán cổ phiếu, tổ chức phát hành lúc này vẫn chưa được Chào bán cổ phiếu  mà phải “công bố bản thông báo phát hành trên một tờ báo điện tử hoặc báo viết trong ba số liên tiếp”.

Thêm vào đó, tổ chức phát hành phải bảo đảm người mua cổ phiếu được “tiếp cận Bản cáo bạch trong hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng được công bố tại các địa điểm ghi trong Bản thông báo phát hành”. Khi đó, tổ chức phát hành mới được Chào bán cổ phiếu.

Ngoài ra, sau khi Chào bán cổ phiếu, nếu chủ thể phát hành phát hiện thông tin không chính xác hoặc bỏ sót nội dung quan trọng theo quy định phải có trong hồ sơ hoặc thấy cần thiết phải giải trình về vấn đề có thể gây hiểu nhầm thì chủ thể phát hành phải “sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký” Chào bán cổ phiếu theo Điều 22 LCK2019. Đối với Chào bán cổ phiếu, nhà đầu tư bao gồm rất nhiều đối tượng mà trong đó có cả những nhà đầu tư nhỏ lẻ, kinh nghiệm chưa nhiều và trình độ chuyên môn chưa cao, khó có thể đánh giá đúng mức độ rủi ro của đợt chào bán cổ phiếu. Nhà nước quy định việc công bố thông tin trước khi Chào bán cổ phiếu đặc biệt là việc tổ chức chào bán phải cung cấp cho nhà đầu tư Bản cáo bạch là biện pháp đảm bảo lợi ích thỏa đáng của nhà đầu tư bởi vì Bản cáo bạch là tài liệu quan trọng, Bản cáo bạch có khả năng cung cấp những thông tin thiết yếu cho nhà đầu tư như tổ chức bộ máy, bộ máy lãnh đạo, quản trị, báo cáo tài chính,…

  • Phân phối cổ phiếu chào bán ra công chúng Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Cuối cùng, tổ chức chào bán sau khi hoàn thành việc đăng ký và công bố thông tin trước khi Chào bán cổ phiếu thì được phép phân phối. Kể từ ngày Giấy chứng nhận Chào bán cổ phiếu có hiệu lực, tổ chức chào bán bắt đầu được phân phối cổ phiếu ra công chúng và “phải hoàn thành việc phân phối chứng khoán trong thời hạn 90 ngày” sau đó. Tuy nhiên, không phải bất cứ tổ chức chào bán nào cũng gặp thuận lợi trong đợt phát hành để hoàn tất việc phân phối cổ phiếu trong thời hạn cho phép, tổ chức chào bán có thể gặp nhiều vấn đề khó khăn làm tiến độ phát hành bị chậm lại và không thể hoàn tất đúng thời hạn. Trong trường hợp đó, “Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xem xét gia hạn việc phân phối chứng khoán nhưng tối đa không quá 30 ngày”.

Để phân phối Cổ phiếu chào bán, tổ chức chào bán có thể phân phối thông qua một trong ba phương thức: thứ nhất là thông qua tổ chức bảo lãnh phát hành, thứ hai là thông qua đại lý phát hành, cuối cùng là tự phân phối Cổ phiếu chào bán. Trong ba phương thức thì phương phương thức tự phân phối Cổ phiếu chào bán là phương thức có mức độ rủi ro cao nhất tiếp đến là phân phối Cổ phiếu chào bán thông qua đại lý phát hành và cuối cùng là phân phối Cổ phiếu chào bán thông qua qua tổ chức bảo lãnh phát hành có mức độ rủi ro thấp nhất. Dù tổ chức chào bán chọn Chào bán cổ phiếu bằng phương thức nào đi chăng nữa thì tổ chức chào bán cũng phải “bảo đảm thời hạn đăng ký mua chứng khoán cho nhà đầu tư tối thiểu là 20 ngày” và thời hạn này “phải được ghi trong Bản thông báo phát hành” theo khoản 2 Điều 26 LCK2019. Sau khi đợt chào bán kết thúc, tổ chức chào bán vẫn chưa hoàn thành mọi trách nhiệm liên quan đến đợt chào bán. Cụ thể, đối với cơ quan nhà nước, tổ chức chào bán “phải báo cáo kết quả đợt chào bán cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, kèm theo văn bản xác nhận của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nơi mở tài khoản phong tỏa về số tiền thu được từ đợt chào bán”. Đối với người mua, tổ chức chào bán “phải chuyển giao chứng khoán hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán cho người mua trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày kết thúc đợt chào bán”.

2.2. Quy định pháp luật điều chỉnh về giao dịch cổ phiếu chào bán ra công chúng Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

2.2.1. Thị trường giao dịch cổ phiếu chào bán ra công chúng

Cần phân biệt định nghĩa thị trường Giao dịch cổ phiếu và định nghĩa Thị trường cổ phiếu. Định nghĩa Thị trường cổ phiếu rộng hơn định nghĩa thị trường Giao dịch cổ phiếu. Trong Thị trường cổ phiếu có thể diễn ra bất kì hoạt động nào liên quan đến cổ phiếu còn trên thị trường giao dịch cổ phiếu chỉ diễn ra các giao dịch cổ phiếu là các giao dịch mua bán cổ phiếu và loại cổ phiếu này là CPCB. Cơ cấu của Thị trường cổ phiếu bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, trong khi đó thị trường Giao dịch cổ phiếu chỉ là thị trường thứ cấp với hàng hóa chuyên biệt là Cổ phiếu chào bán.

  • Thị trường giao dịch cổ phiếu chào bán ra công chúng của Việt Nam là thị trường tập trung

Thị trường Giao dịch cổ phiếu được phân thành thị trường tập trung và thị trường phi tập trung tùy vào vào phương thức tổ chức và giao dịch.

Trong đó, thị trường Giao dịch cổ phiếu tập trung là thị trường mà việc giao dịch mua bán giao dịch cổ phiếu ra công chúng được thực hiện tại một điểm tập trung gọi là sàn giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán. Thị trường này hoạt động theo quy định của pháp luật, thời gian biểu của việc giao dịch được quy định rõ. Các cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán thường là cổ phiếu của những Công ty cổ phần có quy mô vốn lớn, có uy tín, kinh doanh có lãi và phải đáp ứng yêu cầu của riêng của từng Sở giao dịch.

Thị trường Giao dịch cổ phiếu phi tập trung là Thị trường cổ phiếu, trong đó việc giao dịch không diễn ra tại một địa điểm tập trung mà thông qua hệ thống nối mạng giữa các thành viên, cơ quan nhà nước có sự can thiệp hạn chế, việc mua bán không có ngày giờ hay thủ tục nhất định mà do sự thỏa thuận của người mua và người bán tuy nhiên vẫn phải tuân thủ các quy định của pháp luật dân sự. Các cổ phiếu được mua bán trên thị trường phi tập trung thường có chất lượng thấp hơn các cổ phiếu được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán, điều kiện để cổ phiếu tham gia thị trường cũng là sự khác biệt cơ bản giữa thị trường giao dịch tập trung và thị trường phi tập trung. Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Ở Việt Nam, hiện nay nước ta không có thị trường Giao dịch cổ phiếu phi tập trung. Căn cứ Điều 42 LCK2019: “Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con được tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán cho chứng khoán đủ điều kiện niêm yết; chứng khoán của doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ chuyển đổi thành công ty cổ phần; chứng khoán của các doanh nghiệp khác chưa đủ điều kiện niêm yết; chứng khoán của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; chứng khoán phái sinh và các loại chứng khoán khác theo quy định của Chính phủ. Ngoài Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con, không tổ chức, cá nhân nào được phép tổ chức và vận hành thị trường giao dịch chứng khoán” nói chung cũng như thị trường giao dịch cổ phiếu nói riêng. Như vậy thị trường Giao dịch cổ phiếu của Việt Nam là thị trường tập trung.

  • Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con

Quyết định số 37/2020/QĐ-TTg có hiệu lực ngày 20/02/2021 tại Điều 1 đã quy định về việc “thành lập Sở giao dịch Chứng khoán Việt Nam theo mô hình công ty mẹ – công ty con trên cơ sở sắp xếp lại Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội và Sở giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh”. Theo đó, Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam là công ty mẹ được tổ chức “theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ” bao gồm: Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.

  • Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh

Nhằm xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, đầu những năm thập niên 90, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước dưới sự chỉ đạo của Chính phủ đã nghiên cứu đề án xây dựng và phát triển Thị trường chứng khoán. Trên cơ sở đó, ngày 28/11/1996 Nghị định số 75/1998/NĐ-CP đã ban hành để thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và giao cho đơn vị này chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc ra đời Thị trường chứng khoán. Đến ngày 11/07/1998, Nghị định số 48/CP được ban hành, chính thức khai sinh ra Thị trường chứng khoán nước nhà. Cũng vào ngày 11/07/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg về việc thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán, Quyết định trên đã đưa đến sự thành lập của Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Vào ngày 28/07/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức tổ chức phiên giao dịch đầu tiên, đánh dấu một cột mốc lịch sử đối với Thị trường chứng khoán Việt Nam. Sau 7 năm hoạt động, từ chỗ chỉ có hai, ba Công ty cổ phần niêm yết và bốn công ty chứng khoán thành viên, đến thời điểm tháng 08/2007 đã có 111 Công ty cổ phần niêm yết và 55 công ty chứng khoán thành viên, 18 công ty quản lý quỹ, 61 tổ chức lưu ký. Vào ngày 11/5/2007, Quyết định số 599/QĐ đã chuyển Trung tâm giao dịch chứng khoán thành Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh hoạt động theo mô hình Công ty TNHH MTV (100% vốn chủ sở hữu thuộc Bộ Tài chính). Việc chuyển đổi mô hình đã giúp Trung tâm thành Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh có một vị trí tương xứng với các Sở giao dịch khác trên thế giới trong mối quan hệ và hợp tác quốc tế, từ đó, nâng cao vị trí và tầm ảnh hưởng của Thị trường chứng khoán Việt Nam. Đến nay, bằng Quyết định 37/2020/QĐ-TTg như đã nêu trên, Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã được quy định trở thành công ty con của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam.

  • Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Cùng vào ngày 11/07/1998, Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg được ban hành đã thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội. Đến ngày 08/3/2005, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chính thức đi vào hoạt động. Vào ngày 02/01/2009, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và chính thức ra mắt vào ngày 24/6/2009.

SGDCK Hà Nội hoạt động với mô hình công ty TNHH MTV do Nhà nước mà đại diện là Bộ Tài chính làm chủ sở hữu. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội chịu trách nhiệm tổ chức, vận hành và quản lý thị trường giao dịch chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của Thị trường chứng khoán Việt nam, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội đã triển khai tích cực, hiệu quả hoạt động đấu giá cổ phần, hoạt động đấu thầu trái phiếu Chính phủ và vận hành các thị trường giao dịch. Đến nay, bằng Quyết định 37/2020/QĐ-TTg, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội đã được quy định trở thành công ty con của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam.

  • Thị trường giao dịch chứng khoán dành cho chứng khoán chưa niêm yết

Vào khoảng thời gian từ ngày 01/01/2007 khi LCK2006 bắt đầu có hiệu lực đến ngày 24/6/2009, nước ta vẫn chưa có Thị trường chứng khoán chưa niêm yết. Thị trường chứng khoán là một chế định tài chính bậc cao của nền kinh tế thị trường. Trong đó Thị trường chứng khoán chưa niêm yết là một phần quan trọng của Thị trường chứng khoán nói riêng cũng như thị trường tài chính nói chung của các quốc gia trên thế giới. Xét về mặt kinh tế vĩ mô, khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, việc thúc đẩy hoạt động lành mạnh và phát triển các doanh nghiệp này là một chiến lược kinh tế quan trọng của Việt Nam trong quá trình phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong khi đó quy mô Thị trường chứng khoán ở nước ta khoảng thời gian này vẫn còn nhỏ bé, chưa tương xứng với quy mô của nền kinh tế. Mặt khác, thị trường tự phát giao dịch các chứng khoán chưa niêm yết lúc đó đang hình thành và ngoài tầm giám sát của Nhà nước. Thị trường tự phát này mang tính rủi ro rất cao đối với những người tham gia do những vấn đề về tính trung thực và tiếp cận thông tin. Lúc bấy giờ, các biện pháp nhằm siết lại thị trường giao dịch chứng khoán chưa niêm yết cũng đã được thực hiện. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước lúc đó đã nhắc nhở các công ty chứng khoán không được tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán vì đây là công việc của Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán. Đồng thời Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng yêu cầu các công ty chứng khoán không thực hiện các sản phẩm mới về giao dịch chứng khoán nếu chưa có phương án và quản trị rủi ro. Để thu hẹp thị trường tự do, mở rộng thị trường giao dịch có tổ chức, có quản lý của Nhà nước, giúp nhà đầu tư giao dịch chứng khoán an toàn và thuận lợi, ngày 24/6/2009, thị trường giao dịch chứng khoán cho chứng khoán chưa niêm chính thức ra đời. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) đã triển khai tích cực, hiệu quả hoạt động vận hành thị trường giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết nói chung và cho cổ phiếu chưa niêm yết nói riêng.

Trên hệ thống giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết có khá nhiều cổ phiếu của các công ty lớn, có tên tuổi, được nhà đầu tư quan tâm, có những cổ phiếu được giao dịch ở mức giá rất cao. Sự sôi động của hệ thống giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết, tính minh bạch, sự cải thiện về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp sau khi gia nhập hệ thống cũng góp phần thúc đẩy hoạt động đấu giá cổ phần hóa, đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, giúp ngân sách Nhà nước thu về hàng trăm nghìn tỷ đồng. Không chỉ vậy, hệ thống này còn khẳng định mình như điểm đến cho các doanh nghiệp muốn tập dượt trước khi niêm yết trên các Sở giao dịch chứng khoán và là môi trường cho các doanh nghiệp tiếp tục hoàn thiện mình để có thể đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường niêm yết. Từ đây đã có nhiều doanh nghiệp trưởng thành và chuyển lên niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Như vậy, Chính phủ đã kịp thời điều chỉnh hệ thống thị trường giao dịch chứng khoán nói chung và thị trường giao dịch cổ phiếu ra công chúng cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn nền kinh tế nước ta.

2.2.2. Điều kiện giao dịch cổ phiếu chào bán ra công chúng Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Căn cứ khoản 1 Điều 48 và khoản 2 Điều 50 LCK2019, Cổ phiếu chào bán phải được niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch và không được giao dịch bên ngoài hệ thống giao dịch chứng khoán do Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con tổ chức, trừ trường hợp giao dịch không mang tính chất mua bán hoặc giao dịch khác không thể thực hiện được thông qua hệ thống giao dịch chứng khoán. Như vậy, điều kiện Giao dịch cổ phiếu cũng đồng thời là điều kiện đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch hoặc điều kiện niêm yết.

  • Điều kiện đăng ký giao dịch cổ phiếu chào bán ra công chúng trên hệ thống giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết

Hiện nay, căn cứ Điều 133 Nghị định 155/2020/NĐ-CP, để đăng ký Giao dịch cổ phiếu trên hệ thống giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết, doanh nghiệp không cần phải đáp ứng các điều kiện khắt khe như như điều kiện niêm yết mà chỉ cần là “Công ty đại chúng không niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán” hoặc là “doanh nghiệp cổ phần hóa thuộc đối tượng phải đăng ký giao dịch theo quy định pháp luật về chuyển doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần” hoặc là “công ty bị hủy bỏ niêm yết bắt buộc hoặc hủy bỏ niêm yết tự nguyện nhưng vẫn đáp ứng điều kiện là công ty đại chúng”.

Việc đăng ký Giao dịch cổ phiếu trên hệ thống giao dịch gần như không có điều kiện là vì nhà làm luật muốn mở rộng thị trường có tổ chức, thu hẹp thị trường phi tổ chức và tự phát nhằm tính minh bạch và đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư nhỏ lẻ, đồng thời cũng là môi trường để các doanh nghiệp trước khi niêm yết tập dượt.

  • Điều kiện để niêm yết cổ phiếu chào bán ra công chúng trên Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam

Hiện nay, điều kiện để niêm yết Cổ phiếu chào bán được LCK2019 và Nghị định 155/2020/NĐ-CP quy định niêm yết tập trung và thống nhất trên Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên, ở giai đoạn LCK2006, LCK2010 và Nghị định 58/2012/NĐ-CP có hiệu lực, các nhà làm luật chia điều kiện để niêm yết Cổ phiếu chào bán thành điều kiện để niêm yết Cổ phiếu chào bán trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội là khác nhau. Trong đó, Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh có điều kiện niêm yết cao hơn Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.

So sánh với điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội trước đây, điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam có sự điều chỉnh phù hợp cả về lượng và chất. Theo đó, các điều kiện của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam cao hơn hoặc bằng so với Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội nhưng lại thấp hơn hoặc bằng Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời bổ sung thêm các điều kiện khác nhằm tăng chất lượng của hàng hóa niêm yết, cụ thể như sau: Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

 Thứ nhất, điều kiện về vốn điều lệ của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam là 30 tỷ đồng, bằng Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội nhưng thấp hơn Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (120 tỷ), tuy nhiên, số vốn điều lệ phải “căn cứ trên báo cáo tài chính gần nhất được kiểm toán”, đồng thời còn phải đảm bảo thêm điều kiện về vốn hóa.

Thứ hai, điều kiện về thời gian hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam là được quy định là “đã giao dịch trên hệ thống giao dịch Upcom tối thiểu 02 năm, trừ trường hợp tổ chức đăng ký niêm yết đã chào bán cổ phiếu ra công chúng, doanh nghiệp cổ phần hóa”. Điều kiện này được đánh giá là cao hơn so với hai Sở giao dịch chứng khoán trong giai đoạn trước đây vì trước đây, điều kiện về thời gian hoạt động chỉ là khoảng thời gian “hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần”. Ở điều kiện này, hiện nay Nghị định 155/2020/NĐ-CP cho phép Công ty cổ phần có thể không cần “giao dịch trên hệ thống giao dịch Upcom tối thiểu 02 năm” mà chỉ cần công ty niêm yết thực hiện Chào bán cổ phiếu. Điểm này rất đặc biệt vì muốn Chào bán cổ phiếu thì Công ty cổ phần cũng cần phải thỏa nhiều điều kiện khác theo luật định.

Thứ ba, điều kiện về tỷ lệ lợi nhuận của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam giống với hai Sở giao dịch chứng khoán trong giai đoạn trước đây đều “là 5% và hoạt động kinh doanh của hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi; không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên 01 năm; không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký niêm yết”. Tuy nhiên, những điều kiện này hiện nay được pháp luật nâng cao hơn vì yêu cầu số liệu phải “được kiểm toán” hoặc phải “được soát xét” nhằm đảm bảo tính chính xác của số liệu.

Thứ tư, điều kiện “tối thiểu 15% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông không phải cổ đông lớn nắm giữ” của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam bằng Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội nhưng thấp hơn Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (20% cổ phiếu và 300 cổ đông). Tỷ lệ này ở Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam sẽ được giảm xuống “10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết” nếu “vốn điều lệ của tổ chức đăng ký niêm yết từ 1.000 tỷ đồng trở lên”. Đây được đánh giá là quy định linh hoạt, phù hợp với tùy cấp độ vốn của doanh nghiệp.

Thứ năm, điều kiện về thời gian phải nắm giữ “100% số cổ phiếu” của các chức danh quản lý trong doanh nghiệp “trong thời gian 06 tháng” “50% số cổ phiếu này trong thời gian 06 tháng tiếp theo” của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam giống với hai Sở giao dịch chứng khoán trong giai đoạn trước đây, tuy nhiên, điều kiện này hiện nay được pháp luật quy định chi tiết và chặt chẽ hơn.

Thứ sáu, thay vì quy định điều kiện doanh nghiệp cần có “hồ sơ đăng ký niêm yết “hợp lệ” như hai Sở giao dịch chứng khoán trong giai đoạn trước đây thì nhà làm luật quy định điều kiện tương đương ở Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam là doanh nghiệp muốn niêm yết cần “có công ty chứng khoán tư vấn hồ sơ đăng ký, niêm yết, trừ trường hợp tổ chức đăng ký niêm yết là công ty chứng khoán” để tránh việc hồ sơ của doanh nghiệp muốn niêm yết không hợp lệ khiến quá trình niêm yết bị khó khăn, kéo dài. Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Ngoài ra, Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam có thêm điều kiện “công ty, người đại diện theo pháp luật của công ty không bị xử lý vi phạm trong thời hạn 02 năm tính đến thời điểm đăng ký niêm yết do thực hiện hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán” theo quy định pháp luật nhưng bỏ điều kiện phải “công khai mọi khoản nợ” đối một số chức danh quản lý và những người có liên quan theo luật định so với hai Sở giao dịch chứng khoán trong giai đoạn trước đây.

Đối với cổ phiếu của tổ chức chào bán nước ngoài niêm yết tại Việt Nam, các điều kiện niêm yết được pháp luật quy định tương tự như các điều kiện trên, tuy nhiên cần đảm bảo các điều kiện khác về số lượng cổ phiếu được phép chào bán tại Việt Nam và “tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý ngoại hối” căn cứ Điều 123 Nghị định 155/2020/NĐ-CP.

Tóm lại, nhìn chung các điều kiện niêm yết Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam tương đương với các điều kiện niêm yết ở Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và thấp hơn Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh về lượng nhưng có thêm các điều kiện bổ sung nâng cao về chất.

2.2.3. Quy trình giao dịch cổ phiếu chào bán ra công chúng

  • Mở tài khoản giao dịch tại công ty chứng khoán

Để Giao dịch cổ phiếu, nhà đầu tư phải chọn một công ty chứng khoán là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán để làm bên môi giới và mở tài khoản giao dịch tại công ty chứng khoán này.

Căn cứ Điều 6, Điều 10 và Điều 11 Thông tư số 120/2020/TT-BTC, “nhà đầu tư được mở nhiều tài khoản giao dịch chứng khoán theo nguyên tắc tại mỗi công ty chứng khoán nhà đầu tư chỉ được mở 01 tài khoản giao dịch chứng khoán, ngoại trừ các trường hợp” nhà đầu tư mở “tài khoản tài khoản giao dịch trong ngày” hoặc “tài khoản giao dịch bán khống có bảo đảm” hoặc trừ trường hợp nhà đầu tư là “công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán”, “chi nhánh công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam”, “công ty chứng khoán”, “tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài”, “doanh nghiệp bảo hiểm”.

  • Đặt lệnh tại công ty chứng khoán

Sau khi phân tích và lựa chọn được mã cổ phiếu phù hợp, nhà đầu tư có thể đặt lệnh giao dịch tại công ty chứng khoán thành viên. Căn cứ khoản 1 Điều 3 Thông tư số 120/2020/TT-BTC, có 2 loại phương thức khớp lệnh được Sở giao dịch chứng khoán tổ chức giao dịch đó là “phương thức khớp lệnh tập trung và phương thức khớp lệnh thỏa thuận”: – “Phương thức khớp lệnh tập trung là phương thức giao dịch được thực hiện trên hệ thống giao dịch chứng khoán trên cơ sở so khớp các lệnh mua và lệnh bán chứng khoán. Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Phương thức giao dịch thỏa thuận là phương thức giao dịch trong đó các bên tham gia giao dịch thông qua thành viên giao dịch tự thỏa thuận về các điều kiện giao dịch trên hệ thống giao dịch chứng khoán; hoặc các bên tham gia giao dịch thỏa thuận, thực hiện giao dịch, sau đó thông qua thành viên giao dịch ghi nhận kết quả giao dịch vào hệ thống giao dịch chứng khoán”

Theo đó, phương thức khớp lệnh tập trung thường dành cho nhà đầu tư không phải là nhà đầu tư chuyên nghiệp, mua cổ phiếu với khối lượng thường không quá lớn, còn phương thức giao dịch thỏa thuận thường được các nhà đầu tư chuyên nghiệp sử dụng để mua khối lượng cổ phiếu lớn, các nhà đầu tư này cũng có hiểu biết sâu rộng về cổ phiếu mình giao dịch và đàm phán, thương lượng mức giá hợp lý.

Khi đặt lệnh giao dịch, nhà đầu tư cũng phải tuân thủ các quy định của Sở giao dịch chứng khoán hạn như về “thời gian giao dịch, cách xác định giá tham chiếu, biên độ dao động, khối lượng giao dịch”,…

  • Tiến hành khớp lệnh

Đối với phương thức khớp lệnh tập trung, “phương thức khớp lệnh tập trung bao gồm khớp lệnh định kỳ và khớp lệnh liên tục. Khớp lệnh định kỳ là phương thức giao dịch được thực hiện trên hệ thống giao dịch chứng khoán trên cơ sở so khớp các lệnh mua và lệnh bán chứng khoán tại một thời điểm xác định. Khớp lệnh liên tục là phương thức giao dịch được thực hiện trên hệ thống giao dịch chứng khoán trên cơ sở so khớp các lệnh mua và lệnh bán chứng khoán ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch chứng khoán.

Sau khi đặt lệnh, hệ thống giao dịch sẽ sắp xếp các lệnh theo thứ tự “ưu tiên về giá và thời gian”. Sau đó, những lệnh chưa khớp sẽ được đưa vào danh sách chờ cho lần khớp kế tiếp. Hết phiên giao dịch của ngày, hệ thống sẽ tự động hủy những lệnh chưa thực hiện mà không cần xác nhận của khách hàng.

Đối với phương thức giao dịch thỏa thuận, các bên tham gia giao dịch sẽ tự thỏa thuận, thống nhất các nội dung giao dịch trên hệ thống giao dịch nên việc khớp lệnh sẽ diễn ra đơn giản về mặt kỹ thuật nhưng phức tạp về việc đàm phán, thương lượng giữa các bên.

  • Thông báo kết quả giao dịch Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Sau khi quá trình khớp lệnh được hoàn thành, các công ty thành viên sẽ được thông tin về kết quả giao dịch. Công ty chứng khoán sẽ dựa vào thông tin này để thông báo và xác nhận kết quả giao dịch cho từng nhà đầu tư. Thành viên giao dịch sẽ phải chịu trách nhiệm do nhầm lẫn, sai sót trong việc nhận lệnh, xử lý lệnh hoặc trong quá trình chuyển, nhập lệnh vào hệ thống giao dịch.

  • Thanh toán, bù trừ

Tại cuối ngày giao dịch, dữ liệu sẽ được chuyển toàn bộ đến hệ thống để phục vụ cho việc bù trừ nhằm chuẩn bị dữ liệu thanh toán, sau đó, Trung tâm lưu ký chứng khoán sẽ đối chiếu, bù trừ cổ phiếu và tiền để thanh toán rồi thông báo cho các thành viên. Khi đó, giao dịch cổ phiếu của nhà đầu tư mới chính thức được hoàn tất.

Việc bù trừ và thanh toán giao dịch cổ phiếu là những dịch vụ hỗ trợ và đảm bảo cho việc thanh toán giao dịch, chuyển quyền sở hữu cổ phiếu, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư. Mọi cổ phiếu được giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán đều phải lưu ký tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán để dễ dàng quản lý, giám sát việc lưu thông chứng khoán và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh toán cổ phiếu. Đồng thời, những dịch vụ này nhằm giảm chi phí giao dịch, thuận lợi cho nhà đầu tư cũng như tăng tính an toàn, minh bạch cho giao dịch.

2.2.4. Giám sát giao dịch cổ phiếu chào bán ra công chúng

Giám sát là hoạt động quan trọng của các cơ quan nhà nước quản lý hoạt động giao dịch chứng khoán nói chung và Giao dịch cổ phiếu nói riêng. Mục đích của việc giám sát Giao dịch cổ phiếu là nhằm tìm ra nguyên nhân của những biến động bất thường của thị trường để kịp thời phát hiện và điều chỉnh hành vi vi phạm của các chủ thể trên thị trường, đảm bảo thị trường vận hành công bằng và hiệu quả.

Căn cứ Điều 2 Thông tư 95/2020/TT-BTC, chủ thể giám sát Giao dịch cổ phiếu gồm có “Ủy ban Chứng khoán Nhà nước”; “Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và các công ty con”; “Tổng Công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam”; “Thành viên giao dịch”. Đối tượng giám sát Giao dịch cổ phiếu gồm có các tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình giao dịch, cung cấp các dịch vụ liên quan đến giao dịch trên thị trường. Tùy vào phạm vi quản lý của mình, các chủ thể giám sát giao dịch chứng khoán có trách nhiệm khác nhau và hỗ trợ nhau giám sát Giao dịch cổ phiếu:

UBCKNN có trách nhiệm giám sát chính gồm việc giám sát bao quát và tổng quan, đề ra phương hướng và chỉ đạo công tác giám sát chung của các chủ thể giám sát, đồng thời ban hành quy chế phối hợp giám sát và chủ chỉ các hoạt động giám sát.

SGDCK Việt Nam và các công ty con là chủ thể giám sát thấp hơn Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và có trách nhiệm giám sát chính gồm việc triển khai yêu cầu giám sát của UBCKNN, ban hành tiêu chí giám sát cụ thể để làm thước đo cho hoạt động giám sát và phối hợp cũng như chỉ đạo các chủ thể giám sát khác. Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Tổng Công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam có trách nhiệm giám sát chính gồm việc các hoạt động về bù trừ thanh toán, giới hạn vị thế, ký quỹ đối với Giao dịch cổ phiếu theo quy định.

Các thành viên giao dịch có trách nhiệm giám sát chính gồm việc triển khai áp dụng hệ thống chỉ tiêu báo cáo giám sát giao dịch theo hướng dẫn của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam, giám sát diễn biến các giao dịch trong ngày, nhiều ngày của các nhà đầu tư mở tài khoản hoặc thực hiện giao dịch tại nơi thành viên giao dịch cung cấp dịch vụ, giám sát việc tuân thủ quy định pháp luật về giao dịch cổ phiếu của các cá nhân, tổ chức mở tài khoản hoặc có giao dịch tại nơi thành viên giao dịch cung cấp dịch vụ giao dịch.

Như vậy, việc giám sát Giao dịch cổ phiếu của các cơ quan nhà nước quản lý hoạt động này đang được phân thành bốn cấp chính với phạm vi và nhiệm vụ rõ ràng, có sự phối hợp qua lại chặt chẽ giúp thị trường Giao dịch cổ phiếu được công bằng, minh bạch và hiệu quả.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Chương 2 của luận văn đã nghiên cứu quy định pháp luật điều chỉnh về Cổ phiếu chào bán.

Thứ nhất, chương 2 của luận văn nghiên cứu quy định pháp luật điều chỉnh về Chào bán cổ phiếu, bao gồm:

  • Hình thức Chào bán cổ phiếu:

Căn cứ vào tiêu chí thời gian chào bán, có thể phân loại Chào bán cổ phiếu thành hai hình thức: Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng.

Căn cứ vào chủ thể chào bán, ta có thể phân loại hoạt động Chào bán cổ phiếu thành hai hình thức: Chào bán cổ phiếu trực tiếp và Chào bán cổ phiếu gián tiếp.

Chủ thể Chào bán cổ phiếu: o Đối với hình thức chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng và chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng: Ở hình thức chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng, xét ở góc độ loại hình doanh nghiệp thì chủ thể chào bán gồm Công ty cổ phần và các chủ thể khác, xét ở góc độ nguồn vốn thì gồm có tổ chức kinh tế tư nhân và tổ chức kinh tế nhà nước; Ở hình thức chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng, chủ thể chào bán bắt buộc phải là công ty đại chúng vì sau khi Chào bán cổ phiếu lần đầu thì chủ thể chào bán đã trở thành công ty đại chúng.

Đối với hình thức chào bán cổ phiếu trực tiếp và gián tiếp, chủ thể Chào bán cổ phiếu tùy vào trường hợp mà sẽ chia ra chào bán lần đầu hoặc chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng, khi đó, chủ thể Chào bán cổ phiếu sẽ giống như đã trình bày ở trên.

Điều kiện Chào bán cổ phiếu: So với LCK2006 và LCK2010, LCK2019 đã tách điều kiện Chào bán cổ phiếu thành điều kiện Chào bán cổ phiếu lần đầu và điều kiện chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng, đồng thời có ba điều kiện được nâng cao mức độ, một điều kiện được giữ nguyên và có thêm nhiều điều kiện mới.

Trình tự, thủ tục Chào bán cổ phiếu: Trình tự, thủ tục Chào bán cổ phiếu gồm ba bước: Thứ nhất, đăng ký Chào bán cổ phiếu; Thứ hai, công bố thông tin trước khi Chào bán cổ phiếu; Thứ ba, phân phối Cổ phiếu chào bán. Trong ba bước trên, bước thứ ba, phân phối cổ phiếu ra công chúng có thể được xem là bước quan trọng nhất vì bước phân phối cổ phiếu ra công chúng sẽ quyết định thành bại của đợt Chào bán cổ phiếu.

Thứ hai, chương 2 của luận văn cũng nghiên cứu quy định pháp luật điều chỉnh về Giao dịch cổ phiếu, gồm các nội dung được trình bày về: Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Thị trường Giao dịch cổ phiếu: Một là, thị trường Giao dịch cổ phiếu của Việt Nam là thị trường tập trung, thị trường Giao dịch cổ phiếu phi tập trung chưa được pháp luật cho phép hoạt động. Hai là trình bày về Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con, thị trường giao dịch chứng khoán dành cho chứng khoán chưa niêm yết.

Điều kiện Giao dịch cổ phiếu: Thứ nhất, giải thích việc điều kiện Giao dịch cổ phiếu cũng đồng thời là điều kiện đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch hoặc điều kiện niêm yết. Thứ hai, trình bày về điều kiện đăng ký Giao dịch cổ phiếu trên hệ thống giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết và điều kiện để niêm yết Cổ phiếu chào bán trên Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam từ đó so sánh các điều kiện niêm yết này.

Quy trình Giao dịch cổ phiếu gồm năm bước: (i) Mở tài khoản giao dịch tại công ty chứng khoán; (ii) Đặt lệnh tại công ty chứng khoán; (iii) Tiến hành khớp lệnh; (iv) Thông báo kết quả giao dịch; (v) Thanh toán, bù trừ.

Giám sát Giao dịch cổ phiếu: Việc giám sát Giao dịch cổ phiếu của các cơ quan nhà nước được phân thành bốn cấp chính với phạm vi và nhiệm vụ rõ ràng, có sự phối hợp qua lại chặt chẽ giúp thị trường Giao dịch cổ phiếu được công bằng, minh bạch và hiệu quả. Luận văn: Quy định pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng.

Việc nghiên cứu quy định pháp luật điều chỉnh về Cổ phiếu chào bán tạo cơ sở để nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về Cổ phiếu chào bán từ năm 2010 đến nay và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Luận văn: Thực tiễn pháp luật về cổ phiếu chào bán ra công chúng

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0972114537