Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Vương triều Trần và việc thực hiện chính sách trọng dân, thân dân trong trị quốc và điều hành chính sự dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Sự hình thành và phát triển của triều Trần trong tiến trình lịch sử Việt Nam

2.1.1. Bối cảnh chính trị của Đại Việt cuối triều Lý

Triều Lý là một triều đại thịnh trị có thời gian tồn tại lâu dài trong lịch sử Việt Nam, trong 215 năm tồn tại, triều Lý đã có những đóng góp to lớn trong sự phát triển và thịnh vượng của Đại Việt, đặt nền móng quan trọng để xây dựng thể chế quân chủ trung ương tập quyền. Tuy nhiên triều Lý cũng không thể đứng ngoài quy luật vận động chung của lịch sử và xã hội. Từ thời Lý Cao Tông, chính sự nhà Lý có chiều hướng đi xuống, vua tin dùng bọn hoạn quan và gian thần, tàn hại trung lương, bỏ bê triều chính, sa vào con đường ăn chơi, đắm chìm trong tửu sắc, “vua chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy”[11;tr147]. Trong đội ngũ quan lại những bầy tôi thật sự trung thành thì chán nản, người bị hãm hại, người xin từ quan, các thế lực ngoại thích chuyên quyền hãm hại những người không cùng phe cánh, giường cột nước nhà rối tung. Loạn lạc và các cuộc khởi nghĩa xảy ra liên miên, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, lòng dân dần dần rời xa họ Lý. Trên thực tế nhà Lý đã đánh mất quyền lực và đứng trước nguy cơ sụp đổ.

Nhân sự suy yếu của chính quyền trung ương, các hào trưởng và thủ lĩnh địa phương nổi dậy, gây dựng lực lượng, củng cố cơ sở kinh tế, cát cứ thôn tính lẫn nhau, họa binh đao thường trực. Cuối thời vua Cao Tông nhà Lý, về cơ bản đã hình thành thế chân vạc giữa ba thế lực mạnh nhất bấy giờ đó là Đoàn Thượng ở Hồng Châu (nay là Hải Dương), Nguyễn Nộn ở Bắc Giang và họ Trần ở Hài Ấp (Thái Bình, Nam Định). Sau khi vua Cao Tông mất, nhà Lý lại tiếp tục trải qua một cuộc tranh giành quyền lực thừa kế ngai vàng giữa hoàng tử Thẩm và hoàng tử Sảm mà thực chất đây là cuộc đấu tranh giữa các thủ lĩnh quân phiệt bấy giờ với chiêu bài “khống chế thiên tử, hiệu lệnh chư hầu”. Trong cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt giữa các thế lực đương thời, họ Trần ở Hài Ấp có ưu thế hơn cả, là một dòng họ có tiềm lực mạnh về kinh tế, nhân cơ hội tình hình trong nước rối ren, họ Trần đã mộ quân, tích lương phò tá Thái tử Sảm lên ngôi báu, kể từ đây từng bước họ Trần đã nắm giữ nhiều vị trí quan trọng trong bộ máy chính trị và quân sự nhà Lý, tạo ra ưu thế lớn so với các thế lực khác, hơn nữa thông qua con đường hôn nhân (thái tử Sảm lấy con gái Trần Lý là Trần Thị Dung), mối quan hệ giữa họ Trần và vương triều Lý ngày càng khăng khít, từ chỗ là một thế lực địa phương mới nổi, họ Trần đã trở thành hoàng thân quốc thích, vươn tầm ảnh hưởng đến toàn bộ quốc gia. Sử dụng một cách khôn khéo và hiệu quả vị vua mang tính biểu tượng là Lý Huệ Tông, họ Trần đã lần lượt thôn tính và tiêu diệt các thế lực chống đối.  Về tình hình chính trị quốc tế, đầu thế kỷ thứ XIII thế giới đứng trước một thử thách vô cùng to lớn đến từ đế chế Mông – Nguyên, sau khi thống nhất các bộ lạc mông cổ vào năm 1206 Thành Cát Tư Hãn vua của người Mông Cổ quyết định mở rộng chiến tranh, lần lượt thôn tính các nước Kim, Tây Hạ, mở rộng chiến tranh xuống Nam Tống, sau khi Thành Cát Tư Hãn qua đời, con cháu và những người kế tục ông tiếp tục thực hiện giấc mộng chinh phục, kỵ binh Mông Cổ tung hoành trên khắp các chiến trường trải dài từ Á sang Âu, hàng loạt các đội quân thiện chiến của nhiều đế quốc hùng mạnh đều gục ngã dưới vó ngựa Mông Cổ. Đại Việt ở vào vị trí địa chính trị chiến lược là cửa ngõ đi xuống phương nam là nút giao thương quan trọng chắc chắn sẽ trở thành mục tiêu tiếp theo của đế chế Mông Nguyên, đất nước đứng trước thử thách sống còn chưa từng có.

Như vậy, qua phân tích cả tình hình chính trị trong nước và thế giới vào cuối thời nhà Lý có thể khẳng định, yêu cầu cấp thiết bấy giờ là phải có một lực lượng lãnh đạo mới đủ sức, đủ tài, đủ ảnh hưởng để thay thế nhà Lý lãnh đạo đất nước, trước mắt là ổn định tình hình trong nước sau đó là bảo vệ tổ quốc, nhân dân trước họa xâm lăng. Tình hình chính trị Đại Việt cuối thời nhà Lý tuy có những bất ổn nghiêm trọng song cũng tạo ra điều kiện thuận lợi để có một cuộc chuyển giao quyền lực, phản ánh sự phát triển liên tục của lịch sử. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Nhận Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Lý Công

2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội

Cuối nhà Lý điều kiện kinh tế xã hội có nhiều biến chuyển quan trọng, do những bất ổn về chính trị, chiến tranh, loạn lạc liên miên đã gây những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với kinh tế. Thời đầu nhà Lý thi hành chính sách ngụ binh ư nông, giúp vừa đảm bảo lực lượng quân sự thường trực vừa đảm bảo lực lượng sản xuất nông nghiệp, tuy nhiên do chiến tranh xảy ra liên miên, quân đội triều đình phải chiến đấu thường xuyên nên đã gây nên sự thiếu hụt nghiêm trọng về lực lượng sản xuất. Chiến tranh làm cho nhân dân điêu tán, ruộng đất bỏ hoang, mặt khác lại tạo điều kiện để các hào trưởng. thủ lĩnh địa phương có điều kiện tích lũy ruộng đất, củng cố cơ sở kinh tế. Các ngành thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng bị ảnh hưởng và có dấu hiệu sa sút, quan hệ thương mại với các nước láng giềng không còn được như trước kia.

Về mặt xã hội, do sự bỏ bê triều chính của các vua Cao Tông, Huệ Tông, sự lộng hành của bọn tham quan, quyền thần, đời sống nhân dân gặp muôn vàn khổ cực, lòng dân oán than, dẫn đến chống đối nhà Lý, xã hội có sự phân hóa liên tục, một bộ phận lớn nông dân mất đất, mất nhà cửa, chịu cảnh loạn lạc, binh lửa đã trở thành dân điêu tán, nô tỳ. Tầng lớp địa chủ hào trưởng hoặc là giương cao ngọn cờ chính nghĩa quy tụ nhân dân hoặc là lợi dụng tình thế khó khăn để chuộc lợi, vơ vét. Vai trò của bộ máy quan lại, tăng sĩ dần mờ nhạt, đất nước trên danh nghĩa là thống nhất song tồn tại các thế lực cát cứ phân tranh.

2.1.3. Nền tảng văn hóa, tư tưởng

Có thể khẳng định rằng nhà Lý với hơn 200 năm trị vì đã để lại những giá trị tư tưởng văn hóa hết sức sâu đậm trong lòng dân và xã hội. Năm vị vua đầu nhà Lý đều là những vị vua anh minh, yêu nước, thương dân, khoan hòa trong xử lý chính sự, chăm lo đời sống nhân dân. Với việc lấy đạo Phật làm nền tảng tư tưởng trị quốc, nhà Lý chủ trương lấy nhân nghĩa, sự khoan dung, độ lượng để trị quốc, hình phạt tránh hà khắc, đối với kẻ thù cũng tránh sự lạm sát vô tội. Vua quan thời thịnh trị của nhà Lý đều có tư tưởng gần dân, chủ động lắng nghe, tìm hiểu đời sống nhân dân, nêu cao tinh thần đoàn kết toàn dân, đặc biệt trước nạn ngoại xâm.

Vào thời nhà Lý đạo Nho bước đầu có sự du nhập vào nước ta, song ảnh hưởng còn mờ nhạt, vua Lý đã cho xây dựng Quốc Tử Giám làm nơi dạy học cho Thái tử và các vương hầu quý tộc, chú trọng phát triển văn hóa dân tộc mang tính tự cường, phát huy các giá trị văn hóa, các phong tục tập quán truyền thống của dân tộc, tuy nhiên màu sắc mê tín và thần bí còn nặng nề.

Đạo Phật dưới thời Lý rất phát triển thể hiện trên ba phương diện, thứ nhất là vai trò của các nhà sư như Vạn Hạnh, Khánh Văn trong các vấn đề chính trị, triều chính. Thứ hai là sự phát triển của các công trình Phật giáo với các tác phẩm nghệ thuật giá trị. Thứ ba là sự truyền bá và ảnh hưởng mạnh mẽ của Đạo Phật trong đời sống quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến văn hóa làng xã.

2.1.4. Sự thành lập của vương triều Trần Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Trước yêu cầu cấp thiết của lịch sử bấy giờ về việc cần có một lực lượng lãnh đạo mới đủ sức đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng từ bên trong và nguy cơ ngoại xâm từ bên ngoài, bằng những nước cờ chính trị của mình, họ Trần đã từng bước nắm dần quyền lực triều đình nhà Lý, thâu tóm quân đội chuẩn bị cho cuộc chuyển giao quyền lực ngoạn mục nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.

Năm 1225, Trần Thủ Độ với tư cách là người lãnh đạo dòng họ Trần lúc bấy giờ đã sắp đặt một cuộc hôn nhân giữa cháu mình là Trần Cảnh và Lý Chiêu Hoàng, để chỉ vài ngày sau Lý Chiêu Hoàng đã xuống chiếu nhường ngôi cho chồng, sự kiến đánh dấu chính thức việc họ Trần bước lên vũ đài chính trị với tư cách là một triều đại phong kiến, “Năm Ất Dậu (1225), mùa đông, tháng 12, ngày 12 Mậu Dần, nhận thiền vị của Chiêu Hoàng, lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung”[11;tr159]. Một cuộc chuyển giao quyền lực cho thấy tài năng chính trị xuất sắc của Trần Thủ Độ, một cuộc chuyển giao quyền lực không có đổ máu, không có đấu tranh chính trị gay gắt nhưng là một cuộc chuyển giao thấu tình, đạt lý, nói theo cách nói đương thời là hợp lòng trời và ý dân. Bằng chứng cho việc họ Trần có được ngôi báu một cách êm thấm đó là sau khi Trần Cảnh lên ngôi không có bất cứ một sự phản kháng nào từ tôn thất họ Lý cũng như các cựu thần họ Lý, đây cũng là kết quả của sự chuẩn bị hết sức lâu dài, gian khổ của hai thế hệ họ Trần từ Trần Lý đến Trần Tự Khánh và Trần Thủ Độ.  

Họ Trần đã giành được ngôi báu với hai cuộc hôn nhân đại diện cho hai giai đoạn của quá trình nắm giữ vương quyền, cuộc hôn nhân giữa Trần Thị Dung và Lý Huệ Tông, cuộc hôn nhân đưa họ Trần từ tầng lớp hào trưởng xuất thân bình dân trở thành quý tộc hoàng thân quốc thích và cuộc hôn nhân của Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh đưa họ Trần từ thế lực chính trị trở thành trung tâm của quyền lực chính trị. Kể từ đây, một vương triều mới ra đời, vương triều mà sau này những công huân hiển hách còn vang mãi và in đậm trong lịch sử dân tộc, để lại bao bài học quý giá cho thế hệ sau trong công cuộc dựng nước và giữ nước.

2.2. Tư tưởng trọng dân, thân dân trong trị quốc và điều hành chính sự của triều Trần Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

2.2.1. Xây dựng bộ máy nhà nước quân chủ tập quyền mang tính chất thân dân

Vấn đề cốt lõi nhất, căn bản nhất, vấn đề sống còn của mọi triều đại phong kiến đó là củng cố chính quyền nhà nước, xây dựng bộ máy nhà nước với việc đề cao vai trò và quyền lực của nhà vua. Đặc trưng của bộ máy nhà nước quân chủ tập quyền đó là đề cao vai trò, vị thế, và quyền lực tuyệt đối của nhà vua, mọi thiết chế chính trị đều tập trung giữ vững quyền lực của vua và tôn thất, song đối với vương triều Trần thì bộ máy nhà nước quân chủ tập quyền còn mang một tính chất hết sức đặc biệt không chỉ trong lịch sử Việt Nam mà còn trên phạm vi toàn thế giới đó là tính chất thân dân.

Trước hết là xây dựng bộ máy nhà nước quân chủ tập quyền, để tạo ra quyền lực tuyệt đối của nhà vua cũng như dòng họ Trần, triều Trần đã thi hành một loạt các biện pháp nổi bật như sau Nhà vua đề cao vai trò của mình, “Vua Trần tự đề cao vị trí bản thân, đồng nhất ngôi vua với đất nước. Năm 1250 Thái Tông xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là Quốc gia nâng cao hơn tính chuyên chế và tập trung của triều đình” [9, tr.84]. Đây là một quyết sách nhằm phát huy tinh thần yêu nước vốn có của nhân dân trong việc bảo vệ quyền lực của vương triều và quốc gia, ngôi vua và quốc gia đồng nhất thì yêu nước tất phải kính vua, bảo vệ đất nước cũng là bảo vệ ngai vàng, bảo vệ địa vị thống trị của nhà vua.  Xây dựng chính quyền trung ương mạnh song song với việc kiểm soát quyền lực, tránh hiện tượng chuyên quyền, độc đoán. Có thể nói triều Trần đã xây dựng được một mô hình quyền lực độc đáo và duy nhất trong lịch sử phong kiến với việc cả vua và thượng hoàng đều cùng điều hành chính sự, mô hình này được thực hiện thông qua việc nhà vua truyền ngôi cho con từ sớm khi còn khỏe mạnh, minh mẫn, giúp đỡ, dẫn dắt, chỉ bảo cũng như kiểm soát quyền lực của “vua con”, cả vua và thượng hoàng cùng tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Mô hình này có hai ưu điểm, thứ nhất giữ vững quyền lực của nhà vua song tránh tình trạng độc đoán, chuyên quyền, cho các vị vua trẻ có thời gian tập dượt, chuẩn bị trước khi chính thức chuyển giao toàn bộ quyền lực, là quá trình đánh giá, thử thách các vị vua trẻ trên cương vị mới có giữ trọn vai trò, trách nhiệm của mình, có giữ đạo làm vua làm con hay không, các vua Trần cũng hết sức cứng rắn chấn chỉnh khi người kế thừa có biểu hiện lơ là chính sự, phạm vào những sai lầm. Ưu điểm thứ hai của mô hình này đó là tránh được sự tranh giành vương quyền giữa các hoàng tử, theo như truyền thống phương đông, trong gia đình con trưởng luôn là người kế thừa địa vị, tài sản của cha, tuy nhiên rút kinh nghiệm từ nhà Lý khi Lý Thái Tổ mất loạn Tam Vương xảy ra các hoàng tử tranh giành ngôi báu với con trưởng, người đã được chỉ định thừa kế, nhà Trần chủ động xác định rõ địa vị của người kế thừa, củng cố vững chắc uy tín và quyền lực của vị vua trẻ, đảm bảo ngôi vua không bị tranh đoạt hoặc bị bất kỳ thế lực nào đe dọa sau khi vua cha qua đời.

Để củng cố chính quyền trung ương mạnh cũng như vị thế lãnh đạo tuyệt đối của dòng họ, các vua Trần sử dụng các đại thần đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong triều đình đều là người trong tôn thất, có quan hệ huyết thống gần gũi, máu thịt với nhà vua, cử các vương hầu, quý tộc, con em trong dòng họ đi trấn nhậm các địa phương, các vùng lãnh thổ phức tạp. Bên cạnh đó là việc họ Trần thi hành chính sách hôn nhân nội tộc, loại bỏ hoàn toàn nguy cơ đến từ các thế lực ngoại thích, quyền lực của dòng họ mang tính độc tôn, duy nhất. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Tuy nhiên tính chất tập quyền của vương triều Trần càng cao bao nhiêu thì tính thân dân của nhà nước càng được tô đậm bấy nhiêu. Là một dòng họ đi lên từ những người làm nghề chài lưới, từ tầng lớp lao động của xã hội, họ Trần nói chung và các vua Trần nói riêng hơn ai hết hiểu rất rõ đời sống của nhân dân lao động, hiểu những khó khăn, gian khổ, những thiệt thòi của những người quanh năm chân lấm tay bùn, và cũng hơn ai hết họ hiểu sự chất phác, hồn hậu, sự thủy chung son sắt của người nông dân, hiểu được lòng dân có ý nghĩa lớn lao như thế nào đối với vận nước. Chính vì vậy kể cả khi đã có được ngôi báu, ở vào vị trí thiên tử đứng đầu thiên hạ thì họ Trần vẫn rất quan tâm, gần gũi với nhân dân, không xa dân, không coi thường nhân dân, luôn sống gần dân, chủ động tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân, hòa mình vào đời sống nhân dân đặc biệt thể hiện ở tư tưởng của những người đứng đầu triều đình, đứng đầu dòng họ. Các vua Trần sau khi nhường ngôi cho con để lui về làm thượng hoàng đều giành thời gian để đi vi hành tìm hiểu đời sống nhân dân, đánh giá thực trạng xã hội và thông qua đó củng cố khối đoàn kết dân tộc. Mối quan hệ giữa nhân dân và vương triều tạo nên một kết cấu chính trị đặc biệt nổi bật của nhà nước phong kiến họ Trần khi mà ở các quốc gia phong kiến khác trong khu vực tính giai cấp, phân biệt đẳng cấp diễn ra rất gay gắt, sâu sắc và có phần nghiệt ngã.

2.2.2. Tôn trọng ý kiến và quyết định của nhân dân, gần gũi lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân

Lòng dân và vận nước là hai phạm trù có mối quan hệ hết sức khăng khít, bền chặt với nhau và xét cho đến cùng bản chất của chính trị chính là làm sao giữ được lòng dân, làm sao đưa được vận nước vượt qua khó khăn thử thách vươn tới sự phát triển, phồn vinh. Vương triều Trần là một triều đại rất đặc biệt trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt từ cách thức bước lên vũ đài chính trị, đặc biệt trong chính sách trị nước và đặc biệt cả trong nguồn gốc hình thành. Nhìn theo chiều dài lịch sử các triều đại phong kiến ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy rất nhiều nếu không muốn nói là đa số các triều đại đều xuất thân từ tầng lớp quan lại quý tộc, tuy nhiên triều Trần thì lại hoàn toàn khác. Xuất thân của họ Trần là những người dân làm nghề chài lưới, là tầng lớp lao động qua nhiều thế hệ, chính vì xuất thân từ tầng lớp lao động, hiểu rõ tâm tư, đời sống, những gian khổ của người dân lao động cùng như những phẩm chất quý báu của họ nên ngay cả khi đã ở ngôi thiên tử họ Trần nói chung và vua Trần nói riêng vẫn luôn giữ thái độ tôn trọng nhân dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân, gần dân, thân dân. Giành được ngôi báu sau nhiều năm loạn lạc, gian khổ, hơn ai hết họ Trần nói chung và những người đứng đầu dòng họ, đứng đầu vương triều nói riêng hiểu rõ vai trò, vị trí của nhân dân đối với vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Chính bởi lẽ đó mà ý nguyện của nhân dân, tiếng nói của nhân dân luôn được tiếp thu, tôn trọng. Khẳng định trên đây được chứng minh qua một loạt các sự kiện và chính sách cụ thể của triều Trần như: Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Thứ nhất, triều Trần đã tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong quần chúng nhân dân đối với những vấn đề quốc gia đại sự, có ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của quốc gia.

Sự kiện nổi bật và có lẽ là duy nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, đó là Hội nghị Diên Hồng năm 1284, “Thượng hoàng triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến hỏi kế đánh giặc”[11;t2;tr11]. Sau khi thất bại trong cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ nhất, nhà Nguyên ráo riết chuẩn bị binh mã lương thực phục thù, quyết tâm xâm lược nước ta thêm một lần nữa để tạo bàn đạp tiến xuống phương nam, chúng cho xứ giả sang đưa ra nhiều yêu sách vô lý, o ép, dọa nạt, dụ dỗ hòng vừa tạo cớ xâm lược vừa thăm dò tình hình Đại Việt. Với đường lối ngoại giao khôn khéo, tuy mềm mỏng những kiên quyết, triều Trần đã bảo vệ được quốc thể, thể hiện quyết tâm giữ vừng độc lập, chủ quyền, song cũng làm giảm căng thẳng, hòa hoãn tạo điều kiện để quân ta có thêm thời gian chuẩn bị. Biết trước một cuộc chiến tranh ác liệt là điều tất yếu xảy ra, biết rõ lịch sử dân tộc đang đứng trước một thử thách vô cùng khắc nghiệt, vua tôi nhà Trần đã tích cực chuẩn bị và sự chuẩn bị đầu tiên chính là chuẩn bị về mặt chính trị tư tưởng. Ý thức rõ đây là vấn đề quan trọng không phải trách nhiệm riêng của bất kỳ cá nhân nào, ý thức được việc phải có sự đồng thuận, đoàn kết rất lớn từ quần chúng nhân dân, triều Trần đã thực hiện một hành động chính trị mà có lẽ đến hàng trăm năm sau không có một triều đại nào làm được đó là triệu tập một hội nghị toàn dân do các đại biểu là các bô lão từ khắp mọi miền đất nước. Hội nghị Diên Hồng được triệu tập với ba mục đích lớn sau đây:

Thăm dò ý kiến nhân dân, hiểu hơn suy nghĩ, thái độ của nhân dân đối với vấn đề lớn mà quốc gia, dân tộc đang đối mặt, lắng nghe nguyện vọng của nhân dân, những băn khoăn, trăn trở từ đó đưa ra phương hướng, kế sách, quyết sách giải quyết vấn đề. Việc một quốc gia như Đại Việt phải đối mặt với một cuộc chiến tranh vệ quốc có lẽ là một hiện tượng thường xuyên, liên tục trong lịch sử nước nhà, song đối mặt với một đội quân như quân đội nhà Nguyên thì lại là một thử thách rất nghiêm trọng, đây là một đế chế hùng mạnh bậc nhất trên thế giới, đã chinh phục một lãnh thổ rộng lớn từ Á sang Âu và gần như tại thời điểm bấy giờ không có bất kỳ một đội quân, một thành trì nào có thể ngăn được vó ngựa Mông Nguyên, kỵ binh nhà Nguyên được huấn luyện tốt, trang bị đầy đủ và rất thiện chiến, rất nhiều đội quân khét tiếng của thế giới đã phải gục ngã dưới vó ngựa Mông Cổ. Đối với Đại Việt, qua cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất, tuy thắng lợi song quân dân Đại Việt đã biết đến sự tàn bạo của quân Nguyên, đã hiểu những nơi mà vó ngựa Mông Cổ tràn qua thì những thứ còn lại chỉ là máu và nước mắt. Chính vì lẽ đó nếu nói trước sự xâm lược của nhà Nguyên một lần nữa mà không có sự sợ hãi, không lo lắng thì hoàn toàn là chủ quan, và cũng để đánh giá lại, khẳng định hơn nữa tinh thần chiến đấu, quyết tâm chống giặc, cũng như những suy nghĩ, băn khoăn trong quần chúng nhân dân, nhà Trần đã quyết định triệu tập Hội nghị Diên Hồng.

Tạo ra sự đoàn kết thống nhất, khẳng định quyết tâm trên dưới một lòng từ vua đến dân, quyết đánh thắng kẻ thù xâm lược. Đối với các vấn đề trọng đại của quốc gia, đặc biệt trong quản lý nhà nước thì sự đồng thuận giữa nhà nước và nhân dân có ý nghĩa quyết định, bất kỳ chủ trương, đường lối nào của nhà nước mà được nhân dân ủng hộ và quyết tâm thực hiện thì tất yếu thành công, thắng lợi, ngược lại nếu không có sự ủng hộ của nhân dân thì chắc chắn thất bại. Đoàn kết là sức mạnh, lòng dân là sức mạnh, quyết tâm là sức mạnh, nắm được nguyên tắc cốt tủy đó vương triều Trần đã có một hình thức biểu thị sức mạnh ấy cao nhất đó là trực tiếp cùng nhân dân quyết định kế sách chống giặc. Ở ngôi thiên tử, đứng đầu trăm họ vua Trần có đầy đủ quyền lực và sức mạnh để quyết định bất kỳ vấn đề gì trọng phạm vi quốc gia, song dù biết vấn đề có hợp tình, hợp lý đến đâu nhà vua vẫn không độc đoán chuyên quyền mà vẫn khiêm cung lắng nghe ý kiến của nhân dân.

Thông qua các đại biểu của nhân dân, tuyên truyền phổ biến chủ trương, đường lối của nhà nước đến với quần chúng nhân dân để thống nhất trong hành động tạo ra sức mạnh tổng hợp. Việc cho mời các bô lão từ khắp các vùng miền bản làng của đất nước đến dự hội nghị cho thấy nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam, tôn trọng người cao tuổi, mặt khác thông qua các bô lão, những người có uy tín, địa vị trong cộng đồng để truyền tải quyết tâm chính trị của nhà nước, để muôn dân yên lòng cùng đồng tâm chống giặc đó là một phương pháp quản lý rất hay và hiệu quả. Những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn, với bao sự vất vả, cực nhọc nay được diện kiến đấng thiên tử, được tiếp đãi trọng thể nơi chốn cung đình, được bàn bạc, được nêu ý kiến trước mặt vua đã để lại những sự cảm động sâu sắc, chưa bao giờ mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân lại gần gũi, chan hòa và khăng khít như thế. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Hội nghị Diên Hồng diễn ra với thời gian không dài nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với lịch sử dân tộc, về mặt chính trị hội nghị là tiền đề quan trọng giúp cho quân và dân Đại Việt thống nhất về mặt chủ trương, đường lối để chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai, bảo vệ thành công độc lập và toàn vẹn lãnh thổ Đại Việt. Về phương diện quản lý, hội nghị là phương thức vô cùng độc đáo trong việc đưa ra các quyết sách, các quyết định quản lý, khi đã tập hợp được ý chí và trí tuệ của nhân dân. Hội nghị Diên Hồng cũng đã thể hiện được một tư tưởng vô cùng tiến bộ của triều Trần đó là trách nhiệm đối với quốc gia là trách nhiệm của toàn dân, quốc gia không của riêng ai nên ai cũng phải có trách nhiệm, ai cũng có quyền trước vận mệnh của đất nước.

Thứ hai, triều Trần luôn chủ động lắng nghe ý kiến nhân dân, gần gũi với đời sống nhân dân.

Dù bận trăm công, nghìn việc nhưng các vua nhà Trần vẫn dành nhiều thời gian để tìm hiểu cuộc sống của nhân dân, có tư tưởng nhập thế ngay cả khi đã đi theo con đường tu hành. Sau cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất thắng lợi vua Trần Thái Tông đã nhường ngôi cho con là Thái tử Hoảng vào ngày 24 tháng 2 năm 1258 lui về chuyên chú vào Phật học, tuy nhiên đây không phải là một sự nghỉ ngơi thuần túy. Thượng hoàng Trần Thái Tông đã thực hiện nhiều chuyến đi mang tính chất vi hành đến nhiều vùng, miền của đất nước, bên cạnh việc truyền bá đạo Phật, dựng am tu hành, người còn thường xuyên tìm hiểu đời sống nhân dân, khuyến khích nhân dân tăng gia sản xuất, chiêu mộ dân phiêu tán các nơi để khai hoang, trồng cấy [4]. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

2.2.3. Lấy lợi ích của nhân dân, của quốc gia dân tộc là lợi ích cốt lõi, khẳng định vai trò của nhân dân đối với sự tồn vong của đất nước

Tính giai cấp và tính xã hội là tính chất đặc trưng cơ bản của tất cả các hình thái nhà nước, đối với nhà nước phong kiến nói chung tính giai cấp và tính xã hội được phân định một các hết sức rõ ràng, sâu sắc. Tính giai cấp thể hiện ở việc nhà nước phục vụ và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, giai cấp cầm quyền, quyền lực của giai cấp thống trị được đặt lên hàng đầu và đi kèm với nó là hệ thống pháp luật và công cụ khác để bảo vệ. Tính xã hội thể hiện ở việc nhà nước phải xử lý, giải quyết các công việc chung, điều hòa các mâu thuẫn trong xã hội, thực hiện các nhiệm vì sự tồn tại, ổn định và phát triển chung của xã hội. Trong nhà nước phong kiến thì tính giai cấp và tính xã hội được phản ánh rất rõ nét, giai cấp thống trị mà đại diện ở đây là nhà vua được bảo vệ quyền lực tuyệt đối, lợi ích tuyệt đối, bất kể hành vi nào xâm phạm lợi ích của nhà vua, của hoàng gia, quý tộc đều bị nghiêm trị, thậm chí là trừng phạt hết sức hà khắc và tàn bạo, cho dù nhà nước phong kiến đó đang ở giai đoạn suy vong. Tính xã hội thể hiện ở việc nhà nước sử dụng sức mạnh của mình để giải quyết một số các vấn đề có ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội như thiên tai, địch họa, chiến tranh và nhìn chung quyền lợi, lợi ích của nhân dân luôn ở dưới, luôn thấp hơn quyền lợi của giai cấp thống trị. Đây là một quy luật phổ biến, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội con người.

Tuy nhiên, đối với Vương triều Trần trong lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa tính giai cấp và tính xã hội lại được xử lý một cách hết sức linh hoạt, nhạy bén và hài hòa tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử. Song dù cho điều kiện xã hội có diễn biến như thế nào thì triều Trần với tư tưởng trọng dân, thân dân, lấy dân làm gốc vẫn luôn lấy lợi ích của nhân dân, lợi ích của quốc gia, dân tộc là lợi ích cốt lõi, lợi ích của dòng họ, của hoàng tộc muốn đảm bảo thì phải cố kết chặt chẽ với lợi ích của toàn dân. Tư tưởng chính trị quan trọng này được thể hiện một cách xuyên suốt trong thời kỳ trị vì của nhà Trần, được thể hiện sinh động và phong phú cả trong thời chiến và thời bình và được minh chứng qua hàng loạt các sự kiện lịch sử, các chính sách phát triển kinh tế xã hội.

Sự kiện lịch sử đầu tiên và rõ nét nhất thể hiện được việc triều Trần luôn đặt lợi ích quốc gia dân tộc và nhân dân lên trên hết đó là ba lần kháng chiến chống quân Mông Nguyên. Ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông được nhìn nhận, đánh giá và phân tích rất nhiều dưới góc nhìn quân sự, tuy nhiên trong khuôn khổ một công trình nghiên cứu về khoa học quản lý, cần đánh giá sự kiện này dưới giác độ quản lý nhà nước. Sự xâm lược của quân Mông Nguyên là một vấn đề quản lý phức tạp, sự kiện này diễn ra đặt ra rất nhiều câu hỏi đòi hỏi nhà quản lý ở đây là vương triều Trần phải trả lời, đòi hỏi phải có một chủ trương, chính sách đúng đắn, nhất quán và hiệu quả. Triều Trần đứng trước một đòi hỏi cấp thiết của lịch sử song cũng là đứng trước lựa chọn khó khăn trong việc đưa ra chính sách quản lý. Lúc này dưới những yêu sách của triều đình nhà Nguyên vua tôi nhà Trần có hai sự lựa chọn, một là chấp nhận đầu hàng, triều cống, xóa bỏ tước vị dâng toàn bộ lãnh thổ và giang sơn cho quân giặc để hy vọng bảo toàn lợi ích của vương triều  của hoàng tộc, hai là tập trung toàn bộ lực lượng, đoàn kết thống nhất trên dưới một lòng, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng quân giặc, bảo vệ vững chắc lãnh thổ và nền độc lập của Đại Việt. Có thể nói đây là một quyết định quản lý khó khăn nhất trong lịch sử hành chính nhà nước thời kỳ phong kiến bởi lẽ quyết định này không những chỉ ảnh hưởng đến sự tồn vong của một vương triều mà còn ảnh hưởng toàn bộ quá trình tồn tại, phát triển và tương lai của một dân tộc. Chứng kiến uy lực khủng khiếp của vó ngựa Mông Cổ, chứng kiến biết bao thành trì, biết bao vương quốc đã vĩnh viễn biến mất sau bão táp từ thảo nguyên, một bộ phận quý tộc họ Trần đã bộc lộ sự sợ hãi, giao động về tư tưởng, khi được vua Trần Thái Tông hỏi kế sách đánh giặc “Thái úy Trần Nhật Hiệu ngồi dựa mạn thuyền chấm ngón tay xuống nước viết thành hai chữ “Nhập Tống” nghĩa là xin nhập vào nước Tống để cầu cứu quân nhà Tống bảo vệ che chở. Khi vua hỏi: “Quân Tinh Cương đâu?” (quân bản bộ của Thái úy Nhật Hiệu) thì ông trả lời: “Thần gọi chúng không đến” [4, tr118]. Một số quý tộc khác của họ Trần như Trần Di Ái, Trần Ích Tắc thì quay lung phản bội tổ quốc, làm tay sai cho giặc. Về mặt chính trị và đạo đức những cá nhân trên là những kẻ phản bội tổ quốc, phản bội lại truyền thống yêu nước quý báu của dân tộc, sẵn sàng vì lợi ích của bản thân mà không màng đến lợi ích của muôn dân, về mặt quản lý nhà nước các các nhân trên đại diện cho phương pháp quản lý mang tính chủ hòa, thỏa hiệp. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Tư tưởng chủ hòa, hèn nhát vấp phải sự kháng cự rất quyết liệt của tư tưởng chủ chiến, quyết tâm phá giặc bằng mọi giá dù đầu rơi máu chảy cũng không suy chuyển.

Cũng với vấn đề về cuộc chiến không thể tránh khỏi với quân Nguyên, Vua Thái Tông đã hỏi ý kiến Thái sư Trần Thủ Độ và nhận được câu trả lời hết sức ngắn gọn, bình tĩnh nhưng đầy quyết tâm sục sôi: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”[11;tr173]. Câu trả lời ấy tuy ngắn gọn những đã thể hiện một chủ trương lớn, một quyết sách chính trị rất táo bạo và đúng đắn đó là phải chiến đấu cho dù có hy sinh xương máu để bảo vệ giang sơn, xã tắc. Trong lần kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ ba, trước thế giặc rất mạnh, triều đình phải rút lui bảo toàn lực lượng, vua Nhân Tông một lần nữa đưa ra vấn đề nên hòa hoãn, tạm hàng để cứu muôn dân, đây là một hành động thể hiện tấm lòng vì nước vì dân, sẵn sàng hy sinh lợi ích của vương triều để đổi lại hạnh phúc, ấm no và hòa bình của nhân dân, vấn đề này được vua Trần đề cập trực tiếp với Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, rất đồng cảm và thấu hiểu tấm lòng của vị quân vương song phần vì cũng xuất phát từ lòng yêu dân phần vì hiểu rất rõ bản chất của quân xâm lược Mông Nguyên, Hưng Đạo vương đã khẳng khái trả lời:“Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần đi đã”[11]. Lời nói đó khẳng định chủ trương trước sau như một của triều Trần đối với nạn ngoại xâm, chỉ có chiến đấu, chỉ có quyết tâm kháng chiến mới bảo vệ được độc lập, tự do, bảo vệ được muôn dân trăm họ, không bao giờ đầu hàng, không bao giờ sợ hãi, không bao giờ dâng giang sơn xã tắc, để mặc sự sống chết của trăm họ dưới vó ngựa của kẻ thù.

Thực tế lịch sử đã chứng minh triều Trần đã có quyết định đúng đắn, lựa chọn chính sách quản lý phù hợp, hiệu quả với mục tiêu duy nhất, cốt lõi nhất là vì độc lập dân tộc vì lợi ích của nhân dân. Bên cạnh đó, triều Trần luôn lấy lợi ích của nhân dân là nội dung trọng tâm, cốt lõi trong đường lối trị nước và chính sách quản lý đó là tư tưởng lấy dân làm gốc trong bộ máy lãnh đạo triều đình, hoàng tộc. Có thể nói tư tưởng “ lấy dân làm gốc” là tư tưởng chính trị xuyên suốt trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, trải qua nhiều thế kỷ được vận dụng linh hoạt, sáng tạo song luôn có sự nhất quán, có tính kế thừa và phát huy, tư tưởng “lấy dân làm gốc” là chiến lược không bao giờ thay đổi dù xã hội, đất nước có vận động và phát triển như thế nào. Lấy lợi ích của nhân dân làm tôn chỉ trong hành động của nhà nước và được thể hiện rất rõ thông qua tư tưởng chính trị của những người đứng đầu nhà nước, đứng đầu bộ máy chính quyền. Vua Trần Nhân Tông từng nói: “Hỏi dân chúng không chỉ ở chỗ tìm sự thông thái của họ mà là tập hợp ý chí yêu quý non song của họ, cho Dân hiểu chúng ta vì họ, cùng với họ, bảo vệ muôn đời mảnh đất cho con cháu họ! Không có sức dân, lòng dân, ý dân, chí dân thì mọi triều đại đều sụp đổ khỏi cần đến ngoại xâm”   [25, tr.100]. Khi được Vua Anh Tông hỏi kế sách giữ nước và chống giặc khi có họa ngoại xâm, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn khái quát chân lý hết sức ngắn gọn nhưng mang tầm chiến lược “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”[11;tr79]. Lòng dân, sức dân, ý chí của nhân dân được đánh giá đúng với vị trí, vai trò của nó, đó là cội nguồn sức mạnh của dân tộc, là yếu tố tiên quyết không chỉ giúp một đất nước giữ vững bờ cõi mà còn giúp cho quốc gia cường thịnh, ổn định và phát triển, khi nào và ở đâu quyền lợi chính đáng của nhân dân được đảm bảo thì nơi đó uy tín của nhà nước, của chính quyền được khẳng định. Một quốc gia mà lòng dân và ý chí của nhà lãnh đạo là một, một quốc gia mà từ người dân bình thường đến lãnh đạo cấp cao đều đồng lòng, nhất chí thì đó là một quốc gia mạnh, một quốc gia bất khả chiến bại.

2.2.4. Chăm lo đời sống nhân dân, chủ động giải quyết các mâu thuẫn giữa nhà nước và nhân dân thông qua giáo dục, thuyết phục Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Trong suốt thời gian 175 năm trị vì của vường triều Trần những võ công lịch sử, những trận đánh với chiến tích chói lọi đã trở thành mảng màu chính trong bức tranh chính trị đương thời, song để thấy hết được những giá trị tư tưởng của nhà Trần trong vấn đề quản lý nhà nước, đặc biệt là mối quan hệ với nhân dân cần có nhiều góc nhìn đa chiều, cần đặt các chiến tích quân sự ngang bằng với những thành quả quản lý nhà nước trong điều kiện hòa bình. Tuy nhiên dù là trong thời bình hay thời chiến, triều Trần cũng luôn đề cao các chính sách chăm lo đời sống cho nhân dân.

Để chuẩn bị lực lượng quân sự thường trực có kĩ chiến thuật tốt, đồng thời đảm bảo đời sống sản xuất, lao động của nhân dân được diễn ra bình thường, không bị xáo trộn, nhà Trần tiếp tục thực hiện chính sách “ ngụ binh ư nông”, cho binh lính thay phiên về nhà làm ruộng chăm lo sản xuất, vừa đảm bảo lực lượng thường trực sẵn sàng chiến đấu, vừa đảm bảo đời sống nhân dân, cung cấp đủ lương thực, thực phẩm cho nhân dân khi chiến tranh xảy ra.

 Trong thời chiến, triều Trần thực hiện chiến thuật “ thanh dã” tức là chủ động sơ tán, di tản tất cả của cải vật chất và con người khỏi các vùng chiến sự, khỏi những nơi tập trung đông dân cư, chiến thuật này đã đạt được hai mục tiêu quan trọng, một là về mặt quân sự, làm phá sản âm mưu tốc chiến tốc thắng, làm tiêu hao sinh lực địch, chậm bước tiến của kẻ thù, không cho chúng có đủ nhu yếu phẩm và lương thực, về mặt xã hội, bảo vệ tốt tài sản và tính mạng của người dân, đảm bảo ngay trong tình thế chiến tranh khốc liệt đời sống nhân dân vẫn được duy trì ổn định. Đây là một chính sách, một biện pháp quản lý hết sức hiệu quả, góp phần không nhỏ vào chiến thắng lớn của Đại Việt trước quân xâm lược Mông Nguyên.

Trong thời bình và đặc biệt là thời kỳ hậu chiến, sự quan tâm, chăm lo của triều Trần đối với đời sống nhân dân càng thể hiện rõ nét thông qua quyết tâm chính trị cũng như các hoạt động cụ thể của nhà nước mà đứng đầu là vua Trần. Vua Trần Thái Tông vị vua mở nghiệp họ Trần là tấm gương sáng để các thế hệ sau noi theo, học hỏi, khi đất nước tạm yên bình, vua chăm lo vỗ về trăm họ, tuyển chọn, rèn luyện và sử dụng nhân tài trong bộ máy nhà nước, ngài chú trọng sản xuất nông nghiệp, trực tiếp đi thuyền thị sát việc phòng hộ đê điều mùa lũ lụt, ngài còn cho tập hợp dân phiêu tán để khai khẩn đất hoang, lập làng lập ấp. Đặc biệt vua Trần Thái Tông và các vua Trần sau này rất quan tâm đến bộ phận người dân là các dân tộc thiểu số ở các vùng biên giới, ngoài việc thường xuyên phủ dụ, hỗ trợ về mặt vật chất, khi những cộng đồng người này bị đe dọa từ phương bắc nhà vua đã ngự giá thân chinh cầm quân tiễu trừ giặc cướp đẩy lùi quân phiến loạn, bảo vệ sự yên bình cho đồng bào. Chiến tranh binh lửa kéo dài là mối họa và gây nên sự tàn phá khủng khiếp đối với sản xuất, tuy không để lương thực thực phẩm lọt vào tay giặc song thời gian chiến tranh gần như không thể sản xuất được gì, chính vì vậy sau khi đất nước yên bình Đại Việt đối mặt với nguy cơ ruộng đất bỏ hoang, tình trạng đói kém có thể xảy ra và nguy hiểm không kém gì giặc ngoại xâm. Ngay sau khi chiến thắng trở về kinh đô trong lần thứ 3 chống quân Nguyên, vua Trần Nhân Tông đã cho xuống chiếu đại xã thiên hạ, nơi nào bị binh lửa cướp phá thì miến tô dịch. Trước tình hình nạn đói năm 1290, vua cho lấy thóc công chẩn cấp cho dân nghèo và miễn thuế lệ.  Có thể nói trong thời kỳ thịnh trị của triều Trần hai vấn đề quan trọng bậc nhất đó là dưỡng dân và sử dụng sức mạnh nhân dân trong dựng nước và giữ nước, và cho đến thời đại ngày nay của chúng ta, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới vấn đề cốt lõi của quản lý nhà nước không có gì nằm ngoài lợi ích của nhân dân, đó vừa là mục tiêu vừa là động lực của nền hành chính. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Không chỉ chăm lo đời sống nhân dân, quan tâm đến tâm tư nguyện vọng của nhân dân mà triều Trần còn xử lý rất tốt, rất thỏa đáng, thấu tình đạt lý những mâu thuẫn, bức xúc trong quần chúng nhân dân thông qua con đường giáo dục, thuyết phục. Sự kiện tiêu biểu khẳng định cho đường lối trị quốc đầy tính nhân văn này là sự kiện Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật dẹp loạn Đà Giang. Trong lịch sử các triều đại phong kiến, tính cát cứ, tự trị của một số thủ lĩnh người dân tộc là một hiện tượng phổ biến, nó nói nên sự đa dạng trong văn hóa, phong tục tập quán và cũng phản ánh tính phức tạp của đời sống chính trị ở một quốc gia đa dân tộc với hình thế lãnh thổ phức tạp, và cũng chính vì thế mà việc các thế lực tù trưởng địa phương nổi dậy chống đối, chiếm cứ gây rối là điều khó tránh khỏi. Sự gây rối chống đối này xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân, hoặc đến từ tham vọng chính trị của các thủ lĩnh địa phương, hoặc xuất phát từ sự bất công trong việc cai trị của quan chức địa phương. Để bảo vệ quyền lực của chính quyền trung ương, bảo vệ đời sống nhân dân ở các vùng phụ cận, yêu cầu quản lý đặt ra là phải nhanh chóng dẹp yên nội loạn, giải quyết tốt mâu thuẫn phát sinh. Qua nghiên cứu lịch sử nhiều thời kỳ có thể thấy trước vấn đề quản lý này rất nhiều nếu không muốn nói là tuyệt đại đa số các triều đại lựa chọn phương án là dùng lực lượng quân sự, đánh dẹp, đập tan sức mạnh quân sự của lực lượng phản loạn, đàn áp mạnh mẽ và có lúc còn có phần tàn bạo, hà khắc. Tuy nhiên đối với vương triều Trần thì đường lối xử lý, phương pháp quản lý lại được thực hiện một cách hoàn toàn khác, đó là thông qua con đường giáo dục, thuyết phục, vận động đối thoại.

Năm 1280 ở vùng Đà Giang có một tù trưởng là Trịnh Giác Mật dấy binh làm phản, đạo Đà Giang nằm ở phía Tây Bắc của tổ quốc giữ vị trí trọng yếu về chính trị và quân sự, đặc biệt trong bối cảnh họa xâm lăng từ phương bắc luôn thường trực thì Đà Giang có vai trò càng quan trọng, là phên dậu của tổ quốc, chính vì vậy việc làm phản của Trịnh Giác Mật vượt ra ngoài khuôn khổ của mâu thuẫn giữa địa phương và trung ương, giữa dân và triều đình trở thành nguy cơ lớn đối với an ninh, chính trị quốc gia. Trước tình thế đó vua Trần cử Chiêu Văn Duật là người cầm quân dẹp loạn vừa thể hiện tính quan trọng của vấn đề vừa thể hiện chủ trương của triều Trần ngay từ đầu là dẹp loạn thông qua con đường giáo hóa, đối thoại. Là hoàng tử thứ sáu của vua Trần Thái Tông, Chiêu Văn Vương là người văn võ song toàn, vừa có tài làm tướng lại am hiểu văn hóa, tinh thông ngôn ngữ, phong tục, tập quán của nhiều quốc gia, dân tộc, ông được cử cầm quân dẹp giặc là một sự lựa chọn rất đúng đắn. Với lực lượng quân sự mạnh và tài năng điều binh khiển tướng của mình, Trần Nhật Duật có thể ngay lập tức triển khai binh lực đánh tan Trinh Giác Mật song là bậc nho tướng đương thời, lại là người khoan dung, độ lượng, ông đã chọn cách thức đối thoại, lắng nghe, giáo dục thuyết phục để dẹp yên sự chống đối. Trước lời đề nghị có tính thách thức rất lớn từ Trịnh Giác Mật muốn ông một mình một ngựa đến trại để đàm phán, Trần Nhật Duật nhận lời. Về mặt phương pháp quản lý, với tình thế lúc đó rất nhiều quan điểm cho rằng như vậy là liều lĩnh là mạo hiểm, là chủ quan, khinh địch song đó lại là một sự lựa chọn tinh tế, khôn ngoan và hiệu quả. Ngay từ khi nhận nhiệm vụ Trần Nhật Duật đã ý thức được rất rõ chỉ có bằng cách đối thoại, chỉ bằng lòng nhân nghĩa chân thành thì mới hóa giải được can qua, đem lại thái bình lâu dài cho nhân dân không chỉ là nhân dân cả nước mà còn là người dân ở chính đạo Đà Giang. Bằng vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa các dân tộc thiểu số, Trần Nhật Duật đã thể hiện là một lãnh đạo có phong cách gần dân, am hiểu tường tận đời sống, phong tục tập quán của nhân dân, từng cử chỉ lời nói hành động của ông đều hết mực giản dị, gần gũi với bà con người Mán. Không ai chứng kiến cuộc nói chuyện, trao đổi giữa Trần Nhật Duật và Trịnh Giác Mật, chỉ biết rằng sau cuộc gặp gỡ đầy thiện chí ấy thì Trịnh Giác Mật đã đem cả vợ con binh tướng bản bộ đến hàng, thề trung thành với họ Trần với Đại Việt, “…Khi tới trại, người Man dàn vây mấy chục lớp và đều cầm đao thương chĩa vào phía trong. Nhật Duật đi thẳng vào, trèo lên trại. Mật mời ông ngồi. Nhật Duật thạo biết tiếng nói và am hiểu phong tục của nhiều nước, cùng ăn bốc, uống bằng mũi với Mật. Người Man thích lắm. Khi Nhật Duật trở về, Mật đem gia thuộc đến doanh trại đầu hàng. Mọi người đều vui lòng kính phục vì không mất một mũi tên mà bình được Đà Giang. Đến khi về kinh sư, (Nhật Duật) đem Mật và vợ con hắn vào chầu, vua rất khen ngợi ông. Sau đó, vua cho Mật về nhà, giữ con hắn ở lại kinh đô. Nhật Duật mến nuôi hết lòng, xin triều đình ban tước thượng phẩm và cho vào trông ao cá, sau cũng cũng cho về nhà”[11;tr187].. Sức mạnh của lòng nhân nghĩa, sức mạnh của giáo dục của sự lắng nghe, thấu hiểu vượt xa sức mạnh của trăm vạn quân mã, và còn giải quyết được một cách triệt để những mâu thuẫn nổi lên trong xã hội, song giáo dục, thuyết phục cũng phải dựa trên nguyên tắc lấy lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, giáo dục trên cơ sở pháp luật.

2.2.5. Phát huy sức mạnh lòng dân trong các vấn đề quốc gia đại sự Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Quyền làm chủ của nhân dân là một khái niệm không tồn tại trong chế độ phong kiến, nhưng đã được xây dựng ươm mầm với tư tưởng “ dân là gốc”, mọi vấn đề quốc gia đại sự thành hay bại đều là nhờ sức dân, nhân dân có tham gia vào các chính sách của nhà nước hay không, mức độ tham gia như thế nào quyết định lớn đến hiệu quả quản lý. Sức mạnh lòng dân thể hiện ở ba góc độ, thứ nhất là mức độ đồng tình, thứ hai là sự đóng góp trí tuệ và thứ ba là sự tham gia trực tiếp thực hiện. Ở các phần trên chúng ta đã thấy được sự đồng tình cũng như đóng góp trí tuệ của nhân dân trong chính sách trị nước của triều Trần, trong phần này góc độ thứ ba đó là sự tham gia trực tiếp thực hiện các chính sách lớn của đất nước, các vấn đề quốc gia đại sự sẽ được làm sáng tỏ. Sức mạnh của lòng dân là một phạm trù không mới trong đời sống chính trị nước ta ngay từ những hình thái nhà nước sơ khai nhất, vì là nhà nước được xây dựng trên nền tảng văn minh nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp đi liền với quá trình chinh phục thiên nhiên, đắp đê, làm thủy lợi, phòng chống thiên tai nên từ rất sớm người Việt đã có tinh thần đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau để huy động được sức mạnh lớn nhất của cộng đồng, đó là hình thái sơ khai nhất của sức mạnh lòng dân. Cùng với sự phát triển của các hình thái nhà nước, hoạt động đoàn kết, huy động sức mạnh của nhân dân được diễn ra trên nhiều mặt, đặc biệt là trong tình thế có chiến tranh, lúc này sức mạnh lòng dân không chỉ biểu đạt thông qua những việc làm cụ thể mà còn thể hiện ở việc đóng góp trí tuệ, mưu lược vào công cuộc chống ngoại xâm. Trong thời đại nhà Trần và nhất là ở thời kỳ đầu, đất nước liên tục phải trải qua nạn xâm lăng, những năm tháng binh lửa nối tiếp nhau, những đội quân xâm lược lớp sau đông đảo, hung hăng hơn lớp trước liên tiếp uy hiếp Đại Việt, với đặc thù là một quốc gia có diện tích nhỏ, dân số, binh lực và tiềm lực quốc phòng không thể so sánh với một đế chế hung mạnh như nhà Nguyên, triều Trần chỉ có một con đường duy nhất đó huy động cao nhất và lớn nhất sức mạnh của lòng dân, lực lượng nơi dân, của cải nơi dân để chống giặc, chống lại giặc ngoại xâm có thể nói là nhiệm vụ quản lý đầu tiên được thực hiện dưới mô hình nhà nước và nhân dân cùng làm. Cái tinh túy trong việc phát huy sức mạnh lòng dân của triều Trần ở chỗ, chủ trương đường lối của nhà nước được phổ biến và quán triệt thực hiện rất sâu rộng trong toàn bộ nhân dân và nhân dân cũng tuyệt đối chấp hành nghiêm chỉnh các biện pháp quản lý của nhà nước. Với chính sách “thanh dã – vườn không nhà trống”, triều Trần đã tổ chức tuyên truyền phổ biến một cách có hiệu quả, bằng chứng là giặc Nguyên đi đến đâu cũng chỉ chiếm được những gian nhà, mảnh vườn bỏ trống, không thức ăn, không nhu yếu phẩm, thậm chí nguồn nước có thể có độc, kể cả kinh thành Thăng Long vốn phồn thịnh, nhộn nhịp cũng ngay lập tức trở thành một tòa thành trống trơn. Nhân dân Đại Việt dù là tầng lớp nào, dù xuất thân khác nhau song đã đoàn kết thực hiện tốt chính sách lớn của nhà nước, đảm bảo tối đa hiệu lực, hiệu quả của chính sách quản lý. Dưới thời kỳ nhà Trần, chiến tranh quân sự không đơn thuần là cuộc đối đầu giữa hai đội quân mà nó là cuộc chiến giữa một đội quân thiện chiến bậc nhất đương thời với một quốc gia nhỏ bé song đã phát huy cao độ sức mạnh của lòng dân, một cuộc chiến mà bên cạnh những chiến lược quân sự, bên cạnh những đội quân anh dũng còn là những biện pháp quản lý vô cùng hiệu quả có tác dụng chẳng kém gì một đội quân

2.2.6. Kiên quyết nghiêm trị và có thái độ cứng rắn đối với tầng lớp quý tộc có biểu hiện xa dân, coi thường nhân dân Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Một tư tưởng, đường lối, chính sách đúng đắn không chỉ cần được thực hiện mà còn cần có cơ chế bảo vệ, giữ gìn. Vương triều Trần coi trọng nhân dân bao nhiêu, các vua Trần yêu nước, thương dân bao nhiêu thì cũng có thái độ rất nghiêm khắc, cứng rắn với biểu hiện xa dân, coi thường nhân dân, chống lại lợi ích của nhân dân bấy nhiêu.

Triều Trần là một triều đại phong kiến có bộ máy quan lại mang tính chất quý tộc, tức là hầu hết quan lại, vương tôn đều là người nội tộc, mang họ Trần, chính vì thế mà lợi ích của nhà nước và dòng họ là đồng nhất, quan hệ họ hàng, thân thích rất bền chặt và được giữ gìn, trân trọng. Tuy nhiên dù cho đội ngũ quan lại có quan hệ thân thích như thế nào với nhà vua, dù nắm giữ vị trí cao như thế nào trong triều đình, thậm chí là thái tử nếu có biểu hiện xa dân, coi thường nhân dân, phản bội lại lợi ích của nhân dân thì cũng ngay lập tức bị nghiêm trị không có sự dung túng, khoan nhượng.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên, không ít các vương tôn, quý tộc nhà Trần đã có biểu hiện, thậm chí là công khai phản bội, đứng về phía kẻ thù làm tay sai cho giặc, vì bảo vệ quyền lợi, tính mạng của bản thân mà bất chấp lợi ích của quốc gia, lợi ích của nhân dân, đi ngược lại với đường lối đúng đắn của vương triều. Những cá nhân này như Trần Ích Tắc, Trần Di Ái đều ngay lập tức bị trừng trị thích đáng, hoặc là bị khai trừ ra khỏi vương triều, dòng họ, hoặc là bị xử tử không cần bàn.

Bên cạnh biểu hiện xa dân, coi thường nhân dân còn bộc lộ dưới rất nhiều hình thức ở nhiều tầng lớp quan lại, thậm chí là ở các vị tướng, quan lại có tài năng. Trong nhiều trường hợp tài năng không đảm bảo và không đi liền với phẩm chất đạo đức, lối sống. Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư là một trường hợp như vậy, xuất thân quý tộc lại được vua Trần nhận làm “ thiên tử nghĩa nam”, Trần Khánh Dư bản thân đã ở tột đỉnh của danh vọng và những ưu đãi bậc nhất của triều đình, ông lại là người có tài làm tướng, được các vua Trần cũng như bản thân Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh giá rất cao, giao nhiều trọng trách. Tuy nhiên tài năng càng phát tiết ra bao nhiêu thì những góc khuất trong phẩm chất con người Nhân Huệ Vương lại càng bộc lộ bấy nhiêu. Nhân Huệ Vương là người có tính thích ăn chơi, hưởng thụ với thú vui săn bắn, thích làm giàu và bị đánh giá là “tham bỉ”, đây là những điều mà các vua Trần cũng như những đại thần nhà Trần như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn rất phê phán, thể hiện rõ trong tác phẩm Hịch Tướng Sĩ. Không những vậy Nhân Huệ Vương lại là người có lối sống phóng túng, bê tha, để lại rất nhiều chỉ trích và những việc làm xấu hổ. Quý trọng tài năng của con người này, các vua Trần cũng như bản thân Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã nhiều lần bỏ qua, song với một phát ngôn : “quan tướng là chim ưng, dân đen là gà vịt, lấy gà vịt nuôi chim ưng thì có gì là sai”, Vân Đồn là nơi trấn nhậm của Trần Khánh Dư, “Thơ mừng của một người khách phương Bắc câu: “Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh” (Vân Đồn gà chó thảy đều kinh) là nói thác sợ phục uy danh của Kháng Dư mà thực là châm biếm ngầm ông ta. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Kháng Dư tính tham lam, thô bỉ, những nơi ông ta trấn nhậm, mọi người đều rất ghét. Nhân Tông chỉ tiếc ông có tài làm tướng, nên không nỡ bỏ mà thôi”[11;tr197].  Trần Khánh Dư đã phải chịu sự trừng phạt hết sức nghiêm khắc của vua Trần, với việc tước bỏ toàn bộ gia sản, chức danh, quân bản bộ, phạt đánh trượng và đuổi ra khỏi vương triều. Trong nhiều tài liệu lịch sử thì việc Trần Khánh Dư bị phạt nặng như vậy là do lối sống phóng túng coi thường vương pháp và các bậc công thần, tuy nhiên rất có thể chính thái độ coi thường nhân dân, bóc lột bòn mót sức lao động của nhân dân, coi nhân dân như “gà vịt” mới là nguyên nhân thực sự khiến các vua Trần đưa ra quyết định hết sức nghiêm khắc này. Tại sao với bao nhiêu lỗi lầm Trần Khánh Dư đều được bỏ qua mà chỉ vì một câu nói lại bị xử lý nghiêm khắc như vậy. Lý do chính bởi vì câu nói đó là mầm mống của họa mất nước, cả vương triều yêu dân như con, coi mỗi người dân như máu mủ ruột thịt, xót xa thương dân trước sự giày xéo cướp bóc của kẻ thù, cả vương triều luôn coi nhân dân là cái gốc của sự nghiệp trị quốc vậy mà có kẻ giám làm trái với đường lối chính trị vô cùng đúng đắn đó, dám dùng cái danh quý tộc để bóc lột, vơ vét của nhân dân, dám coi nhân dân như “gà vịt”, kẻ đó phải bị trừng phạt. Chỉ một câu nói nhưng Trần Khánh Dư đã mắc hai tội lớn, chống lại nhân dân, coi thường nhân dân tức là coi thường đất nước đó là tội bất trung, làm ngược lại với lời di huấn, truyền thống của cha ông đó là tội bất hiếu, nếu không nghiêm trị thì sao giữ được kỉ cương, phép nước, dù có là “thiên tử nghĩa nam” cũng không thể tha. Sau này khi đất nước đứng trước nguy cơ chiến tranh một lần nữa, vì cảm mến tài năng của Trần Khánh Dư các vua Trần đã cho ông một cơ hội làm lại, lấy công chuộc tội từ đó đủ thấy sự khoan dung của triều Trần trong đối nhân xử thế với quan lại cũng như nhân dân.

Nếu như trường hợp của Trần Khánh Dư là một vương tôn quý tộc, thì trường hợp của vua Anh Tông có lẽ là minh chứng tiêu biểu nhất cho việc triều Trần rất nghiêm khắc với biểu hiện xa dân, coi thường lợi ích của nhân dân, là biểu trưng thực tiễn của câu nói “thiên tử phạm lỗi xử tội như dân”. Trần Anh Tông (1293-1314) tên là Trần Thuyên, ông là con trưởng của vua Trần Nhân Tông và Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng Thái Hậu, năm 1292, vua Trần Nhân Tông lập Đông cung Thái tử Thuyên làm Hoàng Thái Tử, đến tháng 3 năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Hoàng Thái Tử Trần Thuyên. Được đánh giá là vị vua có tài trị quốc, có đức độ và công lao lớn trong việc giữ gìn cơ nghiệp triều Trần cũng như sự ổn định, thái bình của Đại Việt, song Trần Anh Tông khi còn trẻ cũng đã mắc những sai lầm và những sai lầm ấy rất may mắn đã được trao cơ hội sửa chữa. Tuổi trẻ với bản tính ghét sự gò bó, thích khám phá và ham vui, Anh Tông tham gia nhiều trò chơi, thú vui như đá cầu, uống rượu, dạo phố ban đêm cùng đám thị vệ, những thú vui đó xét trên góc độ giải trí của một người thường dân thì có lẽ là hết sức bình thường, nhưng đối với một vị vua, người kế vị ngai vàng, nắm giữ vận mệnh tương lai của đất nước thì lại không thể xem nhẹ. Thú vui nếu biết giới hạn, biết kiểm soát nó thì sẽ đem lại tác động tích cực, ngược lại nếu sa đà, đam mê thái quá thì sẽ là vũng bùn sâu nhấn chìm con người ta, biết bao vị quân vương đánh mất cả giang sơn xã tắc vì đam mê bả vinh hoa, tửu sắc, từ chỗ đam mê tửu sắc sẽ dẫn đến bóc lột bòn món sức lao động, của cải của nhân dân. Vấn đề vua uống rượu, vua đi chơi nghe có vẻ chuyện nhỏ nhưng thực gia cũng là việc quốc gia đại sự và một vị vua nếu ham mê ăn chơi, vui thú thì không thể là một vị vua tốt, không bao giờ là một vị vua yêu dân, thương dân bởi lẽ khoảng cách giữa ngọc ngà châu báu, giữa sung sướng trốn cung đình nó quá xa so với đời sống bần hàn, giản dị của nhân dân. Thật may mắn cho Vương triều Trần, thật may mắn cho vua Anh Tông và thật may mắn cho Đại Việt, khi vị vua trẻ đang mải mê với những thú vui của bản thân thì vẫn còn đó vị Thái Thượng Hoàng đầy mẫu mực, với tấm lòng yêu nước thương dân vô bờ bến, và cả sự nghiêm khắc, cứng rắn và uy quyền tuyệt đối với những sai lầm của người kế nhiệm đó là Thượng Hoàng Trần Nhân Tông. Trong một lần vua Anh Tông uống rượu say ngủ quên, Thượng Hoàng Nhân Tông bất ngờ từ phủ Thiên Trường về kinh sư, chứng kiến việc vua con uống say, bỏ bê chính sự Thượng Hoàng Nhân Tông rất giận, lập tức triệu tập bá quan văn võ ngay ngày hôm sau phải có mặt tại Thiên Trường điểm danh mà thực chất đây sẽ là phiên điều trần dành cho vua Anh Tông về trách nhiệm của bản thân với triều đình, với phụ hoàng, “…Bấy giờ Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường trở về kinh sư. Các quan trong triều không ai biết cả, vua thì uống rượu xương bồ say khướt. Thượng hoàng thong thả đi thăm khắp các cung điện, từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Cung nhân dâng bữa, Thượng hoàng ngoảnh nhìn không thấy vua, lấy làm lạ, hỏi là Quan gia ở đâu? Cung nhân vào trong nội đánh thức, nhưng ngài không tỉnh. Thượng hoàng giận lắm, lập tức trở về Thiên Trường, xuống chiếu cho các quan ngay ngày mai đều phải tới phủ Thiên Trường để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội.”[11;tr208]. Vua Anh Tông cũng là người biết sai mà sửa, ngay lập tức sai người soạn biểu tạ tội với phụ hoàng, song Thượng Hoàng Nhân Tông rất giận, không dễ gì bỏ qua, là người trải qua gian khổ chiến tranh mà thành đế nghiệp, được phụ hoàng là vua Trần Thánh Tông rèn dũa trong suốt những năm tháng ròng dã kháng chiến chống quân Nguyên Mông, hơn ai hết người hiểu rõ giá trị của sự giản dị, khiêm cung, sức mạnh của lòng dân, của ý dân. Trong những năm tháng bôn ba nam bắc, khi thua trận phải rút lui bảo toàn lực lượng, nếu không có muôn dân che chở, liều mình bảo vệ thì liệu vương triều Trần có còn tồn tại hay không, nay giang sơn vừa mới thái bình, chính sự bộn bề, muôn dân còn khó khăn, cực khổ mà lại có vị vua đêm uống rượu say quên đi trách nhiệm của người đứng đầu đất nước thì là điều không thể chấp nhận được. Thượng Hoàng trách phạt vua Anh Tông rất nghiêm khắc: “Trẫm còn có con khác cũng có thể nối ngôi được, Trẫm đang sống mà ngươi còn dám như thế, huống chi sau này” [11;tr209]. Lời trách mắng, răn đe của Thượng hoàng cũng là lời tuyên bố đanh thép, nếu người nối ngôi không xứng đáng, không tu đức, không chăm lo cho lợi ích của nhân dân thì dẫu có là vua cũng sẽ bị thay thế. Từ đó về sau, Vua Anh Tông kính cẩn sửa mình, chăm lo triều chính bỏ hết thói hư tật xấu và đặc biệt là không bao giờ uống rượu say, trễ nải công việc quốc sự nữa, trở thanh một vị minh quân của triều Trần. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

2.3. Những thành công và hạn chế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của triều Trần trên nền tảng tư tưởng trọng dân, thân dân

2.3.1. Những thành công

2.3.1.1. Xây dựng một vương triều có sự tồn tại lâu dài trong lịch sự

Thành công đầu tiên đáng ghi nhận của vương triều Trần đó chính là duy trì sự tồn tại của vương triều trong một thời gian dài gần 2 thế kỷ, thời gian này có thể chưa phải là thời gian trị vì lâu nhất của một triều đại song có thể khẳng định đây là giai đoạn lịch sử mà triều Trần đã đưa thế nước đi lên, đưa cả dân tộc hướng tới sự phát triển và khẳng định vị thế một cường quốc phong kiến ở khu vực Đông Nam Á. Trong khoảng thời gian 175 năm cầm quyền của họ Trần cũng là khoảng thời gian gần như không có những biến động hoặc suy thoái nghiêm trọng nào về chính trị và kinh tế trong nước. Sự tồn tại lâu dài đó phản ánh đường lối chính trị đúng đắn, sự ủng hộ hết lòng, niềm tin tưởng tuyệt đối của nhân dân vào chính quyền của họ Trần. Sự kiện Dương Nhật Lễ mưu đồ cướp ngôi nhà Trần diễn ra chỉ là sự ngắt quãng rất ngắn trong tiến trình phát triển của vương triều.

Tuy nhiên, đánh giá sự tồn tại của một vương triều nếu chỉ dừng ở việc xem xét thời gian cầm quyền một cách đơn thuần có lẽ sẽ không thấy hết được tầm vóc lịch sử và những đóng góp to lớn của triều Trần đối với sự phát triển của đất nước. Sự tồn tại của một vương triều dài hay ngắn còn ở việc vị trí, tầm ảnh hưởng của vương triều đó trong lòng dân, trong các thế hệ tương lai như thế nào. Sau khi nhà Trần mất ngôi vua, họ Hồ nắm quyền không được bao lâu thì đất nước rơi vào cảnh bị đô hộ dưới chế độ áp bức của giặc Minh, ngay lập tức những cuộc khởi nghĩa, những cuộc nổi dậy diễn ra rộng khắp và đầu tiên xuất hiện ở giới quý tộc họ Trần, những đại diện tiêu biểu như Trần Ngỗi, Trần Quý Khoáng và âm hưởng của các cuộc khởi nghĩa cho thấy trong lòng dân vị trí của họ Trần vẫn còn rất vững chắc, và ngay cả sau này, bao thế hệ người Việt Nam vẫn tự hào với hai chữ Đông A, hào khí dân tộc của một thuở:

  • “Chương Dương cướp giáo giặc
  • Hàm Tử bắt quân thù
  • Thái bình nên gắng sức
  • Non nước ấy nghìn thu”
  • (Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải)

2.3.1.2. Bảo vệ thành công lãnh thổ, sự độc lập và thống nhất của đất nước, dân tộc

Lịch sử các nhà nước phong kiến Việt Nam gắn liền với lịch sử của các cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Ở vào vị trí địa chính trị mang tính chiến lược của khu vực và thế giới, các nhà nước phong kiến Việt Nam luôn đứng trước vấn đề phải làm sao giữ vựng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trước sự xâm lược của các thế lực đế quốc hung mạnh. Bảo vệ tổ quốc không chỉ là vấn đề mang tính chính trị, quyết định sự tồn vong của cả dân tộc mà còn là vấn đề quản lý cấp thiết đòi hỏi nhà nước giải quyết và tùy vào tình hình trong nước và thế giới mà nhiệm vụ đó vào mỗi thời điểm với từng nhà nước khác nhau lại có cách xử lý khác nhau song phương pháp chung được lựa chọn thực hiện đó là tiến hành chiến tranh vệ quốc kết hợp đấu tranh ngoại giao. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Bảo vệ tổ quốc, bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ, sự độc lập của dân tộc là vấn đề quản lý bao trùm lên mọi vấn đề khác vừa mang tính đối nội vừa mang tính đối ngoại. Nhà Trần với một đường lối chính trị đúng đắn, với sự đoàn kết thống nhất trên dưới một lòng, với những chính sách quản lý phù hợp đã hoàn thành tốt nhiệm vụ lịch sử giao phó.

Đánh giá một sự kiện lịch sử, một vấn đề lịch sử không chỉ nhìn vào điều kiện thực tế của chủ thể mà còn cần có sự đánh giá khách quan, tổng quát hoàn cảnh lịch sử đương thời trên nhiều mặt, nhiều phương diện. Nhìn vào bối cảnh lịch sử thế giới những năm 1200 có thể thấy thử thách bảo vệ tổ quốc dành cho vương triều Trần lớn như thế nào, khi mà một loạt các quốc gia hung mạnh từ Á sang Âu bị đè bẹp dưới vó ngựa Mông cổ, hoặc bị đồng hóa, hoặc bị tiêu diệt hoàn toàn thì một quốc gia nhỏ bé như Đại Việt cũng không phải là ngoại lệ nếu mất cảnh giác, chủ quan. Song nếu lịch sử luôn đặt trên vai dân tộc Việt Nam nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc thì vương Triều Trần là một trong những lá cờ đầu, lá cờ tiêu biểu của dân tộc ta trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Về mặt đối nội, triều Trần đã quản lý tốt đất nước và xã hội, đoàn kết thống nhất toàn dân, củng cố khối đại đoàn kết vững chắc, tập hợp sức mạnh mọi tầng lớp nhân dân đánh thắng kẻ thù xâm lược, bảo vệ thành công sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Đại việt. Về mặt đối ngoại, khẳng định sức mạnh chính trị và quân sự của Đại Việt, khẳng định vị thế của một quốc gia nhỏ những không yếu, ngăn chặn sự bành trướng xuống Đông Nam Á của đế quốc Mông Nguyên, duy trì và thiết lập quan hệ ngoại giao trên cơ sở bình đẳng và hài hòa lợi ích giữa Đại Việt và nhà Nguyên.

Sau ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông triều Trần vẫn nhiều lần đối mặt với sự quấy nhiễu, yêu sách, thậm chí là xâm lấn của nhà Nguyên song bằng những biện pháp quản lý khéo léo, lúc mềm dẻo, lúc cứng rắn quyết liệt, triều Trần đã giữ vững được cương thổ quốc gia, buộc nhà Nguyên và các thế lực chính trị khác trong khu vực phải công nhận sự độc lập của nước ta, sẵn sàng sử dụng sức mạnh quân sự trước các biểu hiện gây hấn.

2.3.1.3. Kế thừa và phát huy cao độ tinh thần yêu nước và đoàn kết  dân tộc

Tinh thần yêu nước và truyền thống đoàn kết là hai sức mạnh, hai báu vật của dân tộc Việt Nam, với vai trò là chủ thể quản lý xã hội, định hướng sự phát triển của đất nước, mỗi nhà nước phải có chính sách và biện pháp quản lý phù hợp đề vừa kế thừa vừa phát huy yếu tố lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc và trong từng vấn đề quản lý cụ thể nhằm hướng tới cái đích chung là sự phát triển và ổn định của xã hội. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Trong quản lý và điều hành đất nước, triều Trần đã thực hiện rất tốt điều này, kế thừa thành quả của tiền nhân đi trước, triều Trần thực hiện cuộc chuyển giao quyền lực trong hòa bình, tránh đổ máu, từ đó kêu gọi được sự tham gia tích cực của các cựu thần nhà Lý và tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân. Phát huy tinh thần yêu nước của nhân dân, triều Trần kêu gọi toàn dân tham gia chống giặc, tuyên truyền, phổ biến các chính sách của nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân, thi hành chính sách trị dân chuộng khoan dung, nhân ái, coi trọng đời sống tín ngưỡng, tâm linh của nhân dân. Phát huy truyền thống đoàn kết, triều Trần trước hết là đoàn kết toàn bộ tôn thất, anh em, cha con trên dưới một lòng, đồng tâm nhất trí nói theo cách nói ngày nay của chúng ta là sự thống nhất của cả hệ thống chính trị, triều Trần thi hành các chính sách quản lý công bằng giữa các dân tộc, vùng miền, khen thưởng và xử phạt nghiêm minh kể cả đối với tôn thất hay thường dân, từ đó lại củng cố thêm nữa niềm tin của nhân dân đối với triều đình với nhà vua.

Tinh thần yêu nước và đoàn kết là hai yếu tố có mối quan hệ biện chứng với nhau, đã yêu nước, muốn yêu nước thì phải đoàn kết, phải gắn bó chặt chẽ giữa từng cá nhân trong cộng đồng, từng cộng đồng trong toàn xã hội, đoàn kết với nhau, cố kết chặt chẽ với nhau không có mục tiêu gì lớn lao và tốt đẹp hơn đó là để yêu nước và cũng chỉ có sự tồn vong của đất nước mới là lá cờ hiệu triệu con người ta đoàn kết với nhau một cách có hiệu quả nhất. Trên thế giới tinh thần yêu nước và đoàn kết là truyền thống của nhiều quốc gia, song đối với một quốc gia đa dân tộc với sự đa dạng về văn hóa, phong tục tập quán như Việt Nam thì có lẽ tinh thần đoàn kết đặc biệt hơn và mang tính sống còn. Tinh thần yêu nước và đoàn kết đã đưa dân tộc ta bước ra khỏi 1000 năm Bắc thuộc, tinh thần yêu nước và đoàn kết đã cùng dân tộc Việt Nam làm nên đại thắng Bạch Đằng lần thứ nhất năm 938, thì trong thời Đại Đông A tinh thần yêu nước và đoàn kết đã làm nên chiến thắng lẫy lừng trước đế quốc sừng sỏ nhất thế giới bấy giờ, bảo vệ tương lai của dân tộc Việt Nam sau này.

Tinh thần yêu nước và sự đoàn kết đã được triều Trần kế thừa, phát huy và truyền tải mạnh mẽ đến toàn dân, toàn quân, thể hiện sáng ngời qua ba lần đại thắng quân Mông Nguyên cũng như trong suốt 175 năm trị vì của vương triều.

2.3.1.4. Đạt được những thành tựu rực rỡ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội

Thành công của một nhà nước trong quản lý xã hội được đánh giá bằng những giá trị xã hội cụ thể trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Triều Trần với việc phát huy sức mạnh, vai trò của nhân dân trong các vấn đề trọng đại của đất nước, cũng như tôn trọng, coi trọng lợi ích của nhân dân đã đạt được những thành tựu to lớn và rực rỡ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội.

Về chính trị – hành chính, quân sự, ngoại giao, xây dựng nhà nước quân chủ trung ương tập quyền vững mạnh mang tính chất thân dân, duy trì sự ổn định lâu dài về mặt chính trị, chấm dứt tình trạng phân tranh, cát cứ cuối thời Lý, tổ chức bộ máy hành chính quy củ từ trung ương đến địa phương, lựa chọn bộ máy quan lại tuy mang nặng tính quý tộc song vẫn đảm bảo tài năng, phẩm chất. Triều Trần xây dựng được lực lượng quân đội mạnh và thiện chiến, gồm nhiều các binh chủng thủy bộ, có sức chiến đấu cao, tinh nhuệ và trung thành, quân đội được tổ chức khoa học và hợp lý thông qua chính sách “ngụ binh ư nông”, quân đội có tính cơ động cao thể hiện thông qua lực lượng gia binh, gia tướng. Về ngoại giao, thi hành chính sách ngoại giao quán triệt tư tưởng bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc là trên hết, vừa mềm dẻo vừa cương quyết, sử dụng linh hoạt hai mặt trận quân sự và ngoại giao, phía bắc chặn đứng âm mưu gây hấn và trả thù của nhà Nguyên, phía Tây và phía Nam khiến cho các nước khác phải thần phục. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Về kinh tế xã hội, triều Trần đã xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc trên cơ sở phát triển nông nghiệp, chăm lo sản xuất nông nghiệp và hệ thống đê điều, các loại hình kinh tế khác như thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng được phát triển, đẩy mạnh giao thương hai chiều bắc nam, đặc biệt là việc đưa hàng hóa xuống buôn bán, trao đổi ở phương nam, chăm lo sản xuất lương thực đảm bảo nhu cầu thiết yếu trong bối cảnh chiến tranh, phát triển hình thức kinh tế điền trang thái ấp, mở mang nhiều thương cảng, đồn điền, khai khẩn đất hoang, có chính sách phù hợp và hiệu quả để phục hồi sản xuất sau chiến tranh. Về xã hội thi hành chính sách pháp luật nghiêm minh nhưng không hà khắc, trên cơ sở sự thưởng phạt phân minh, rõ ràng, đề cao vai trò của nhân dân, nêu cao tư tưởng từ bi hỉ xả của nhà Phật, chính sự chuộng khoan dung, nhân ái, đoàn kết được nhân tâm, được nhân dân tin yêu. Các mâu thuẫn xã hội được giải quyết tốt, hạn chế tối đa sự chống đối, phản kháng cực đoan từ tầng lớp bình dân

Về văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, nhà Trần đã đạt được những thành tựu rực rỡ trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục, nghệ thuật. Dưới thời nhà Trần đạo Phật phát triển rực rỡ cả về lý luận cũng như các công trình kiến trúc, nghệ thuật. Giáo lý đạo Phật dưới thời nhà Trần vừa được tiếp thu, truyền bá vừa được sáng tạo với tư tưởng nhập thế, không xa rời thực tại, đạo với đời phải gắn liền với nhau, việc tu hành cũng là để giúp đời, giúp nước, nhà tu hành cũng là nhà chính trị, nhà yêu nước, tu hành những không xa rời, không chối bỏ thực tại. Một loạt các công trình kiến trúc Phật giáo, tượng Phật và tác phẩm nghệ thuật có giá trị như Chuông Quy Điền vạc Phổ Minh cũng ra đời trong thời gian này. Dù chuộng Phật giáo và tôn Phật giáo lên hàng quốc giáo song Nho giáo cũng bắt đầu được được truyền bá và có ảnh hưởng đến tầng lớp ưu tú trong xã hội, thông qua giáo dục và thi cử. Việc lựa chọn được những nhân tài xuất thân bình dân như Mạc Đĩnh Chi, Đoàn Nhữ Hài, Chu Văn An, Phạm Sư Mạnh …chứng tỏ triều Trần rất đề cao vai trò của giáo dục, việc tuyển chọn và lựa chọn nhân tài được diễn ra khách quan, công bằng, dần dần vượt qua giới hạn về xuất thân. Các loại hình nghệ thuật dân gian cũng được phát triển, lưu giữ và truyền bá rộng rãi.

2.3.2. Những hạn chế của vương triều Trần trong quản lý đất nước và xã hội Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Dù được đánh giá là một triều đại rất thành công trong lịch sử Việt Nam song vương triều Trần cũng không tránh khỏi những sai lầm, hạn chế trong quản lý đất nước và xã hội, những hạn chế sai lầm này một phần mang tính chủ quan, một phần do yếu tố khách quan mang tính quy luật.

2.3.2.1. Bộ máy chính quyền nhà nước mang tính dòng họ, khép kín

Để bảo vệ quyền lực tuyệt đối của nhà vua và của họ Trần, vương triều Trần thi hành chính sách hôn nhân nội tộc và xây dựng bộ máy quan lại quý tộc cấp cao chỉ mang họ Trần, vào giữa thời kỳ nhà Trần xu thế này có sự thay đổi với sự hình thành bộ máy quan liêu, tuy nhiên tính dòng họ vẫn còn rất rõ rệt. Nhà Trần giành được ngôi báu từ nhà Lý với tư cách là một thế lực ngoại thích tức là họ bên vợ của nhà vua, xuất phát từ nguyên nhân đó sau này họ Trần đã triệt để thi hành hôn nhân nội tộc không cho phép bất kỳ một dòng họ nào có khả năng uy hiếp ngai vàng và quyền lực của họ Trần, bên cạnh đó các chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền cũng được giao cho các thành viên trọng họ Trần. Trong buổi đầu thành lập vương triều, hôn nhân nội tộc và xây dựng bộ máy quan lại mang tính chất quý tộc dòng họ đã phát huy tác dụng rất lớn đoàn kết sức mạnh của cả dòng họ, cả vương triều trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc, xây dựng sự ổn định và vững mạnh của quốc gia, hiệu triệu lòng dân cả nước dưới lá cờ cứu quốc. Tuy nhiên về lâu dài, chính sách này đã bộc lộ nhiều hạn chế, làm cản trở sự phát triển của triều Trần và của cả đất nước.

Thứ nhất, hôn nhân nội tộc về mặt khoa học là đi ngược lại quy luật tiến hóa, làm thoái hóa giống nòi, minh chứng cho việc này là các vua Trần về sau có sức khỏe kém và tuổi thọ rất ngắn. Điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến dự suy vong của triều Trần.

Thứ hai, càng xây dựng bộ máy chính quyền có tính chất dòng họ bao nhiêu, càng cố gắng loại bỏ sự ảnh hưởng của các dòng họ khác bao nhiêu thì càng làm dấy lên ham muốn tranh quyền đoạt vị, càng khiến cho các thế lực chính trị khác khao khát giành quyền lực bấy nhiêu. Chế độ quan lại và chính quyền mang tính dòng họ của họ Trần mang nhiều nét của một chính quyền độc tài, cấn cân quyền lực không có đối trọng do đó quyền lực rất dẽ tha hóa và khi tha hóa thì sẽ gây hậu quả rất nghiêm trọng. Họ Trần cố gắng ngăn cản một thế lực chính trị mới, một thế lực ngoại thích có đủ sức ảnh hưởng để đe dọa vương quyền song lại bị chính thế lực ngoại thích sau này là họ Hồ lật đổ, từ đó có thể thấy, hôn nhân nội tộc không thể là con đường để giữ cho vương triều tồn tại lâu dài. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Thứ ba, bộ máy quan lại mang tính chất quý tộc dòng họ làm hạn chế việc sử dụng nhân tài, tuyển dụng, bổ nhiệm những quan lại, tướng lĩnh thực sự có tài năng. Năng lực, trình độ, phẩm chất của một con người không phụ thuộc vào thành phần xuất thân của người đó, nếu sử dụng, tuyển dụng bổ nhiệm quan lại, sắc phong tước vị chỉ dựa trên thành phần xuất thân thì rất dễ bỏ quan nhân tài. Khi thực hiện xây dựng một bộ máy chính quyền mà đại đa số là quý tộc của một dòng họ vô tình đã làm hẹp phạm vi tuyển dụng và sử dụng người tài, về sau triều Trần đã tuyển dụng, dử dụng được một số nhân tài có xuất thân bình dân, tuy nhiên con số đó vẫn còn rất nhỏ bé.

2.3.2.2. Xây dựng cơ sở kinh tế dựa trên mô hình thái ấp, điền trang làm giảm năng lực sản xuất toàn xã hội

Thái ấp điền trang là một hình thức đặc quyền, đặc lợi về ruộng đất giành cho tầng lớp quý tộc họ Trần, thái ấp điền trang là hai khái niệm khác nhau, thái ấp là ruộng đất công thuộc sở hữu của nhà nước được ban cho các đại thần có công lớn có quyền khai thác, sử dụng, không có quyền sở hữu, điền trang là ruộng đất do các quý tộc vương hầu tập hợp dân phiêu tán khai khẩn và lập nên và thuộc sở hữu tư nhân. Ở thời kỳ thịnh trị của triều Trần ruộng đất thái ấp điền trang rất phát triển, các vương hầu quý tộc đua nhau mở rộng diện tích thái ấp, điền trang, củng cố tiềm lực kinh tế và sự giàu có của mình. Trong phạm vi thái ấp, điền trang các vương hầu, quý tộc có toàn quyền thu tô, các hoa lợi từ sản xuất nông nghiệp, sử dụng lực lượng lao động chủ yếu là nô tỳ, đi liền với mô hình thái ấp điền trang là việc sở hữu binh lực riêng của từng quý tộc, lực lượng gia binh, gia tướng rất đông đảo. Triều Trần trong quá trình tồn tại và phát triển của mình trải qua rất nhiều biến cố của lịch sử, đã có giai đoạn mô hình kinh tế thái ấp điền trang đã phát huy rất lớn hiệu quả trong việc động viên tinh thần tướng lĩnh, phát huy cao độ tính độc lập, linh hoạt trong sản xuất nông nghiệp vào thời chiến, cũng như giúp các quý tộc chủ động lực lượng quân sự tham gia kháng chiến chống ngoại xâm, song sau khi đất nước hòa bình thì mô hình kinh tế thái ấp điền trang lại bộc lộ nhiều hạn chế như:

Về kinh tế, việc ruộng đất tập trung quá nhiều trong tay quý tộc đã làm thu hẹp diện tích sản xuất chung của toàn xã hội, thành phần lao động trong các thái ấp điền trang chủ yếu là nông nô, những người mất hoàn toàn quyền làm chủ bản thân và không có tài sản, từ đó đã đẩy nhanh hơn mâu thuẫn xã hội, và cung chính mâu thuẫn này sau đó đã làm tan rã chế độ thái ấp điền trang.

Với đặc trưng của một chính quyền mang tính dòng họ, các quý tộc họ Trần cũng đồng thời là những người giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền, với mô hình điền trang, quan lại quý tộc đã tham gia làm kinh tế, giữa hai nhiệm vụ chính trị và kinh tế không thể cùng lúc đảm nhiệm cả hai và hoàn thành tốt cả hai. Sở hữu ruộng đất, có cuộc sống sung túc đầy đủ, vương hầu, quý tộc và tướng lĩnh dễ xa vào con đường ăn chơi, hưởng thụ, chểnh mảng việc nước. Trong tác phẩm Hịch Tướng Sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có đoạn: “… Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường để đãi yến ngụy sứ mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon, có kẻ mê giọng nhảm….”. Qua đó có thể thấy điền trang thái ấp đã vượt ra ngoài khuôn khổ vấn đề kinh tế thuần túy trở thành một nguy cơ lớn về mặt chính trị nếu thiếu sự quản lý, kiểm soát, và thực tế đã có những biểu hiện lơ là việc nước, bỏ bê chính sự vì tập trung vun vén lợi ích cá nhân.

Thái ấp điền trang là nguy cơ lớn uy hiếp trực tiếp đến việc xây dựng chính quyền trung ương tập quyền. Các vấn đề kinh tế và chính trị luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chi phối lẫn nhau, kinh tế quyết định chính trị và trở lại chính trị có tác động tới kinh tế, đây là mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Với việc sở hữu tư nhân về ruộng đất, các quý tộc, vương hầu hoàn toàn có thể tự chủ về kinh tế, có phạm vi lãnh thổ nhất định, từ đó lại có quyền tập hợp, nuôi dưỡng, huấn luyện lực lượng quân sự riêng, nếu cộng thêm tham vọng chính trị rất có thể sẽ diễn ra tình trạng cát cứ phân tranh, thoát li khỏi sự quản lý và quyền lực của nhà vua. Dù cho dưới thời nhà Trần chưa xảy ra hiện tượng dấy binh làm phản cướp ngôi nhưng về lâu dài đây là một vấn đề rất nghiêm trọng. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

2.3.2.3. Những sai lầm trong chính sách dùng người

Những sai lầm trong chính sách dùng người chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của vương triều Trần. Bởi một triều đại dù có những đóng góp lớn lao đến bao nhiêu cho sự phát triển của quốc gia, dù có lập nên những trang sử vẻ vang chói lọi nhường nào thì cũng không thể tránh khỏi quy luật vận động của xã hội, đã tồn tại tất có phát triển, có phát triển tất có tàn lụi và suy vong, suy rộng ra đây là quy luật chung của cả giới tự nhiên và xã hội loài ngoài. Triều Trần cũng không nằm ngoài quy luật đó, tuy nhiên có những sai lầm, yếu kém xuất phát từ chính vương triều đã đẩy quy luật này diễn ra nhanh hơn, đây có thể nói là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của vương triều Trần, một trong số đó đến từ sai lầm trong chính sách dùng người của triều Trần. Cụ thể:

Ngay từ thời vua Minh Tông đã có dấu hiệu của việc chia bè, kết phái trong chính hoàng tộc họ Trần, việc vua tin lời gièm pha của Trần Khắc Chung dẫn đến cái chết oan uổng của Trần Quốc Chẩn là bố vợ của vua, tiếp sau đó là âm mưu tạo phản của Bảo Uy Vương. Những sự kiện trên tuy nhanh chóng qua đi những đã làm dấy lên mối hiểm họa về những kẻ nịnh thần, luôn ở bên cạnh nhà vua dùng lời lẽ gian dối, thị phi, cốt mưu cầu lợi ích riêng. Đến đời vua Dụ Tông, nhà vua tin dùng bọn nịnh thần, thích hưởng lạc, ham vui dần dần bỏ bê chính sự. Sự kiện làm cho vương triều Trần thật sự chao đảo là vua Dụ Tông truyền ngôi cho con nuôi của anh trai là Dương Nhật Lễ đã cho thấy sai lầm nghiêm trọng trong việc lựa chọn người kế vị, Dương Nhật Lễ đã định đổi họ về họ Dương, nhà Trần trong gang tấc đánh mất vương quyền.

Sau khi Trần Nghệ Tông giành lại ngôi báu cho họ Trần, những tưởng từ đây một thời kỳ trung hung mới được mở ra, nhưng đây lại là dấu mốc cho sự sụp đổ, suy vong của triều Trần với những sai lầm trong dùng người. Sau khi lên ngôi, chỉ làm vua hai năm Trần Nghệ Tông nhường ngôi cho em trai và lui về làm thượng hoàng (thực chất Nghệ Tông vẫn là người nắm mọi quyền hành) nhưng là người thiếu quyết đoán, không có chủ kiến, thiếu mưu lược nên chính sự triều Trần càng ngày càng trở nên bất ổn, từ những khó khăn trong và ngoài nước, trước áp lực lớn từ việc phải vực lại vương triều, chấn chỉnh kỷ cương phép nước, một xu hướng tâm lý rất tự nhiên là tìm kiếm và lựa chọn người có đủ tài năng, phẩm chất để hỗ trợ nhà vua trong việc nước. Trong số vô vàn quần thần kể cả nội tộc cũng như ngoại tộc, Nghệ Tông đã lựa chọn một người mà sau này đã đánh dấu chấm hết cho vương triều Trần, đó là Hồ Quý Ly.

Sai lầm đầu tiên trong việc sử dụng Hồ Quý Ly đó là Hồ Quý Ly không có tài năng về chính trị và quân sự. Cụ thể là trong các cuộc giao tranh với Chiêm Thành, cùng vua Duệ Tông nam chinh Hồ Quý Ly đa phần là thất bại, song nhờ có quan hệ họ hàng bên ngoại với vua Nghệ Tông lại khéo che đậy nên Hồ Quý Ly thoát tội và nhanh chóng thăng tiến trên con đường quan lộ.

Sử dụng một người không có đủ tài năng trong lĩnh vực được giao chẳng những gây nên những hậu quả nghiêm trọng mà còn làm dấy lên sự bất bình, bất mãn từ phía những quan lại, vương hầu những người có đủ tài năng nhưng không được xem trọng, điều này về lâu về dài là một mối họa. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

Về mặt phẩm chất đạo đức, Hồ Quý Ly là người rất tham vọng và nhiều dã tâm chính trị. Từ rất sớm, với nhãn quan nhanh nhạy của mình, Hồ Quý Ly đã nhận ra Nghệ Tông lúc đó là Cung Định Vương thực sự là một con rối hoàn hảo trên bàn cờ chính trị, một người dễ bị thao túng, che mắt, một ông vua nhưng không thích làm vua. Chính vì vậy, Hồ Quý Ly đã tham gia ủng hộ Cung Định Vương lên ngôi báu, thực hiện cuộc phản đảo chính giành lại ngai vàng cho họ Trần. Kể từ đây, Trần Nghệ Tông với sự ngây thơ về chính trị đã hết lòng tin dùng Hồ Quý Ly, mọi chủ trương, chính sách, kế sách trị nước Nghệ Tông đều nghe theo, bàn bạc, tham vấn ý kiến của Hồ Quý Ly, thậm chí cả việc phế lập vua, chọn người kế thừa ngai vàng. Hồ Quý Ly có thể nói là một tay che trời, dưới một người trên vạn người. Lợi dụng vào sự tin yêu của thượng hoàng Nghệ Tông, Hồ Quy Ly ra sức củng cố quyền lực, cấu kết kéo bè phái, thẳng tay đàn áp người chống đối dù đó có là vua Trần (Trần Phế Đế). Đối với thượng hoàng Nghệ Tông, cho đến lúc mất, Quý Ly vẫn đóng trọn vai bầy tôi trung thành và để Nghệ Tông đưa ra quyết định sai lầm cuối cùng của đời mình đó là trao cả triều Trần, ủy thác cho Hồ Quý Ly giúp vua. Năm 1400, Hồ Quý Ly ép Thiếu Đế nhường ngôi, lên ngôi vua lấy niên hiệu là Thánh Nguyên lập ra nhà Hồ, triều Trần chính thức sụp đổ từ đây.

Tiểu kết chương 2

Trong 175 năm trị vì, vương triều Trần đã cùng với quân và dân Đại Việt lập nên một chiến công lừng lẫy chưa từng có trong lịch sử: Ba lần chiến thắng đế chế Mông Nguyên hùng mạnh. Sau khi đất nước hòa bình, với sự sáng suốt, với tấm lòng yêu nước, thương dân các vua Trần cùng toàn thể triều đình lại bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực, để lại kho tàng đồ sộ về khoa học, giáo dục, văn hóa, chính trị và quân sự.

Để có được những thành công to lớn đó, yếu tố đầu tiên mang tính quyết định đó chính là lòng dân. Triều Trần với đường lối chính trị đúng đắn đã phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân, làm nổi bật vai trò của nhân dân đối với vận mệnh của đất nước, đoàn kết toàn dân dưới ngọn cờ yêu nước. Trong mọi tình thế hiểm nghèo, triều đình nhà Trần luôn đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên trên hết, coi trọng sức dân, ý dân, biết lắng nghe và thuận theo lòng dân. Chính sự ủng hộ nhiệt thành của nhân dân đã giúp vương triều Trần đưa đất nước thoát khỏi hiểm nguy, khẳng định sức mạnh và tầm vóc của dân tộc Việt Nam.

Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, người dân có quyền quyết định vận mệnh của bản thân mình và vận mệnh của toàn dân tộc một cách chính thức và công khai. Không thể khẳng định dưới thời đại nhà Trần đã xác lập quyền làm chủ của nhân dân nhưng có thể khẳng định nhà Trần đã ý thức được vai trò và quyền của nhân dân đối với vận mệnh đất nước, đối với các vấn đề quản lý nhà nước. Trong thời đại của chúng ta ngày nay, có thể tìm được điểm chung lớn nhất đối với thời kỳ nhà Trần đó là mọi vấn đề quản lý, mọi phương pháp quản lý, mọi chủ trương, chính sách đều xuất phát từ quyền lợi của nhân dân và đều hướng đến nhân dân, phân tích thấu đáo tư tưởng trọng dân, thân dân của triều Trần và thành quả đối với công cuộc xây dựng, quản lý đất nước là cơ sở quan trọng để tổng kết những bài học kinh nghiệm trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với công tác quản lý nhà nước hiện nay. Luận văn: Thực trạng quyền làm chủ của nhân dân QL nhà nước.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Luận văn: Giải pháp quyền làm chủ của nhân dân về nhà nước

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0972114537