Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước – Bài học kinh nghiệm từ triều Trần dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt là trung tâm của hệ thống chính trị, mang trong mình bản chất giai cấp và tính xã hội. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, từ hình thái nhà nước sơ khai đến nhà nước xã hội chủ nghĩa, hoạt động quản lý của nhà nước ngày càng được chú trọng hơn trên cả phương diện lý luận khoa học và thực tiễn. Với việc làm rõ hơn vai trò, chức năng của nhà nước, khoa học quản lý nói chung và khoa học hành chính nói riêng cũng đi sâu nghiên cứu từng yếu tác động đến quản lý nhà nước trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của người dân với tư cách vừa là chủ thể của quyền lực nhà nước vừa là đối tượng quản lý của nhà nước.
Trên thế giới ngay từ thời kỳ văn minh Hy Lạp cổ đại khái niệm “dân chủ” đã được các nhà chính trị học, triết học như Platon, Aristote đề cập, tuy còn sơ khai và chưa đầy đủ song đây cũng là sự khẳng định bước đầu về vai trò của người dân trong quản lý nhà nước và công việc cộng đồng.
Ở Việt Nam, với đặc thù của nền văn minh nông nghiệp, ngay từ buổi đầu dựng nước người Việt đã xây dựng được tinh thần đoàn kết gắn bó chặt chẽ trong cộng đồng, đó đã trở thành sợi dây kết nối bền chặt toàn dân tộc, tư tưởng trọng dân, thân dân, yêu dân và vì dân được kế thừa và phát huy, trở thành tư tưởng chính trị chiến lược xuyên suốt mọi thời kỳ lịch sử, mọi hình thái nhà nước của dân tộc ta. Nhìn lại lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước có thể thấy rằng lòng dân và vận nước là hai phạm trù có mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau, lòng dân quyết định vận nước và quay trở lại vận nước có lên thì lòng dân mới yên. Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
Kể từ khi cách mạng tháng tám thành công, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, nhân dân Việt Nam đã được thừa nhận và khẳng định vị trí chính trị và vai trò đầy đủ của mình đối với nhà nước, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhân dân có quyền làm chủ vận mệnh quốc gia và chính bản thân mình. Hiến Pháp năm 2013 tại khoản 1 Điều 28 đã nêu rõ: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mà xã hội ngày càng phát triển, đời sống của nhân ngày một nâng cao thì nhu cầu tham gia vào các hoạt động chính trị xã hội của người dân ngày càng lớn, trong đó đặc biệt là công tác quản lý nhà nước và cũng chỉ có sự tham gia tích cực, hiệu quả của người dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân mới đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Ngược dòng thời gian hơn 700 năm đã có một triều đại phong kiến đưa tư tưởng trọng dân, thân dân và như cách nói của chúng ta ngày nay là phát huy quyền làm chủ của nhân dân lên đến đỉnh cao với nhiều tư tưởng tiến bộ, đi trước thời đại đó là vương triều Trần với những thành tựu chói sang trên tất cả các mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự. Vương triều Trần với 175 năm trị vì đã để lại cho chúng ta ngày nay những bài học sâu sắc và có giá trị lớn lao trong quản lý nhà nước, xây dựng nhà nước và nhất là việc chú trọng vai trò tiên quyết của nhân dân đối với thành công của nhà nước. Nhận thấy đây là một vấn đề có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với công tác quản lý nhà nước, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước – Bài học kinh nghiệm từ triều Trần” làm đề tài luận văn chuyên ngành quản lý công.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Một số các công trình nghiên cứu, cuốn sách, sản phẩm khoa học có liên quan đến đề tài luận văn có thể kể đến như sau:
Cuốn sách Đông A Nhân Kiệt [4] do tác giả Hoàng Dương Chương – Trịnh Thị Nga sưu tầm và biên soạn, NXB Văn hóa Dân tộc – 2011. Cuốn sách đã nêu lên những cá nhân tiêu biểu, kiệt xuất của triều Trần dưới góc nhìn đa chiều, đặc biệt là sự đánh giá, ghi nhận rất lớn về tư tưởng chính trị trong đó có nội dung rất lớn về tấm lòng yêu nước, thương dân của các bậc quân vương, tể phụ. Thông qua tìm hiểu về từng cá nhân kiệt xuất có thể tìm thấy điểm chung trong tư tưởng chính trị của chính quyền trung ương dưới triều Trân, đặc biệt là những nhân vật quan trọng trong bộ máy chính quyền.
Cuốn sách Tư Tưởng Chính Trị “Dân là gốc” [25] trong Lịch Sử Việt Nam, do Thiếu tướng, PGS.TS. Lê Văn Thắng – TS. Nguyễn Văn Tuân (đồng chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật, 2018. Cuốn sách là sự khái quát chiều dài lịch sử đất nước ta suốt hàng nghìn năm, công cuộc dựng nước và giữ nước đã lấy tư tưởng “dân là gốc” làm tôn chỉ, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tư tưởng này được phát huy cao độ dưới thời nhà Trần. Đây là một công trình khoa học được đầu tư công phu, với giá trị rất lớn về mặt lý luận. Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
Cuốn sách Tư Tưởng Việt Nam Thời Trần [28] do TS. Trần Thuận biên soạn, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, cuốn sách là sự nhìn nhận đánh giá tư tưởng thời Trần ở một không gian rộng hơn tuy nhiên vẫn tập trung lớn ở tinh thần đoàn kết nhân dân, lấy sức mạnh lòng dân là căn bản, là động lực đưa quốc gia, dân tộc phát triển. Trên cơ sở nghiên cứu tổng thể tư tưởng Việt Nam thời Trần tác giả đã làm rõ và đi sâu đối với hệ tư tưởng chính trị làm nền tảng cho công cuộc trị nước với việc đề cao vai trò của nhân dân.
Cuốn sách Tư Tưởng Chính Trị Thời Trần: Nội Dung, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử [6] của tác giả TS. Nguyễn Thị Thùy Duyên, NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật, 2017. Đây có thể nói là công trình khoa học có nội dung gần nhất đối với đề tài luận văn khi mà đối tượng nghiên cứu chính ở đây là tư tưởng chính trị, tác giả đã đi sâu khai thác, nghiên cứu đa chiều, trên nhiều phương diện về tư tưởng chính trị thời Trần, làm nổi bật các giá trị cốt lõi có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất cao.
Cuốn sách Thời Đầu Nhà Trần [19] của tác giả Ngô Văn Phú, NXB Trẻ – NXB Giáo dục Việt Nam, cuốn sách với những căn cứ lịch sử và khoa học đáng tin cậy là nguồn tư liệu quan trọng về các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử tất cả đều hướng đến nội dung cốt lõi xuyên suốt chiều dài lịch sử vương triều Trần đó là sự gần gũi giữa chính quyền với nhân dân, giữa quý tộc với tầng lớp bình dân. Nghiên cứu giai đoạn đầu của triều Trần cũng là quá trình đi sâu tìm hiểu bản chất, nguồn gốc của tư tưởng thân dân trong chính sách trị nước của họ Trần
Cuốn sách Chăm lo lợi ích, hạnh phúc và phát huy quyền làm chủ của nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, 2019. Cuốn sách chọn lọc 12 bài viết của các nhà lãnh đạo, quản lý, nhà nghiên cứu nhằm góp phần làm rõ thêm tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong việc chăm lo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Luận án Tiến sĩ Triết học: Bệnh quan liêu trong hệ thống chính trị và phương hướng khắc phục để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân Việt Nam hiện nay, tác giả Trần Quang Minh. Luận án là công trình khoa học nhiều tâm huyết đã làm sáng tỏ thực trạng bệnh quan liêu trong hệ thống chính trị, nguyên nhân, tác hại của nó và đề ra phương hướng, giải pháp khắc phục để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Cuốn sách Quyền làm chủ của nhân dân [9], tác giả Trần Hiệu, NXB Sự thật, 1969. Nội dung của cuốn sách khái quát quá trình bảo đảm và mở rộng quyền làm chủ của nhân dân. Chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước xác định nội dung các quyền dân chủ của nhân dân. Những thiếu sót cần phải khắc phục, những việc làm để phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài từ việc nghiên cứu làm rõ mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, cũng như những bài học của triều Trần trong việc phát huy sức mạnh của nhân dân để áp dụng vào tình hình thực tế công tác quản lý nhà nước hiện nay, phát huy hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân đối với quản lý nhà nước, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước, về dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, vai trò của nhân dân trong quản lý nhà nước.
- Hệ thống hóa những bài học, những giá trị tư tưởng của triều Trần đối với việc phát huy sức mạnh của nhân dân, chính sách trọng dân, thân dân.
- Đánh giá tổng thể và chi tiết đối với những bài học từ triều Trần trong việc xây dựng mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, trên cơ sở đó rút ra những bài học có thể vận dụng vào thực tiễn nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước ở việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thời đại nhà Trần.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: tìm hiểu và làm rõ nội dung về các chính sách trọng dân thân dân dưới thời đại nhà Trần
- Phạm vi về thời gian: từ năm 1225 đến năm 1399 là khoảng thời gian trị vì của vua vương triều Trần
- Phạm vi về không gian: bối cảnh nước Đại Việt dưới sự trị vì của triều Trần
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1 Phương pháp luận Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. Trong đó, phương pháp duy vật lịch sử được dùng để xác lập, khẳng định mốc thời gian lịch sử cụ thể gắn với quá trình hình thành và phát triển của vương triều Trần. Phương pháp duy vật biện chứng nhìn nhận vấn đề phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới triều đại nhà Trần trong đặc biệt gắn liền mối quan hệ giữa thời kỳ lịch sử và trình độ phát triển.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Là phương pháp được tác giả vận dụng trong hầu hết các nội dung của luận văn nhằm mục đích làm sáng tỏ vấn đề lý luận về phát huy quyền làm chủ của nhân dân tương ứng với từng thời kỳ lịch sử
- Phương pháp lịch sử: tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu này nhằm xác định mốc thời gian, bối cảnh lịch sử quan trọng dưới triều đại nhà Trần.
- Phương pháp đánh giá: được sử dụng để đánh giá một cách khác quan không thiên lệch đối với những biện pháp, chủ trương, chính sách của triều Trần trong việc phát huy vai trò của nhân dân trong quản lý đất nước và xã hội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, cũng như chỉ rõ sự phát triển của tư tưởng trọng dân trong một giai đoạn lịch sử.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy, nghiên cứu liên quan đến lịch sử hành chính nhà nước.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cơ quan quản lý nhà nước đặc biệt là chính quyền các cấp trong việc xây dựng cơ chế, biện pháp để phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước
- Chương 2: Vương triều Trần và việc thực hiện chính sách trọng dân, thân dân trong trị quốc và điều hành chính sự
- Chương 3: Những bài học kinh nghiệm của triều Trần và giá trị tham khảo về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Quản lý nhà nước
Quản lý là hoạt động gắn liền với tổ chức xã hội, ngay từ hình thái xã hội sơ khai nhất của loài người, nhu cầu về quản lý và được quản lý đã xuất hiện. Trong quá trình tồn tại và phát triển con người phải thực hiện nhiều công việc mà bản thân sức lực một người hoặc một vài người không thể thực hiện được như săn bắn thú lớn, chống lại kẻ thù, thiên tai, từ đó xuất hiện nhu cầu phải có sự quản lý để thống nhất hành động, phối hợp chặt chẽ giữa các cá nhân, tập hợp sức mạnh lớn nhất của cộng đồng, các tù trưởng, tộc trưởng, người đứng đầu gia đình có thể nói là những nhà quản lý đầu tiên trong xã hội. Cùng với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, quá trình phân công lao động bắt đầu diễn ra, tính chuyên môn hóa trong sản xuất, trao đổi và lưu thông hàng hóa càng đòi hỏi sự quản lý tập trung và hiệu quả đến từng ngành nghề, từng lĩnh vực, con người cần có sự quản lý để thực hiện những công việc có tính phức tạp hơn với trình độ cao hơn.
Quản lý là hoạt động có chủ đích, có định hướng của chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý để thực hiện một mục tiêu nhất định. Quản lý xuất hiện cùng với tổ chức, có tổ chức là phải có sự quản lý nhằm hướng mọi nỗ lực, cố gắng của các thành viên trong tổ chức thực hiện mục tiêu chung. Các yếu tố trong quản lý bao gồm:
- Chủ thể quản lý: Là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể có thể là cá nhân hoặc tổ chức.
- Khách thể quản lý: Là các quy luật, quá trình, hành vi chịu sự điều chỉnh của chủ thể quản lý
- Đối tượng quản lý: Là nhân tố tiếp nhận sự tác động của chủ thể quản lý. Tùy theo đặc điểm, tính chất của mỗi đối tượng quản lý khác nhau, có thể chia thành các dạng quản lý khác nhau
- Mục tiêu quản lý: Là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất định do chủ thể quản lý quyết định.
Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị của xã hội có giai cấp, có lãnh thổ, dân cư và chính quyền độc lập có khả năng đặt ra và thực thi pháp luật, chính sách nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Như vậy về mặt bản chất nhà nước ra đời để thực hiện chức năng quản lý xã hội, quản lý một quốc gia, để thực hiện chức năng này nhà nước nắm trong tay quyền lực chính trị đặc biệt đó là quyền lực nhà nước, quyền lực nhà nước có địa vị cao nhất, bao trùm lên toàn bộ lãnh thổ, chi phối tác động đến mọi mặt của đời sống, không ai, không tổ chức nào đứng trên quyền lực nhà nước.
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý đặc biệt do nhà nước thực hiện, sử dụng quyền lực nhà nước tác động lên mọi mặt của đời sống xã hội với mục tiêu duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, do bộ máy nhà nước thực hiện thông qua việc ban hành chính sách và pháp luật, quản lý nhà nước có phạm vi tác động trên toàn bộ lãnh thổ của một quốc gia.
1.1.2. Dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
Dân chủ là một phạm trù lịch sử xuất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội loài người, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, hình thái xã hội đầu tiên của nhân loại, “dân chủ” xuất hiện với việc mọi thành viên trong cộng đồng đều có quyền lợi bình đẳng như nhau đối với của cải, vật chất, được phân chia đồng đều các chiến lợi phẩm từ săn bắn, hái lượm, thủ lĩnh của bộ lạc, thị tộc là những người được tất cả tôn kính và bầu lên, với ý nghĩa nguyên thủy đó, “dân chủ” trở thành một phương thức tồn tại, một nguyên tắc sống của xã hội cộng sản nguyên thủy. Mỗi cá nhân được bình đẳng về quyền lợi, được đối xử như nhau không có sự phân chia, không có đặc quyền, đặc lợi, quyền lực thuộc về mọi người. Cùng với sự phát triển của trình độ sản xuất, xã hội bắt đầu có sự phân chia giai cấp và hình thành nên hình thái nhà nước đầu tiên – nhà nước chiếm hữu nô lệ, quyền lực công, quyền lực chung của cộng đồng lúc này bị tha hóa và nằm trong tay giai cấp thống trị, “dân chủ” trên phạm vi toàn xã hội biến mất, bất bình đẳng xã hội xuất hiện, trải qua nhiều giai đoạn phát triển của lịch sử, với các hình thức nhà nước khác nhau, nhân dân tiếp tục đấu tranh giành lấy quyền dân chủ.
Về mặt học thuật, lần đầu tiên dân chủ được nhắc đến như một thuật ngữ chính trị và được biểu hiện dưới một chế độ chính trị là thời Hy Lạp cổ đại tại thành bang Athens, “dân chủ” tiếng anh là Democratic xuất phát từ tiếng Hy Lạp tức “là quyền lực nhân dân”, được thể hiện qua mô hình dân chủ Athens với việc nhân dân tham gia biểu quyết các vấn đề của nhà nước, các quyết đinh đưa ra trên cơ sở số đông. “ Sau khi vua Alcemaeon bang hà vào năm 753 trước Thiên chứa giáng sinh (TCN), Athens được tổ chức theo dân chủ nghị viện: công dân được quyền nghị viện, nhưng chức vụ thẩm phán vẫn dành cho quý tộc. Đến thế kỷ thứ V(TCN), Athens hoàn toàn theo thể chế dân chủ trực tiếp. Mọi công dân đều trực tiếp tham gia việc nước: nghị luận, bàn cãi, bầu bán, biểu quyết,v.v…Do đó, Athens được coi là nơi có chế độ dân chủ đầu tiên, nơi mà mọi người dân đều được tham gia chính sự.”[1,tr9]. Như vậy trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại lần đầu tiên “dân chủ” xuất hiện với tư cách là một chế độ chính trị mà ở đó mọi công dân có quyền tham gia bàn bạc, biểu quyết và quyết định các công việc của nhà nước, tuy nhiên dân chủ ở đây còn bị hạn chế về đối tượng khi mà phụ nữ và nô lệ không được thực hiện quyền biểu quyết và bàn bạc.
Ở phương Đông, Nho giáo nguyên thủy sớm đưa ra tư tưởng : “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là quý nhất, rồi đến đất nước, cuối cùng mới là vua), đây là tư tưởng rất gần gũi với tư tưởng dân chủ, coi trọng vai trò, vị trí của nhân dân, đưa nhân dân vào vị trí trung tâm của quyền lực chính trị. Tuy nhiên, tư tưởng này dần dần bị tha hóa, biến đổi để phù hợp với quyền lợi của giai cấp thống trị. Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
Theo Từ điển Tiếng Anh Oxford, “dân chủ” cũng để chỉ một hình thức nhà nước, trong đó mọi thành viên đều tham gia vào việc ra quyết định về các vấn đề của mình, thường bằng cách bỏ phiếu để bầu người đại diện trong quốc hội hoặc thể chế tương tự.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Thường thức Chính trị (1953) “dân chủ tức là dân là chủ”, người chỉ rõ “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ… Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”. Như vậy thông qua quan điểm rất ngắn gọn về dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên hai nội dung quan trọng của “dân chủ”, thứ nhất dân chủ tồn tại với tư cách là quyền của nhân dân, quyền được làm chủ chính quyền, làm chủ nhà nước, làm chủ chế độ, quyền lựa chọn, xây dựng nên cơ quan dân cử. Thứ hai, dân chủ là một chế độ chính trị, một hình thức nhà nước khi có sự tham gia của tất cả quần chúng nhân dân trong việc xây dựng, điều hành hoạt động của nhà nước, nhà nước đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Giữa “dân chủ” và “quyền làm chủ của nhân dân” có nhiều nội dung tương đồng thậm chí được sử dụng thay thế cho nhau, song về mặt nội hàm cần làm rõ ý nghĩa của khái niệm “ quyền làm chủ của nhân dân” từ đó có cách sử dụng chuẩn xác. Dân chủ là một khái niệm rất rộng, vừa để chỉ một quyền của công dân, vừa chỉ một thể chế chính trị, vừa mang ý nghĩa xã hội, văn hóa, dân chủ trong đời sống chính trị, dân chủ trong đời sống kinh tế, văn hóa xã hội. “Quyền làm chủ của nhân dân” là một khái niệm rất cụ thể, nội hàm rất rõ ràng, quyền làm chủ là làm chủ chính quyền nhà nước, quyền tham gia vào các công việc của nhà nước, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước, nhân dân làm chủ vận mệnh của bản thân, làm chủ vận mệnh của đất nước. “Quyền làm chủ của nhân dân” là một khái niệm gắn liền với sự ra đời của nhà nước dân chủ nhân dân và sau này là nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ phong kiến và thực dân đế quốc, nhân dân ta không có quyền làm chủ, số phận, địa vị chính trị của nhân dân là con số không, nhân dân chịu sự áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, nhân dân không có quyền lực chính trị, chịu kiếp sống nô lệ, quyền lực nhà nước, chính quyền nhà nước lúc này là chính quyền của giai cấp thống trị, chính quyền của số ít. Khi nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, nhân dân thực sự có quyền làm chủ, trực tiếp xây dựng nên chính quyền các cấp, bầu ra đại biểu đại diện cho quyền và lợi ích của chính mình, nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên hiện nay cùng với sự mở rộng quyền làm chủ của nhân dân, quyền làm chủ của nhân dân không chỉ được nhắc đến trong lĩnh vực chính trị mà còn trong nhiều các lĩnh vực khác, trong khuôn khổ luận văn chuyên ngành quản lý công, quyền làm chủ của nhân dân ở đây là quyền làm chủ của nhân dân gắn với hoạt động quản lý nhà nước.
1.1.3. Mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân
Nhà nước là một hiện tượng xã hội ra đời cùng với sự phân chia giai cấp trong xã hội, nhà nước là một tổ chức, một thiết chế quyền lực đặc biệt, có bộ máy cưỡng chế, đảm bảo quyền lợi của giai cấp thống trị. Mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân thay đổi theo từng chế độ, hình thái nhà nước khác nhau xoay quanh bản chất của nhà nước gồm tính giai cấp và tính xã hội. Tính giai cấp thể hiện ở việc nhà nước là công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, thông qua việc ban hành pháp luật nhà nước điều chỉnh hoạt động của xã hội và mọi cá nhân theo ý chí của giai cấp cầm quyền. Tính xã hội thể hiện ở việc nhà nước đại diện cho người dân thực hiện, giải quyết các công việc chung, các vấn đề của toàn xã hội, thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
Đối với các kiểu nhà nước bóc lột, tồn tại giai cấp thống trị và bị trị, mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân là mối quan hệ cai trị, lệ thuộc, tính giai cấp rất rõ rệt và là đặc điểm nổi bật thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân. Nhà nước quản lý xã hội, thu thuế, đề ra các chính sách, pháp luật với nội dung chính là đề cao và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, nhân dân được hưởng một số quyền nhất định nhưng nhìn chung đều nhằm phục vụ cho lợi ích của nhà nước, lợi ích của số ít, nhân dân đóng góp của cải vật chất và nguồn lực để vận hành bộ máy nhà nước song không có quyền tham gia hoặc quyền tham gia vào công việc của nhà nước bị hạn chế.
Đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, tính giai cấp và tính xã hội hòa quyện, thống nhất với nhau, nhà nước là nhà nước của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của toàn thể nhân dân, nhân dân trực tiếp tham gia làm chủ chính quyền nhà nước, điều hành bộ máy nhà nước thông qua cơ quan dân cử. Mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân lúc này là mối quan hệ qua lại, gắn bó với nhau. Nhân dân lập nên nhà nước, nhà nước là nhà nước của dân, do dân, vì dân, quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân, nhân dân đóng thuế, cung cấp nguồn lực vật chất để vận hành bộ máy nhà nước, nhân dân thực hiện sự quản lý, điều hành của nhà nước, thực hiện các chủ trương, chính sách và tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật do nhà nước ban hành, nhân dân trực tiếp hiện thực hóa mọi ý tưởng quản lý của nhà nước, cùng nhà nước quản lý và điều hành đất nước. Về phía nhà nước, nhà nước thực hiện quản lý xã hội, duy trì sự ổn định và trật tự xã hội, giải quyết các vấn đề của người dân, phục vụ đời sống nhân dân, tham gia cung ứng các dịch vụ công, chăm lo đời sống nhân dân, mọi hoạt động của nhà nước đều hướng đến quyền và lợi ích chính đáng của đại bộ phận nhân dân. Giữa nhà nước và nhân dân có mối quan hệ rất chặt chẽ, sự ủng hộ, tín nhiệm của nhân dân quyết định hiệu lực hiệu quả của quản lý nhà nước, ngược lại nhà nước hoạt động có hiệu quả, công bằng, khách quan và nghiêm minh thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân, củng cố niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân đối với nhà nước.
Ngày nay trên thế giới với sự phát triển nhanh của xã hội, mọi nhà nước đang chuyển đổi tính chất hoạt động, từ quản lý, cai trị sang phục vụ, người dân có sự tham gia đầy đủ và sâu rộng hơn vào đời sống chính trị, tham gia tích cực hơn vào hoạt động quản lý của nhà nước.
Đối với nhà nước Việt Nam hiện nay, mối quan hệ với nhân dân được thể hiện qua nguyên tắc: “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp tri thức, tức là cũng đại diện cho đại bộ phận nhân dân lao động, Đảng giữ vai trò lãnh đạo, đề ra các chủ trương, đường lối định hướng cho sự phát triển chung của đất nước, Đảng là hạt nhân của hệ thống chính trị, lãnh đạo toàn diện nhà nước và xã hội. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, ban hành pháp luật, chính sách, quản lý tập trung, thống nhất mọi lĩnh vực của đời sống xã hội với mục tiêu cuối cùng là sự phát triển của đất nước và đời sống của nhân dân. Nhân dân làm chủ chính quyền nhà nước, xây dựng nên chính quyền và bộ máy nhà nước, thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước, thông qua tham gia vào xây dựng chính sách và pháp luật, tham gia vào các công việc chung của xã hội.
1.1.4. Quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước
Quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước được pháp luật thừa nhận và quy định rõ trong Hiến Pháp 2013, Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp quy định: Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”,
Nội dung Điều 2 hiến Pháp nhấn mạnh hai nội dung quan trọng, thứ nhất nhà nước ta do nhân dân làm chủ, thứ hai với việc thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Hiến pháp đã nhấn mạnh vị trí của nhân dân là người nắm giữ quyền lực, trong đó có quyền hành pháp mà cụ thể là quản lý nhà nước.
Quyền làm chủ của nhân dân tiếp tục được khẳng định tại Điều 3 Hiến pháp:
“Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Đối với vấn đề quản lý nhà nước, Điều 28 Hiến Pháp 2013 quy định:
- Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước.
- Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.
Như vậy Hiến Pháp 2013 văn bản luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã làm khẳng định rất rõ những nội dung quan trọng sau:
Thứ nhất, nhân dân có quyền làm chủ, quyền làm chủ thể hiện ở việc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân xây dựng nên chính quyền, nhà nước là của dân, do dân và vì dân.
Thứ hai, nhà nước bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ ba, trong quản lý nhà nước, công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân nói chung, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước nói riêng đã trở thành một nội dung bắt buộc, được thừa nhận và đảm bảo thực hiện, được quy định rõ ràng, cụ thể trong văn bản luật có tính pháp lý cao nhất là Hiến pháp.
1.1.5. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
“Phát huy” theo nghĩa Hán Việt tức là làm cho phát triển hơn, làm cho rộng lớn, sáng rõ hơn. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là làm cho quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện sâu rộng hơn, thiết thực hơn, để nhân dân thực sự làm chủ trong các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước là để nhân dân sử dụng quyền làm chủ của mình trong quản lý nhà nước một cách hiệu quả hơn, nhân dân tham gia tích cực, chất lượng hơn vào công tác quản lý của nhà nước, được đóng góp tham gia ý kiến và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Quản lý nhà nước xét về mục tiêu không có gì khác ngoài tạo ra lợi ích cho nhân dân, bảo đảm quyền lợi chính đáng của nhân dân, các vấn đề quản lý đều xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của nhân dân phát sinh trong đời sống xã hội. Chính vì vậy, nhân dân phải được tham gia vào quản lý nhà nước, phải được phát huy quyền làm chủ của mình trong quản lý nhà nước. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước phải đảm bảo sự tham gia sâu rộng của mọi tầng lớp nhân dân, mọi lứa tuổi, ngành nghề, phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải có biện pháp, phương thức phù hợp với trình độ phát triển của xã hội, phù hợp với văn hóa, phong tục tập quán. Nếu không phát huy hoặc phát huy không có hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân đối với quản lý nhà nước, thì các hoạt động quản lý sẽ mang tính chất chủ quan, duy ý chí, thiếu tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả bị giảm sút.
Như vậy, “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước” là việc nhà nước ban hành chính sách, pháp luật và cơ chế nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, tham gia đóng góp tích cực vào công tác quản lý nhà nước, thể hiện vai trò của nhân dân đối với hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
1.2. Mục đích, yêu cầu, nội dung, hình thức phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước
1.2.1. Mục đích phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước hướng tới các mục đích sau đây:
Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Đây là mục đích cốt lõi và quan trọng nhất và cũng là mục đích hướng đến của quản lý nhà nước. Quyền làm chủ của nhân dân chỉ thực sự có ý nghĩa khi quyền làm chủ đó quay trở lại phục vụ đời sống của nhân dân, nhân dân có quyền làm chủ và được đảm bảo quyền lợi nhờ quyền làm chủ đó. Trong quản lý nhà nước, nhân dân có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện quyền làm chủ song chủ thể đưa ra quyết định quản lý cuối cùng vẫn là nhà nước, các ý kiến, tâm tư nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân có được thực hiện hay không nằm ở việc quyết định quản lý được thực hiện như thế nào. Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
Tập trung, huy động sức mạnh, trí tuệ toàn dân trong công tác quản lý nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước là một vấn đề rất quan trọng, được quan tâm hàng đầu trong thực hiện, triển khai các quyết định quản lý, các văn bản pháp luật. Để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có sự tham gia mạnh mẽ và sâu rộng của toàn dân, hội tụ trí tuệ và sức mạnh của nhân dân trong công tác quản lý nhà nước. Vấn đề quản lý dù có phức tạp, khó khăn đến đâu nếu có sự tham gia, đóng góp trí tuệ từ đông đảo quần chúng nhân dân, nếu có sự ủng hộ, hỗ trợ và thực hiện tích cực từ phía nhân dân thì vấn đề đó chắc chắn sẽ được giải quyết một cách có hiệu quả. Thực tiễn công tác quản lý nhà nước cho thấy nhiều vấn đề phức tạp trong quản lý nhà nước tồn tại trong thời gian dài, giải quyết không triệt để, nguyên nhân lớn nằm ở việc chưa huy động được sự tham gia tích cực từ phía nhân dân. Nhân dân là chủ của đất nước, làm chủ đời sống kinh tế xã hội, nhân dân là lực lượng lao động của xã hội, là chủ thể sáng tạo nên các giá trị kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, các vấn đề quản lý không có vấn đề gì tách rời đời sống nhân dân và cũng chỉ có nhân dân là chủ thể hiểu rõ nhất bản chất của các vấn đề xã hội, vấn đề là cần làm gì và bằng cách nào để huy động sức mạnh trí tuệ và nguồn lực to lớn nơi nhân dân vào công tác quản lý nhà nước.
Góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Bản chất nhà nước ta đã được Hiến Pháp 2013 khẳng định rất rõ đó là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Bản chất của nhà nước gắn liền và thống nhất với quyền lợi của nhân dân, nhà nước mang bản chất của nhân dân, là nhà nước của dân, do nhân dân xây dựng nên và hoạt hoạt động vì quyền lợi của nhân dân. Chính vì vậy xây dựng nhà nước pháp quyền và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là hai nội dung có mối quan hệ biện chứng với nhau, nhà nước pháp quyền là cơ sở để bảo vệ bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thì mới xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhà nước từ trung ương đến địa phương. Để thực hiện xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân, cần chú trọng đặc biệt hoạt động lập pháp, xây dựng, ban hành và thực thi văn bản quy phạm pháp luật trong đó nhấn mạnh vai trò của người dân, luật pháp được xây dựng trên cơ sở ý kiến đóng góp của nhân dân, được nhân dân thực hiện và bảo vệ quyền lợi của nhân dân.
Từ việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân hướng đến nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trong quản lý nhà nước với mục đích cao nhất đó là sử dụng quyền lực đó quay trở lại phục vụ đời sống nhân dân, đời sống nhân dân được nâng cao, được cải thiện thì có nghĩa là quyền làm chủ đã được phát huy hiệu quả. Bên cạnh đó phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước phải hướng đến xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người dân, mọi tầng lớp, ngành nghề, dân tộc, tôn giáo và vùng miền đều được bảo đảm quyền làm chủ, đều được thực hiện quyền làm chủ, không có sự phân biệt, không có đặc quyền, đặc lợi. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước phải đi liền với nâng cao trình độ dân trí, phát triển văn hóa, giáo dục, đấu tranh chống các hành vi kì thị chủng tộc, phân biệt đối xử, thực hiện đoàn kết toàn dân.
1.2.2. Yêu cầu phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
Thứ nhất, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước phải dựa trên nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phải tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật. Quyền làm chủ của nhân dân phải được khẳng định, thừa nhận, và thể chế hóa thành các quy định pháp luật, phải được tuyệt đối tuân thủ, áp dụng triệt để, phải có quy định rõ ràng về cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước. Nhân dân thực hiện phát huy quyền làm chủ của mình trong quản lý nhà nước phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ quy định của pháp luật, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình trong quản lý nhà nước, pháp luật cần nghiêm khắc với các hành vi, biểu hiện vi phạm quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước.
Thứ hai, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước phải đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo sự tham gia thiết thực, tích cực của người dân. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước hướng đến cái đích cuối cùng đó là đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, các quyết định quản lý nhà nước có sự tham gia, đóng góp xây dựng của nhân dân có được thực hiện hay không, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân có được giải quyết hay không. Nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình trong quản lý nhà nước phải là hoạt động thực chất, có hiệu quả trên tinh thần xây dựng, tránh tình trạng thực hiện mang tính hình thức, phong trào.
Thứ ba, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đảm bảo công bằng, dân chủ, khách quan. Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là một nguyên tắc xuyên suốt trong quá trình phát triển của nhà nước ta, được thực tiễn chứng minh hiệu quả. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ tri thức, Đảng là đại diện cho không chỉ quyền lợi của nhân dân lao động mà còn là đại diện cho quyền lợi của toàn dân tộc, Đảng là tập hợp của những quần chúng ưu tú nhất, có trình độ, năng lực lãnh đạo và phẩm chất chính trị trong sáng do đó Đảng phải giữ vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội, sự lãnh đạo của Đảng cũng là nhân tố quyết định đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân nói chung, quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước nói riêng. Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhà nước được nhân dân trao quyền, thay nhân dân quản lý xã hội, điều hành đất nước và chịu trách nhiệm trước nhân dân, hoạt động quản lý nhà nước luôn có sự tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân làm chủ thể hiện ở việc nhân dân là chủ của chính quyền nhà nước, làm chủ vận mệnh của bản thân, của đất nước, nhân dân có quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương, quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực được thừa nhận, khẳng định và bảo vệ.
Thứ tư, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước phải đi đôi với đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân và đảm bảo hài hòa lợi ích của các đối tượng khác nhau trong xã hội. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân mà nhân dân không được hưởng quyền lợi chính đáng, lợi ích hợp pháp của nhân dân không được đảm bảo thì phát huy quyền làm chủ của nhân dân là vô nghĩa, là hình thức. Nhân dân tham gia đóng góp ý kiến, xây dựng pháp luật, chính sách, quyết định các vấn đề của cộng đồng, của địa phương, của quốc gia thì các vấn đề đó phải được thực hiện trên thực tế, tâm tư nguyện vọng của nhân dân phải được chuyển hóa thành hành động cụ thể của nhà nước. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước cũng cần quan tâm đến sự khác biệt, đặc thù của các tầng lớp, thành phần, đối tượng khác nhau trong xã hội nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích và giải quyết tốt các mâu thuẫn phát sinh. Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
1.2.3. Nội dung phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước
1.2.3.1. Nhân dân tham gia xây dựng chính quyền nhà nước thông qua dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp
Hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam thừa nhận hai hình thức cơ bản của dân chủ là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Dân chủ trực tiếp là hình thức nhân dân thực hiện quyền của mình một cách trực tiếp, nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực của mình, đề xuất kiến nghị với cơ quan nhà nước các vấn đề của mình, tham gia đóng góp ý kiến, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo mà không thông qua bất kỳ cơ quan hay đại diện trung gian nào.
Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân bầu ra các đại biểu, đại diện cho quyền lợi và tiếng nói của mình, thay mặt mình đề xuất, đóng góp ý kiến, tâm tư nguyện vọng đối với các chính sách, các vấn đề của nhà nước.
Nhân dân tham gia xây dựng chính quyền nhà nước thông qua dân chủ trực tiếp bằng việc trực tiếp bầu ra đại biểu đại diện cho quyền lợi và tiếng nói của mình, thành lập nên cơ quan quyền lực nhà nước của nhân dân các cấp bao gồm Hội đồng nhân dân cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và Quốc hội, trực tiếp thành lập nên hệ thống cơ quan quyền lực là thành tố cấu thành chính quyền nhà nước. Nhân dân trực tiếp đóng góp ý kiến đối với chính quyền, thực hiện giám sát chặt chẽ đối với hoạt động của chính quyền nhà nước, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đối với các sai phạm của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức. Các cơ quan nhà nước ở cả trung ương và địa phương phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về kết quả hoạt động, công tác của mình. Nhân dân có quyền tước bỏ tư cách đại biểu của mình khi các đại biểu không hoàn thành nhiệm vụ, không xứng đáng với niềm tin và trọng trách mà nhân dân giao phó.
Nhân dân tham gia xây dựng chính quyền nhà nước bằng hình thức dân chủ gián tiếp thông qua đại biểu hội đồng nhân dân các cấp và đại biểu Quốc hội. Các đại biểu là đại diện do nhân dân bầu ra, thay mặt nhân dân, đại diện cho quyền lợi của nhân dân, truyền đạt, đề xuất các ý kiến, tâm tư nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân quyết định các vấn đề quan trọng, thay mặt nhân dân quyết đinh việc thành lập, tổ chức nên các cơ quan nhà nước, xây dựng bộ máy nhà nước. Trong quá trình bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp và đại biểu Quốc hội cần thực hiện nguyên tắc công bằng, bình đẳng khách quan, thông tin về các ứng viên phải rõ ràng, đầy đủ đảm bảo mọi cử tri phải biết rõ, hiểu rõ về đại biểu do mình lựa chọn, không mập mờ thông tin, không tác động, định hướng. Đại biểu hội đồng nhân dân, đại biểu Quốc hội phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, cử tri của địa phương và cử tri cả nước để thông báo về kết quả hoạt động của hội đồng nhân dân, Quốc hội, kết quả hoạt động của bộ máy chính quyền, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân, tổng hợp ý kiến và các vấn đề của nhân dân từ đó có phương hướng, giải pháp giải quyết. Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
1.2.3.2. Nhân dân tham gia xây dựng pháp luật và các chủ trương, chính sách của nhà nước
Chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước là những công cụ cần thiết để nhà nước quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của mọi chủ thể trong xã hội và của mỗi người dân, chính sách, pháp luật cũng đồng thời là công cụ để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, mục tiêu của mọi chính sách, mọi quy định pháp luật không có gì khác đó là hướng đến sự phát triển chung, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Tuy nhiên việc xây dựng chính sách, pháp luật lại do những cơ quan nhất định thực hiện, do đó để các chính sách, pháp luật và các chủ trương lớn của nhà nước thực sự có hiệu lực, hiệu quả, thực sự xuất phát từ đời sống và quay trở lại phục vụ đời sống thì tất yếu phải có sự tham gia xây dựng của nhân dân, đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các chính sách và quy định đó. Sự đa dạng của các tầng lớp nhân dân luôn đi cùng với sự phong phú về trình độ, vốn hiểu biết, vốn sống, kinh nghiệm, ngoài ra còn là sự đa dạng về dân tộc, tôn giáo, vùng miền và phong tục tập quán, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua việc xây dựng chính sách và pháp luật còn đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, tối ưu hóa lợi ích lớn nhất đối với đại bộ phận dân cư.
Xây dựng pháp luật, chính sách là một trong những nội dung quan trọng thể hiện việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân có quyền làm chủ thì nhân dân phải được tham gia xây dựng công cụ để thực hiện quyền làm chủ đó. Nhân dân tham gia xây dựng chính sách, pháp luật và các chủ trương của nhà nước thông qua các hoạt động sau:
- Đóng góp ý kiến khi được nhà nước tổ chức lấy ý kiến rộng rãi đối với các chính sách, các quy định mới của pháp luật, đề xuất, kiến nghị những nội dung khi có cơ sở cho rằng những nội dung đó là chưa hợp lý, đề xuất các vấn đề mới các nội dung mới cần nhà nước điều chỉnh và quản lý.
- Thông qua đại biểu của mình, đề cập những vấn đề bất hợp lý, những khó khăn, tồn tại trong việc áp dụng pháp luật và thực thi chính sách.
- Đóng góp ý kiến thông qua trưng cầu ý dân, đưa ra kiến nghị, phản biện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các tổ chức chính trị xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
1.2.3.3. Nhân dân tham gia quyết định các vấn đề lớn của đất nước
Nhân dân có quyền làm chủ tức là làm chủ vận mệnh của bản thân mình, của cộng đồng và rộng ra là của cả đất nước, đối với các vấn đề trọng đại của đất nước có ảnh hưởng toàn diện đến mọi mặt đời sống, có ảnh hưởng đến quá trình phát triển, tồn vong của một quốc gia thì nhân dân phải được quyết định các vấn đề đó.
Đối với những vấn đề mang tính cấp bách, khẩn cấp, mang tính sống còn, nhân dân tham gia quyết định thông qua đại biểu của mình, ví dụ như: quyết định ban bố tình trạng chiến tranh, thiên tai, địch họa…
Đối với các vấn đề lớn mang tính lâu dài, có thời gian để bàn bạc, trao đổi và lấy ý kiến rộng rãi của quần chúng nhân dân, hình thức được lựa chọn là trưng cầu ý dân, lấy ý kiến toàn bộ nhân dân, ví dụ như: Lấy ý kiến nhân dân về việc sửa đổi Hiến Pháp.
Trong việc lấy ý kiến của nhân dân đối với các vấn đề trọng đại của đất nước cũng cần chú trọng công tác giáo dục, tuyên truyền nhằm để mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ, nắm rõ vấn đề, tránh sự hiểu lầm, hiểu sai, nhận thức không đầy đủ dẫn đến thực hiện chưa đúng, chưa nghiêm các quy định của pháp luật, hoặc do chưa nắm chắc vấn đề mà sự tham gia ý kiến, đưa ra quyết định còn chưa chính xác. Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
1.2.3.4. Nhân dân giám sát hoạt động quản lý nhà nước và phản biện xã hội
Chính quyền nhà nước là của nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước thay mặt nhân dân sử dụng quyền lực ấy để quản lý xã hội và phục vụ nhân dân. Nhân dân là chủ của nhà nước do đó nhân dân có quyền, và phải thực hiện giám sát hoạt động quản lý nhà nước. Giám sát vừa đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, vừa đảm bảo quyền lực nhà nước được kiểm soát.
Nhân dân thực hiện giám sát hoạt động quản lý nhà nước thông qua đại biểu của mình, thông qua hoạt động của hội đồng nhân dân và Quốc hội, giám sát trực tiếp căn cứ vào kết quả, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, giám sát thông qua báo chí, truyền hình, các phương tiện thông tin đại chúng, giám sát thông qua các tổ chức chính trị xã hội mà mình là thành viên. Để đảm bảo thực hiện quyền giám sát của nhân dân, các cơ quan nhà nước trong quá trình hoạt động phải thực hiện công khai minh bạch, đặc biệt là công khai minh bạch về kết quả, hiệu quả quản lý, công khai minh bạch về tài chính, tài sản công, các thông tin không thuộc bí mật nhà nước phải được thông báo đến toàn thể nhân dân theo đúng quy định của pháp luật.
Đối với hoạt động của hội đồng nhân dân và Quốc hội, các hoạt động của hội đồng nhân dân và Quốc hội phải được công khai đến toàn thể nhân dân, nhân dân theo dõi, đánh giá kết quả kỳ họp hội đồng nhân dân và Quốc hội, giám sát đánh giá thông qua tiếp xúc cử tri, giám sát hoạt động của đại biểu hội đồng nhân dân, đại biểu Quốc hội. Thông qua hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, nhân dân giám sát hoạt động của ủy ban nhân dân các cấp và Chính phủ.
Đối với hoạt động phản biện xã hội, một thực tế diễn ra trong quản lý nhà nước đó là không phải mọi chính sách, quy định của pháp luật khi đưa vào cuộc sống đều thể hiện tính hợp pháp và hợp lý, đều khả thi để thực hiện, không phải mọi chính sách, pháp luật đều nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân. Xung quanh một chính sách mới, một quy định mới của pháp luật thường có những ý kiến trái chiều, có những phản biện từ phía xã hội. Những ý kiến đó cần được trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức truyền đạt đến cơ quan quản lý, cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật, để đánh giá, phân tích, sàng lọc, trên cơ sở đó nhà nước có sự điều chỉnh sao cho phù hợp với ý nguyện hợp pháp của nhân dân. Để thực hiện tốt hoạt động phản biện xã hội, vai trò của các tổ chức chính trị xã hội là không thể thiếu, các tổ chức chính trị xã hội phải thường xuyên tiếp xúc, lắng nghe, thu thập các ý kiến, nguyện vọng của thành viên tổ chức mình, tổng hợp, đánh giá và gửi các ý kiến hợp lý đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
1.2.4. Hình thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước
Ở Việt Nam nhà nước thừa nhận hai hình thức thực hiện quyền lực nhà nước, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân đó là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, đây cũng là hai hình thức được thừa nhận phổ biến trên thế giới. Điều 6 Hiến pháp 2013 nêu rõ:
Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước“
1.2.4.1. Hình thức dân chủ trực tiếp
Dân chủ trực tiếp được coi là hình thức dân chủ sơ khai và nguyên nghĩa, theo đó người dân sẽ trực tiếp quyết định các vấn đề về pháp luật, chính sách, quyết định các vấn đề của đất nước, trực tiếp bầu ra đại biểu của mình thay mặt mình giải quyết công việc của cộng đồng, của quốc gia. Dân chủ trực tiếp là hình thức thực hiện quyền lực nhân dân một cách sơ khai nhất, gắn liền với bản chất của dân chủ. Dân chủ trực tiếp được thực hiện thông qua một số hoạt động phổ biến như: bầu cử, bãi miễn đại biểu, trưng cầu ý dân, thực hiện quyền sáng kiến lập pháp; bỏ phiếu toàn dân và lấy ý kiến có tính quyết định tại cơ sở. Bên cạnh đó một số hoạt động khác cũng mang tính chất dân chủ trực tiếp như thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, phản biện xã hội. Với hình thức dân chủ trực tiếp, người dân thực hiện quyền lực của mình mà không cần thông qua một cơ quan, tổ chức, một chủ thể trung gian nào khác, quyền lực được thực hiện một cách đầy đủ, phản ánh đúng nguyện vọng, suy nghĩ, lựa chọn của người dân. Trong các vấn đề của địa phương và đặc biệt là những vấn đề của cấp cơ sở hay trong cộng đồng dân cư phạm vi hẹp, dân chủ trực tiếp là một hình thức được sử dụng hiệu quả để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
1.2.4.2. Hình thức dân chủ đại diện
Dân chủ đại diện là hình thức thực hiện quyền lực của nhân dân thông qua đại biểu nhân dân và cư quan dân cử. Nhân dân không trực tiếp thực hiện quyền lực của mình mà bầu lên đại biểu đại diện cho quyền lợi và tiếng nói của mình, thay mình bàn bạc, quyết định các vấn đề quan trọng của nhà nước, của cộng đồng, đại biểu nhân dân còn là người truyền đạt nguyện vọng, những đòi hỏi chính đáng của nhân dân đến chính quyền. Đối với hình thức dân chủ đại diện có một số nội dung quan trọng sau:
Một là, đại biểu nhân dân không chỉ đại diện cho quyền lợi của nhân dân mà còn có trách nhiệm bảo vệ, đấu tranh vì quyền lợi đó, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bầu ra mình hay còn gọi là cử tri. Đại biểu nhân dân phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, và bị nhân dân bãi nhiệm khi không hoàn thành nhiệm vụ, không còn xứng đáng với niềm tin của nhân dân.
Hai là, nhân dân không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước song nhân dân vẫn thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động của đại biểu nhân dân và cơ quan dân cử. Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
Ba là, để dân chủ đại diện đạt được hiệu quả cao trong quá trình thực hiện, đại biểu nhân dân phải liên hệ thường xuyên với nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri theo đúng quy định của pháp luật.
Ở Việt Nam người dân thực hiện quyền lực nhà nước, quyền làm chủ thông qua dân chủ đại diện với việc bầu ra đại biểu hội đồng nhân dân các cấp và đại biểu Quốc hội, đây là những cá nhân tiêu biểu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân, được nhân dân bầu ra theo chế độ phổ thông đầu phiếu trên nguyên tắc bình đẳng, khách quan.
Hạn chế của hình thức dân chủ đại diện là lúc này quyền lực được tập trung vào một số người và một cơ quan nhất định, ở một số quốc gia như Mỹ, để tránh tính trạng quyền lực bị lạm dụng hoặc tha hóa khi được tập trung quá lớn trong tay Quốc hội, sáng kiến đưa ra là chia quốc hội thành hai viện gồm thượng viện và hạ viện: Hạ viên được bầu theo chế độ phổ thông đầu phiếu, thượng viện được bầu theo chế độ đại cử tri.
Ở Việt Nam Hiến pháp 2013 đã chỉ rõ quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất có sự phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là một sự tiến bộ trong phân chia quyền lực vừa đảm bảo quyền lực nhà nước được thực thi thống nhất vừa đảm bảo quyền lực được kiểm soát, phát huy hiệu quả dân chủ đại diện.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
1.3.1. Yếu tố chính trị
Yếu tố chính trị trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước thể hiện ở việc Đảng cầm quyền và nhà nước của mỗi quốc gia có quan điểm, thái độ và thể chế hóa tư tưởng, đường lối, quan điểm của mình như thế nào đối với quyền làm chủ của nhân dân nói chung và quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước nói riêng.
Tư tưởng, đường lối chính trị của một đảng cầm quyền hay liên minh đảng cầm quyền quyết định trực tiếp đến chính sách và pháp luật của nhà nước, hay nói cách khác chính sách, pháp luật của một nhà nước chính là việc thể chế hóa chủ trương, đường lối chính trị của đảng cầm quyền. Đối với vấn đề quyền làm chủ của nhân dân, một đảng chính trị có tư tưởng dân chủ, hướng về quyền lợi của nhân dân thì sẽ thực thi đường lối chính trị cởi mở, chủ trương để nhân dân tham gia tích cực vào công việc của nhà nước, từ đó việc quy định về quyền của nhân dân trong pháp luật cũng được mở rộng, tôn trọng và bảo vệ. Ngược lại, một đảng chính trị có tư tưởng bảo thủ, cực đoan, chủ trương bảo vệ lợi ích của giai cấp, của số ít người trong xã hội sẽ chủ trương hạn chế quyền dân chủ, hạn chế sự tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước, từ đó thể chế hóa thành các quy định khắt khe của pháp luật, quyền làm chủ của nhân dân bị giới hạn, thậm chí là cấm đoán. Trên thế giới điển hình cho trường hợp này là nhà nước Afghanixtan thời chính quyền Taliban, hoặc một số nhà nước Hồi giáo khác…
Đối với Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện tiêu biểu của toàn bộ quần chúng nhân dân, và của cả dân tộc Việt Nam, ngay tròn bản chất của Đảng vừa thể hiện tính giai cấp và đồng thời cũng thể hiện tính nhân dân, dân tộc. Đảng được xây dựng, trưởng thành từ quần chúng nhân dân, Đảng ra đời, chiến đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc, tôn trọng quyền lợi của nhân dân, chủ trương thực hiện sâu rộng quyền làm chủ của nhân dân. Trên cơ sở đường lối chính trị nhất quán và tiến bộ đó, Đảng đã lãnh đạo nhà nước, thực hiện thể chế hóa chủ trương của Đảng thành các quy định của pháp luật về thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng cơ chế thực hiện quyền làm chủ cũng như biện pháp bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, nhất là trong hoạt động quản lý nhà nước.
1.3.2. Yếu tố pháp lý Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
Quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước có được bảo đảm phát huy và thực hiện hiệu quả hay không phụ thuộc trực tiếp vào việc được thừa nhận và quy định ra sao trong các văn bản quy phạm pháp luật. Nếu không có những quy định cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ của pháp luật, quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước sẽ không có cơ sở để thực hiện, không có chế tài để bảo vệ, nói cách khác quyền làm chủ của nhân dân sẽ không được thực hiện trên thực tế.
Các quy định của pháp luật đối với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân cũng cần phải được thường xuyên rà soát, đánh giá, sửa đổi sao cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội, phù hợp với trình độ nhận thức của nhân dân và thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước. Đối với các quy định không còn phù hợp, chưa phát huy được hiệu lực, hiệu quả cần nhanh chóng sửa đổi, hủy bỏ, thay thế, đối với các quy định hợp lý, tiến bộ cần có cơ chế tiếp tục thực hiện, phát huy hiệu quả.
Trong xây dựng và thực thi pháp luật vừa quán triệt nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vừa thực hiện nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đề cao tính thượng tôn của pháp luật, quyền làm chủ của nhân dân phải được pháp luật bảo vệ, bảo đảm, xây dựng pháp luật phải đảm bảo tính khoa học xuất phát từ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Pháp luật về quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước cần quy định rõ về quyền và trách nhiệm của các bên, quyền và nghĩa vụ của nhân dân đối với nhà nước, thẩm quyền và trách nhiệm của nhà nước với nhân dân, bên cạnh việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân trong quản lý nhà nước cũng cần có quy định rõ về nghĩa vụ của nhân dân cần được tuân thủ, pháp luật cần khách quan, công bằng mang tính chất trọng tài giữa hai chủ thể nhà nước và nhân dân.
Quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước là một quá trình lâu dài đi từ nhận thức đến hành động, và hành động có được thực hiện hay không phải dựa trên cơ sở pháp lý. Tuy nhiên một đặc tính quan trọng của pháp luật là luôn lỗi thời so với thực tiễn khách quan, chính vì vậy trong xây dựng và thực thi pháp luật về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước cần nhấn mạnh việc phải gắn liền với thực tiễn đời sống, pháp luật muốn phát huy được quyền làm chủ của nhân dân thì trước hết phải xuất phát từ đời sống nhân dân, phải thể hiện được nguyện vọng, suy nghĩ, tư tưởng của nhân dân.
1.3.3. Yếu tố xã hội Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
Muốn phát huy được quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước trước hết bản thân mỗi người dân phải hiểu, phải tự ý thức được quyền của mình, điều đó phụ thuộc rất lớn vào trình độ nhận thức của cá nhân và sự phát triển của xã hội. Con người không thể tồn tại nếu tách khỏi đời sống xã hội, mỗi cá nhân là một phần tử cấu thành nên xã hội có ảnh hưởng đến sự tiến bộ của xã hội và ngược lại sự phát triển của xã hội tác động trở lại hướng con người ta đến sự hoàn thiện hơn, văn minh hơn. Các vấn đề trong quản lý nhà nước cũng là những vấn đề phát sinh từ xã hội, do con người tạo ra và cần con người giải quyết, chỉ có nhận thức đúng và đầy đủ về các sự vật, hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội, con người mới có thể giải quyết đúng và triệt để các vấn đề phát sinh. Xã hội càng phát triển, càng văn minh thì công dân của xã hội đó càng có trình độ nhận thức cao, càng hiểu và ý thức rõ ràng về quyền của mình, qua đó thực hiện phát huy quyền làm chủ của mình trong quản lý nhà nước một cách hiệu quả, dám đấu tranh giành quyền làm chủ, quyền tự quyết khi các quyền đó bị xâm phạm. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước trên cơ sở phải nắm vững các quy luật vận động và phát triển của xã hội, phải gắn chặt với việc xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ, dân chủ và công bằng, đấu tranh bài trừ những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội, đấu tranh với các biểu hiện suy thoái đạo đức tư tưởng, chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, hách dịch, xa dân, coi thường nhân dân, phải hướng đến sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân mà đặc biệt là sự phát triển về trình độ nhận thức, ý thức cộng đồng.
Yếu tố xã hội còn thể hiện ở sự đa dạng của các thành phần trong xã hội, mỗi tầng lớp, mỗi thành phần dân cư khác nhau trong xã hội lại có những đặc thù riêng về lứa tuổi, nghề nghiệp, giới tính, tôn giáo, có những mối quan hệ lợi ích khác nhau, có tư tưởng, suy nghĩ và hành động không giống nhau trước các vấn đề quản lý của nhà nước. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước cần lưu ý đến yếu tố này, để có biện pháp cụ thể đối với từng đối tượng, từng thành phần xã hội. Trong khi thực hiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước cần đặc biệt quan tâm đến các vấn đề về dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng và phong tục tập quán, đây là những vấn đề có ảnh hưởng to lớn đến cộng đồng dân cư, đến từng người dân.
Yếu tố xã hội còn thể hiện ở việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước cần dựa trên đặc tính riêng của từng cộng đồng, từng vùng văn hóa và các mối quan hệ xã hội. Nội dung này đòi hỏi phải nghiên cứu kĩ, am hiểu về đời sống văn hóa, tính chất xã hội của từng vùng dân cư, từng vùng văn hóa, đời sống của cư dân đô thị sẽ có những khác biệt so với nông thôn, đồng bằng khác với miền núi. Đối với từng cộng đồng, song song với phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước cần phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực khác của đời sống, bài trừ những hủ tục, tập tục lạc hậu, đấu tranh với tư tưởng phân chia đẳng cấp, phân biệt giới tính. Tùy từng điều kiện cụ thể về đời sống lao động sản xuất của từng vùng miền mà có biện pháp phù hợp phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước.
Tiểu kết chương 1
Quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước là một vấn đề rất quen thuộc trong đời sống, được sử dụng thường xuyên cả trong thực tiễn và trong khoa học. Chương 1 của luận văn đã làm rõ nội hàm của một số khái niệm, thuật ngữ có liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn, đồng thời diễn giải, phân tích rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước, về dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, vai trò của nhân dân trong quản lý nhà nước cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong quản lý nhà nước. Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: lamluanvan24h@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân quản lý nhà nước […]