Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chữ ký điện tử trong hợp đồng thương mại dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
3.1. Các đề xuất hoàn thiện pháp luật về chữ ký điện tử trong hợp đồng thương mại
3.1.1. Đề xuất hoàn thiện các quy phạm pháp luật quy định về chữ ký điện tử tại Việt Nam
Đứng trước thực trạng khó khăn của các Doanh nghiệp khi áp dụng Chữ ký điện tử, chúng ta cần những ý tưởng cụ thể, có tính thiết thực nhất nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc đó một cách nhanh chóng và chỉn chu nhất, đặc biệt trong bối cảnh giao dịch Thương mại điện tử đang theo đà phát triển vượt bậc và rất cần được các ban ngành, tổ chức và Doanh nghiệp chung tay góp sức. Qua các nghiên cứu tác giả thấy có thể đề xuất những kiến nghị sau đây nhằm hoàn thiện các Quy phạm pháp luật liên quan đến Chữ ký điện tử ở Việt Nam, cụ thể là:
Thứ nhất, cần phải có một hành lang pháp lý đầy đủ phân định rõ ràng trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia Thương mại điện tử ở tất cả các công đoạn của giao dịch thương mại mà tính an toàn hay độ tin cậy bị đe dọa ở các thiết bị điện tử như máy trạm, máy chủ, đường truyền… Mặt khác, pháp luật cũng cần có quy định về nhận thức của các chủ thể tham gia giao dịch phải tự bảo vệ mình bằng các biện pháp kỹ thuật dựa trên các quy định của pháp luật. Ở Luật Giao dịch điện tử 2005 chưa có quá nhiều quy định về việc chủ thể sử dụng các biện pháp nào để bảo vệ mức độ an toàn của Chữ ký điện tử, chỉ mới quy định ở một số điều luật ở Chương 6 (an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử) và Chương 7 (giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm), do đó có thể bị lọt những hành vi vi phạm liên quan đến Chữ ký điện tử như giả mạo chữ ký, giả mạo tổ chức chứng thực hay các hacker thâm nhập phá hỏng hệ thống máy chủ. Vẫn còn hai bất cập lớn về chính sách và triển khai chính sách gây hạn chế hiệu quả quản lý nhà nước ở Việt Nam. Một là, việc thiếu một khung pháp lý hợp nhất về công nghệ số dẫn đến ban hành quy định còn khá manh mún, điều này ảnh hưởng đến khả năng ban hành các quyết định kịp thời và có căn cứ của chính quyền các cấp nhất là trong lĩnh vực Chữ ký điện tử. Hai là, khung thể chế về chuyển đổi số còn khá cồng kềnh. Mặc dù Chính phủ đã tăng cường Ủy ban Quốc gia về Chính phủ số và Kinh tế số cuối năm 2019, tuy nhiên ở khâu vận hành những nhiệm vụ lớn trong kế hoạch chuyển đổi số bị dàn trải ít nhất bảy Bộ, ngành khiến cho công tác phối hợp và triển khai chính sách gặp nhiều khó khăn thách thức. Mô hình này khiến cho việc nhiều hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia quan trọng như đất đai, công dân, Doanh nghiệp và dân sự lại được thu thập và quản lý ở nhiều cơ quan khác nhau.
Thứ hai, cần bổ sung một số chế tài đủ mạnh, ví dụ như bên cạnh việc xử lý hành chính một số hành vi vi phạm cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các nhóm tội danh quy định tại Mục 2 tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông trong Bộ luật hình sự 2015. Chính phủ Việt Nam đạt kết quả chưa đồng đều trong nỗ lực bảo mật thông tin của người dân. Kết quả an ninh mạng tương đối tốt nhưng lại chưa bằng các quốc gia khác trong các chỉ tiêu về bảo mật dữ liệu cá nhân và kiểm duyệt nội dung trên mạng xã hội. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ đem lại cho người dân nhiều cách tiếp cận và chia sẻ thông tin trên internet, nhưng cũng tạo điều kiện cho các cuộc tấn công tinh vi hơn vào an ninh mạng và dữ liệu cá nhân. Thách thức của Chính phủ là phải cân đối vừa cho phép người dùng có thể tiếp cận thông tin đồng thời vẫn bảo vệ người dùng trên các không gian số. Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.
Thứ ba, để xác định được độ tin cậy của Chữ ký điện tử, pháp luật cũng cần quy định thêm một số cơ quan trung gian có thẩm quyền chứng thực tính xác thực và đảm bảo độ tin cậy của Chữ ký điện tử. Tính hợp pháp trong Thương mại điện tử còn đòi hỏi ở việc phải đảm bảo tính bảo mật và tôn trọng các quyền riêng tư. Cá nhân được quyền đảm bảo bí mật các thông tin về đời tư, nhất là khi thực hiện các giao dịch Thương mại điện tử quan trọng, đặc biệt đối với việc ký kết các Hợp đồng thương mại có giá trị lớn. Mới đây nhất Nghị định 13/2023/NĐ-CP về bảo vệ dữ liệu cá nhân đã được Chính phủ kịp thời ban hành quy định khá đầy đủ các nội dung về chủ thể dữ liệu, các biện pháp bảo vệ thông tin cá nhân và trách nhiệm bảo vệ dữ liệu cá nhân của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan. Đây là sự nỗ lực đáng ghi nhận của Chính phủ nước ta trong việc nâng cao ý thức của các tổ chức Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Thương mại điện tử và ngăn chặn những đối tượng xấu có ý đồ thực hiện các hành vi lừa đảo giả mạo trên môi trường mạng.
Thứ tư, cần nghiên cứu ban hành chế tài đối với hành vi “Gian lận thương mại điện tử” khi phát hiện ra nhiều đường dây, tổ chức, cá nhân có hoạt động thu thập, mua bán dữ liệu cá nhân trái phép. Những dữ liệu này bao gồm cả các dữ liệu về Chữ ký điện tử của các Doanh nghiệp tổ chức bị giả mạo, chiếm đoạt và gây mất an toàn đối với công tác chứng thực Chữ ký điện tử. Hoạt động này diễn ra phổ biến, đặt ra thách thức đối với an ninh dữ liệu quốc gia, uy tín của Doanh nghiệp, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân phá đường dây có hoạt động mua bán dữ liệu cá nhân với tính chất, mức độ và số lượng lớn. Trên thực tế theo chỉ số An ninh mạng toàn cầu, Việt Nam có mức độ bảo vệ khá tốt, với thứ hạng 25 trên 194 quốc gia và vùng lãnh thổ, đứng thứ tư trong khối ASEAN và đứng thứ bảy trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Việt Nam đã ban hành Luật An ninh mạng có hiệu lực từ ngày 01/01/2019 yêu cầu các Doanh nghiệp phải hợp tác và tuân thủ pháp luật khi hoạt động ở Việt Nam. Đồng thời theo Luật An ninh mạng các công ty công nghệ thông tin phải lưu trữ dữ liệu về người dùng Việt Nam tại các máy chủ đặt trong nước. Tuy vậy, quy định này gây tốn kém cho các Doanh nghiệp và có thể biến thị trường Việt Nam thành điểm đến đầu tư kém hấp dẫn hơn.
Thứ năm, cần xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về Chữ ký điện tử quốc gia, phối hợp với các nước ASEAN tiếp tục đưa ra các sáng kiến bổ sung về phát triển công nghệ thông tin – truyền thông, logistics, kết nối các thủ tục hải quan, xây dựng tiêu chuẩn các loại hoá đơn để hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho sự phát triển của Chữ ký điện tử trong khu vực như Kế hoạch tổng thể về Công nghệ thông tin – truyền thông của ASEAN (AIM) 2015 và AIM 2020, Lộ trình hội nhập ngành logistics ASEAN (RILS)…Với ASEAN việc thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế số ước tính có thể giúp GDP các nước trong khu vực tăng thêm khoảng 1.000 tỉ USD trong vòng 10 năm tới, nên nhiều nước đang rất quan tâm và đã tiến hành xây dựng các giải pháp, thiết lập các cơ quan hỗ trợ phát triển như Malaysia đặt mục tiêu là giá trị của nền kinh tế số sẽ chiếm 17% tỷ trọng của nền kinh tế hay Singapore với khẩu hiệu Quốc gia thông minh (Smart Nation) chủ trương lấy công nghệ làm cốt lõi…
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
3.1.2. Các đề xuất hoàn thiện về tổ chức thực hiện áp dụng cho chữ ký điện tử trong hợp đồng thương mại Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.
Thứ nhất, tăng cường năng lực và hiệu quả công tác của cơ quan quản lý nhà nước về Thương mại điện tử cho phù hợp với yêu cầu thực tế. Cho đến nay về lĩnh vực Thương mại điện tử ở nước ta đang được quản lý chủ yếu ở Cục Thương mại điện tử và kinh tế số, tuy nhiên thông tin trên các website hay phương tiện liên lạc còn khá ít và không hỗ trợ nhiều cho các Doanh nghiệp tại Việt Nam. Do đó rất cần sự trao đổi, liên lạc giữa các Doanh nghiệp với cơ quan nhà nước nhiều hơn nữa nhằm có thể kịp thời giải quyết những vấn đề khúc mắc, khó khăn trong việc áp dụng Chữ ký điện tử đối với các Hợp đồng thương mại tại Việt Nam. Một trong những đề xuất có thể xem xét tới đó là việc xây dựng hoặc sáp nhập các cơ quan quản lý kinh tế số nằm rải rác ở các bộ, ban, ngành để hình thành một cơ quan mới chịu trách nhiệm chung về phát triển kinh tế số cũng như Chữ ký điện tử ở Việt Nam. Theo kinh nghiệm quốc tế của Malaysia, việc thành lập một cơ quan chịu trách nhiệm chung về phát triển kinh tế số là cần thiết. Trong khi đó, tại Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông có liên quan nhiều nhất đến phát triển kinh tế số nhưng lại chủ yếu tập trung vào lĩnh vực mình phụ trách trong khi các cơ quan chức năng khác lại nằm rải rác ở các bộ, ban, ngành khác nhau. Điều này khiến cho hiệu quả triển khai chính sách và quản lý không cao và gây chồng chéo chức năng, nhiệm vụ quản lý. Nói cách khác, sự không đồng bộ trong quản lý nhà nước vừa cản trở vừa tạo các lỗ hổng về pháp lý trong quản lý các hoạt động kinh tế số cũng như pháp luật về Chữ ký điện tử ở nước ta.
Thứ hai, thúc đẩy việc sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp trực tuyến (Online Dispute Resolution, viết tắt là ODR). Đây được coi là một giải pháp hữu ích, tạo thuận lợi cho các bên tranh chấp giải quyết nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của Thương mại điện tử ở Việt Nam. Đồng thời tiếp tục nâng cấp hạ tầng số, đặc biệt là hạ tầng 5G nhằm bắt kịp xu hướng của thế giới. Công nghệ số luôn thay đổi, do đó kinh tế số luôn mở rộng hoặc hình thành các thành phần mới. Trên thế giới hiện nay, bên cạnh các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, 5G cũng được coi như một xu hướng mới mà nhiều nước phát triển đang theo đuổi như Mỹ, Trung Quốc, Canada… Do đó, để bắt kịp các nước đi trước, Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn nữa để nâng cấp hạ tầng truyền thông, trong đó có hạ tầng 5G để tạo nền tảng cho việc phát triển công nghệ số mới cũng như giúp các bên có thể dễ dàng áp dụng Chữ ký điện tử trong giao kết hợp đồng Thương mại điện tử được vận hành trên hạ tầng này. Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.
Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế về Thương mại điện tử và các lĩnh vực liên quan.
Việc học hỏi kinh nghiệm của các nước trong lĩnh vực này là điều cần thiết cho Việt Nam bắt kịp với sự phát triển của thế giới, đáp ứng các yêu cầu hội nhập liên quan đến lĩnh vực pháp luật về Chữ ký điện tử. Chính phủ có thể xem xét việc thúc đẩy, hỗ trợ và bảo hộ các doanh nghiệp số nội địa trước các gã khổng lồ công nghệ nước ngoài để tiến tới trở thành các kỳ lân công nghệ dẫn dắt thị trường trong nước. Trung Quốc là một trường hợp tiêu biểu cho sự thành công trong bảo hộ các doanh nghiệp số nội địa. Là một quốc gia đi sau, việc đóng cửa thị trường tỷ dân với thế giới bên ngoài, hậu thuẫn cho doanh nghiệp nội địa sao chép công nghệ và mô hình để chiếm lĩnh thị trường trong nước đã giúp cho các doanh nghiệp số ở Trung Quốc lớn mạnh và nhanh chóng trở thành các gã khổng lồ về công nghệ. Vì vậy, một số kinh nghiệm từ Trung Quốc có thể giúp chúng ta tìm ra hướng phát triển kinh tế bền vững trong lĩnh vực thương mại điện tử.
Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm trong lĩnh vực Thương mại điện tử. Các hoạt động này cần phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục và nghiêm túc.
Ngoài ra, mức phạt ở trong các Nghị định liên quan đến việc sử dụng Chữ ký điện tử cũng chưa được nhiều sự quan tâm, cụ thể là để xử lý vi phạm trong lĩnh vực Thương mại điện tử, ngày 15/11/2013 Chính phủ ban hành Nghị định số 185/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ nguời tiêu dùng nhưng chưa có điều luật rõ ràng về việc xử phạm đối với những Hợp đồng thương mại được ký kết bằng Chữ ký điện tử mà ta chỉ có thể dựa vào một điều luật ở điểm c khoản 3 Điều Nghị định 185/2013/NĐ-CP là “Giả mạo thông tin của thương nhân, tổ chức, cá nhân khác để tham gia hoạt động thương mại điện tử” để xử lý với mức xử phạt cũng không quá cao từ 20 đến 30 triệu đồng. Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.
Trong khi đó những thiệt hại gây ra do việc giả mạo Chữ ký điện tử nói riêng hay hoạt động Thương mại điện tử nói chung có thể gây thiệt hại rất lớn đến Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nếu như họ giao kết Hợp đồng thương mại với giá trị lớn lên đến hàng tỉ đồng.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác bảo vệ quyền lợi cá nhân, tổ chức sử dụng Chữ ký điện tử trong quan hệ Thương mại điện tử ở Việt Nam. Tại khoản 3 Điều 25 Luật Giao dịch điện tử 2005 có quy định người ký Chữ ký điện tử phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hậu quả do không tuân thủ các nghĩa vụ tại khoản 2 Điều 25, nhưng trong những trường hợp Chữ ký điện tử bị giả mạo do các yếu tố khách quan bất khả kháng như đường truyền, hacker… khiến họ mất quyền kiểm soát Chữ ký điện tử thì rất khó quy trách nhiệm cho họ vì chính Doanh nghiệp tổ chức cũng là người bị hại. Chính vì vậy, rất cần những quy định chế tài cụ thể hơn thông qua các văn bản dưới luật như thông tư nghị định về Chữ ký điện tử nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các Doanh nghiệp Việt Nam.
Bên cạnh đó, tính sẵn có và sử dụng hệ thống thanh toán điện tử được cải thiện rất quan trọng để tạo thuận lợi cho Thương mại điện tử. Chính phủ cần thúc đẩy một môi trường pháp lý có lợi cho các khoản thanh toán trực tuyến và phát triển các hình thức thanh toán phù hợp. Điều này cho phép người tiêu dùng và những người mua khác cảm thấy tự tin và an toàn khi thực hiện các giao dịch trực tuyến và nhà cung cấp có thể được đảm bảo thanh toán cho việc giao sản phẩm và dịch vụ của họ thông qua phương tiện Chữ ký điện tử.
3.2. Kiến nghị nhằm phát triển chữ ký điện tử trong hợp đồng thương mại tại Việt Nam Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.
Nhìn vào thành quả của các nước phát triển trên thế giới, có thể nói, triển khai Chính phủ điện tử là xu hướng tất yếu, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của Chính phủ, đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh, năng suất lao động và là con đường để xây dựng phồn vinh cho dân tộc. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành chương trình chuyển đổi số quốc gia. Theo đó, mục tiêu là Việt Nam sớm trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới, đi liền với việc đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp và phương thức sống, làm việc của người dân, hướng tới phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp. Với tinh thần như vậy, ngày 15/06/2021 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 942/QĐ –TTg Phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030. Đây được coi là định hướng cụ thể để triển khai các nhiệm vụ xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới nền kinh tế số, xã hội số trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu. Theo đó, một số kiến nghị để nâng cao chất lượng Chữ ký điện tử dựa trên các chủ trương chiến lược của Đảng và Chính phủ từ nay cho đến năm 2030 có thể được kể đến như:
Một là, đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện cho việc triển khai, xây dựng phát triển Chính phủ điện tử
Theo kinh nghiệm các quốc gia phát triển mạnh về Chữ ký điện tử, thì nền tảng là thể chế Chính phủ điện tử phải đi trước, trong khi pháp luật nước ta còn thiếu nhiều quy định và chính sách. Do vậy, từ nay đến 2030 cần nghiêm túc nghiên cứu việc ban hành thêm các Nghị định về chia sẻ dữ liệu và xác thực điện tử, bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo đảm quyền riêng tư của cá nhân hay chế độ báo cáo giữa các cơ quan hành chính Nhà nước…
Mặc dù đã có tiến bộ trong thập kỷ vừa qua, nhưng những khoảng trống đáng kể trong phạm vi điều tiết của pháp luật về mạng điện tử vẫn còn ở nhiều nơi trên thế giới trong đó có cả Việt Nam. Để tạo thuận lợi cho việc phổ biến Chữ ký điện tử trên nền tảng Thương mại điện tử xuyên biên giới, điều quan trọng là luật pháp quốc gia của mỗi nước trong các lĩnh vực Chữ ký điện tử, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ dữ liệu và bảo mật cần tương thích với luật của các đối tác thương mại. Việc điều chỉnh các luật như vậy phù hợp với các công cụ pháp lý cũng là điều nên thực hiện.
Ở một số quốc gia trong những năm gần đây còn ban hành thêm Luật về Internet hay được gọi một cái tên là Luật Cyber Law (Tạm dịch là Luật Không gian mạng) bao gồm các quy định pháp lý áp dụng cho Internet và các công nghệ liên quan có sử dụng Internet. Trên thực tế, Cyber Law cung cấp sự bảo hộ về mặt pháp lý cho những người sử dụng Internet bao gồm cả những Doanh nghiệp kinh doanh và cá nhân có liên quan đến việc sử dụng Internet, liên quan đến việc truy cập và sử dụng Internet, quyền riêng tư, quyền tự do ngôn luận, quyền tài phán… trong đó Chữ ký điện tử cũng là một đối tượng được điều chỉnh. Trong tương lai, việc nghiên cứu và ban hành một đạo luật tương tự như Cyber Law cần được lưu tâm nhằm tạo ra những nền tảng cơ sở pháp lý có thể bắt kịp với làn sóng Cách mạng Công nghiệp 4.0 và Thương mại điện tử ngày càng phát triển và chiếm tỉ trọng đáng kể trong bức tranh nền kinh tế ở nước ta. Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.
Hai là, hoàn thành các cơ sở dữ liệu quốc gia mang tính chất nền tảng
Song song với việc xây dựng các thể chế, cần tập trung hoàn thiện xây dựng các cơ sở dữ liệu nền tảng quốc gia, đặc biệt là cơ sở dữ liệu quốc gia về Doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh các ngành nghề… nhằm bảo đảm dữ liệu, thông tin được thông suốt, làm căn cứ để các Doanh nghiệp có thể yên tâm áp dụng Chữ ký điện tử khi giao kết các Hợp đồng thương mại với nhau. Đồng thời, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, cũng như các hiệp hội doanh nghiệp, nhằm nâng cao nhận thức của doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, về ích lợi của việc sử dụng Chữ ký điện tử trên nền tảng đám mây nhằm giảm thiểu nhiều chi phí có thể phát sinh.
Theo báo cáo mới nhất của tạp chí nghiên cứu e – Conomy SEA 2022 do Google, Temasek và Bain & Company công bố, nền kinh tế kỹ thuật số của 6 quốc gia gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam dự kiến sẽ tăng trưởng 6%/ năm. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng mức độ tăng trưởng của các quốc gia trong khu vực không đồng đều và có sự chênh lệch ở nhiều khu vực, địa phương trong lãnh thổ từng quốc gia. Do đó, phải có những nghiên cứu chi tiết và hoạch định chính sách có tầm nhìn xa cùng với việc xây dựng một hệ thống nền tảng cơ sở dữ liệu được phổ biến rộng khắp để người dân ở bất cứ nơi đâu cũng có thể tiếp cận các lợi ích của dịch vụ số chính là một trong những ưu tiên hàng đầu để nâng cao chất lượng của Chữ ký điện tử trong Thương mại điện tử.
Ba là, thiết lập các hệ thống ứng dụng phục vụ người dân, Doanh nghiệp và phục vụ quản lý điều hành của Chính phủ.
Cổng dịch vụ công quốc gia đang dần tiến tới việc trở thành một hiện diện số nhất quán, đầy đủ và thân thiện của Chính phủ phục vụ người dân. Để phục vụ việc quản lý và điều hành của Chính phủ trong thời gian tới, các hệ thống thông tin Doanh nghiệp không giấy tờ, hệ thống điện tử về áp dụng chữ ký số dự kiến sẽ được đưa vào thử nghiệm. Bên cạnh đó, tiếp tục cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông đáng tin cậy với giá cả phải chăng. Đây được xem là điều kiện bắt buộc đối với cả hỗ trợ Thương mại điện tử trong nước và xuyên biên giới. Hậu cần kém vẫn là rào cản đối với thương mại điện tử ở nhiều nước đang phát triển, đặc biệt là bên ngoài các trung tâm đô thị chính. Trong bối cảnh này, các sáng kiến để tăng cường năng lực của ngành bưu chính có thể tạo thuận lợi cho việc phát triển Thương mại điện tử cũng như Chữ ký điện tử. Ngoài ra, cần khắc phục sự thiếu hụt về kỹ năng Thương mại điện tử đặc biệt trong các doanh nghiệp nhỏ, hiện đang cản trở khả năng của khu vực tư nhân sử dụng hiệu quả các phương tiện ứng dụng kĩ thuật số của Thương mại điện tử.
Một số địa phương trong thời gian qua cũng đã phối hợp cùng với Trung tâm Chứng thực điện tử quốc gia triển khai giải pháp tích hợp chữ ký số từ xa, tiêu biểu như theo kế hoạch của Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2023, thành phố sẽ đưa 100% các khu vực hành chính công đủ điều kiện cung cấp các dịch vụ dưới dạng trực tuyến, cung cấp miễn phí chữ ký số cá nhân cho người dân khi thực hiện thủ tục hành chính hay giải quyết các giao dịch Thương mại điện tử trong tương lai gần. Mặt khác, nhiều địa phương cũng đã tích cực triển khai hỗ trợ Doanh nghiệp chuyển đổi số như Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội giao Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố chủ trì tổ chức triển khai chương trình chuyển đổi cho các Doanh nghiệp thành lập mới trên địa bàn, theo đó thành phố Hà Nội hỗ trợ cài đặt hóa đơn điện tử kèm 500 hóa đơn điện tử cho Doanh nghiệp thành lập mới năm 2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tuần lễ chuyển đổi số, tỉnh Hải Dương hỗ trợ 100% Doanh nghiệp vừa và nhỏ nhận thức và tư vấn kỹ thuật về chuyển đổi số, hỗ trợ 50% chi phí chứng thực chữ ký số cho các Doanh nghiệp mới thành lập… Đây được xem là những biện pháp kịp thời của Chính phủ và các địa phương trong việc hỗ trợ phát triển Thương mại điện tử và Chữ ký điện tử, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp trong tỉnh và cả nước.
Bốn là, đẩy nhanh quá trình xây dựng Chính phủ điện tử và chuyển đối số. Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.
Trong những năm qua, Chính phủ đang thực hiện chuyển đổi số, tích cực thúc đẩy quá trình xây dựng Chính phủ điện tử. Điều đáng mừng là trong những năm gần đây có khá nhiều Doanh nghiệp đã và đang đồng hành cùng Chính phủ trong việc thực hiện quản trị chuyển đổi số Doanh nghiệp và áp dụng các ứng dụng Chữ ký điện tử trong hoạt động kinh doanh như FPT, Viettel hay BASE Enterprise… Trong tương lai, cần tiếp tục định hướng cho các tập đoàn công nghệ thông tin lớn như Viettel, VNPT phát triển các dịch vụ đám mây đi kèm các giải pháp đảm bảo an toàn thông tin trong lĩnh vực Thương mại điện tử, qua đó giúp tạo ra các nhà cung ứng thương hiệu Việt có tầm cỡ nắm trong tay các nguồn tài nguyên số của quốc gia.
Ngoài những giải pháp mang tính phổ quát nêu trên, với sự non trẻ của Thương mại điện tử ở Việt Nam, chính sách ưu đãi về thuế đối với các giao dịch Thương mại điện tử là cần thiết. Điều này sẽ khuyến khích nhiều doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các giao dịch này. Chính sách ưu đãi này hoàn toàn hợp lý do tạo ra các hiệu ứng lan tỏa tích cực đối với xã hội như giảm bớt áp lực cho hệ thống cơ sở hạ tầng thương mại ở thành phố, tạo cơ hội cho người có tuổi, người khuyết tật, người ở xa các trung tâm thương mại… có thể sử dụng và giao dịch tiện lợi với mọi cá nhân, tổ chức thông qua Chữ ký điện tử.
Chuyển đổi số đang là điều bắt buộc đối với các quốc gia trên toàn cầu, lấy ví dụ như ở Nhật Bản, Chính phủ có kế hoạch mở rộng kế hoạch đào tạo kĩ thuật số cho sinh viên và người lao động nhằm bổ sung 110.000 người thành thạo lĩnh vực kĩ thuật số đến năm tài chính 2024. Đây được coi là động thái đối phó với tình trạng nhiều Doanh nghiệp tại Nhật Bản đang trì hoãn quá trình chuyển đổi số, theo số liệu nghiên cứu của Công ty Nghiên cứu thị trường Forrester (Mỹ) thì có hơn 25% Doanh nghiệp ở Nhật Bản đang trì hoãn quá trình chuyển đổi số, gần 10% Doanh nghiệp hoàn toàn không áp dụng chuyển đổi số hay Chữ ký điện tử. Con số này cao hơn ở các quốc gia khác, như ở Malaysia chỉ có 2% số Doanh nghiệp không áp dụng chuyển đổi số và Indonesia con số này là 1%, đây chính là những con số đáng báo động mà Việt Nam cần xem xét kĩ lưỡng. Rõ ràng, việc xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số là một chủ trương lớn cần được đẩy mạnh triển khai trong thời gian tới.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.
Kinh nghiệm cho thấy, những rủi ro có thể gặp phải trong quá trình sử dụng Chữ ký điện tử trong Hợp đồng thương mại không chỉ được khắc phục bằng công nghệ, giải pháp kỹ thuật, mà đòi hỏi cần phải có một khung pháp lý đầy đủ. Các vấn đề liên quan đến Chữ ký điện tử đang đặt ra nhiều thách thức trên các lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực pháp lý. Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn được trình bày ở Chương 1 và
Chương 2, trong Chương 3, Luận văn đã đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật, cụ thể:
Thứ nhất, cần phải có một hành lang pháp lý đầy đủ phân định rõ ràng trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia Thương mại điện tử ở tất cả các công đoạn của giao dịch thương mại mà tính an toàn hay độ tin cậy bị đe dọa ở các thiết bị điện tử như máy trạm, máy chủ, đường truyền…
Thứ hai, cần bổ sung một số chế tài đủ mạnh để trừng trị thích đáng đáng đối với những hành vi tiêu cực của Cách mạng công nghiệp 4.0 trong Thương mại điện tử như việc cố tình để lộ, lọt thông tin khách hàng, việc quảng cáo tràn lan, không đúng sự thật, sử dụng Chữ ký điện tử giả mạo trong Hợp đồng thương mại nhằm gây rối, chiếm đoạt tài sản của các bên.
Thứ ba, để xác định được độ tin cậy của Chữ ký điện tử, pháp luật cũng cần quy định thêm một số cơ quan trung gian có thẩm quyền chứng thực tính xác thực và đảm bảo độ tin cậy của Chữ ký điện tử.
Thứ tư, cần nghiên cứu ban hành thêm chế tài đối với hành vi “Gian lận thương mại điện tử” khi phát hiện ra nhiều đường dây, tổ chức, cá nhân có hoạt động thu thập, mua bán dữ liệu cá nhân trái phép.
Thứ năm, cần xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về Chữ ký điện tử quốc gia, phối hợp với các nước ASEAN tiếp tục đưa ra các sáng kiến bổ sung về phát triển công nghệ thông tin – truyền thông, logistics, kết nối các thủ tục hải quan, xây dựng tiêu chuẩn các loại hoá đơn để hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho sự phát triển của Chữ ký điện tử trong khu vực.
Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật, Việt Nam cũng cần có những kế hoạch dài hạn để thúc đẩy công tác tổ chức thực hiện pháp luật cũng như các kiến nghị nhằm phát triển Chữ ký điện tử trong hợp đồng thương mại tại Việt Nam. Không phải là không có những thách thức và rào cản trong việc phổ biến sử dụng Chữ ký điện tử trong Hợp đồng thương mại, nhưng với những nỗ lực từ Chính phủ và từ chính các chủ thể kinh doanh, khung pháp lý liên quan sẽ ngày càng được hoàn thiện và việc thực thi sẽ ngày càng có hiệu quả hơn.
KẾT LUẬN Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.
Thế giới đang tiến những bước dài trong kỷ nguyên số, điều này xảy ra ở tất cả các ngành nghề trong xã hội và mọi quốc gia. Một trong những tiến bộ lớn của lĩnh vực này là việc tiến hành áp dụng hình thức Chữ ký điện tử vào trong các Hợp đồng thương mại. Chữ ký điện tử mang theo rất nhiều lợi ích không chỉ về mặt kinh tế, giúp các bên có thể dễ dàng thể hiện ý chí khi tham gia mối quan hệ về Hợp đồng thương mại mà không thể gặp mặt trực tiếp, đặc biệt khi các bên ở khoảng cách quá xa hay bị những điều kiện khách quan cản trở như thiên tai, đại dịch…
Việc sử dụng Chữ ký điện tử trong Hợp đồng thương mại là một xu thế tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, việc sử dụng Chữ ký điện tử cũng mang lại rất nhiều rủi ro trong các giao dịch thương mại. Vì vậy, pháp luật cần có thêm những quy định phù hợp để vừa thúc đẩy việc sử dụng Chữ ký điện tử trong Hợp đồng thương mại, vừa đảm bảo hạn chế những rủi ro pháp lý có thể phát sinh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Trong Chương 1, luận văn đã giới thiệu được những vấn đề lý luận cơ bản về Hợp đồng thương mại và Chữ ký điện tử trong Hợp đồng thương mại, trong đó có nhấn mạnh hiệu lực và tính hiệu quả của Chữ ký điện tử trong bối cảnh toàn cầu hóa thương mại hiện nay. Luận văn cũng đã tiến hành phân tích những ưu điểm nổi trội của Chữ ký điện tử so với “chữ ký tay”, đồng thời chỉ ra một số điểm hạn chế và rủi ro khi sử dụng Chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử đang dần đóng một vai trò quan trọng trong bức tranh của nền Thương mại điện tử tại nước ta ngay tại thời điểm này và trong tương lai sắp tới.
Trong Chương 2, luận văn đã đi sâu vào thực trạng và thực tế áp dụng của Chữ ký điện tử trong các loại Hợp đồng thương mại ở nước ta, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật cũng như từ thực tiễn thực thi pháp luật và thực trạng sử dụng Chữ ký điện tử trong Hợp đồng thương mại ở Việt Nam hiện nay để từ đó có những định hướng cho việc tháo gỡ các vướng mắc để có thể áp dụng hiệu quả Chữ ký điện tử vào Hợp đồng thương mại trên thực tế, phòng ngừa những rủi ro, đồng thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Trong Chương 3, luận văn tập trung đưa ra các kiến nghị và phương hướng giải quyết những khó khăn còn tồn động khi các bên tiến hành ký kết Hợp đồng thương mại thông qua Chữ ký điện tử, với mục tiêu tăng mức độ phổ biến của Chữ ký điện tử đối với các Hợp đồng thương mại trong tương lai nhiều hơn nữa, bắt kịp xu hướng hợp tác hiện đại trong quan hệ thương mại đa phương toàn cầu hóa hiện nay. Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.
CKĐT đang trở thành một ứng dụng ngày càng phổ biến, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại nhờ phát huy khả năng tiện lợi, cắt giảm chi phí và tiết kiệm thời gian cho các bên. Việc áp dụng Chữ ký điện tử trong hoạt động kinh doanh hiện là một xu thế tất yếu trên thế giới và ở Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển chung đó. Tuy nhiên, việc sử dụng Chữ ký điện tử cũng có những rủi ro nhất định.
Có nhiều yếu tố tác động tới hiệu quả thực thi pháp luật về Chữ ký điện tử trong Hợp đồng thương mại ở Việt Nam, kể cả khách quan lẫn chủ quan, từ trong văn bản pháp luật đến thực tiễn áp dụng mà chúng ta cần phải nhìn nhận bao quát có thể kể đến như: (i) Nền công nghệ thông tin phát triển vượt bật trong những năm gần đây khiến cho những quy định trong Luật Giao dịch điện tử 2005 chưa cập nhật thêm những quy định mới như về định danh, xác thực điện tử, trách nhiệm pháp lý của các bên khi có tranh chấp xảy ra, những loại Chữ ký điện tử được công nhận… đã gây khó khăn cho các bên khi áp dụng Chữ ký điện tử vào thực tế Hợp đồng thương mại, (ii) Đối với một số Doanh nghiệp thì việc áp dụng Chữ ký điện tử trong các loại hợp đồng cũng chiếm một khoản kinh phí khá lớn gây tâm lý e ngại đối với một số Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta, (iii) Việc quy định về Chữ ký điện tử ở từng Doanh nghiệp lại khác nhau và chưa có sự đồng bộ, còn mang tính cục bộ và chịu ảnh hưởng theo quy định nội bộ của từng Doanh nghiệp cũng gây khó khăn cho các cá nhân, thương nhân hay chủ thể kinh doanh khi muốn tiến hành sử dụng Chữ ký điện tử, (iv) Ở một số Doanh nghiệp thì Chữ ký điện tử vẫn được sử dụng hạn chế vì lý do tâm lý e ngại rủi ro về an toàn bảo mật, (v) Về khung pháp lý, Luật Giao dịch điện tử 2005 chưa quy định rõ ràng về thông điệp dữ liệu an toàn và Chữ ký điện tử an toàn, dẫn đến sự thiếu tin tưởng của các bên khi tham gia Giao dịch điện tử. Bên cạnh đó, Luật còn thiếu quy định về định danh, xác thực điện tử, dẫn tới hạn chế trong xác định trách nhiệm pháp lý của các bên liên quan trong Giao dịch điện tử…
Pháp luật Việt Nam từ lâu đã có sự quan tâm đến các hoạt động Thương mại điện tử điển hình như sớm quy định kinh doanh dịch vụ Thương mại điện tử là một ngành, nghề kinh doanh, thừa nhận giá trị pháp lý của Chữ ký điện tử; quy định về vấn đề bảo vệ người tiêu dùng khi tham gia giao dịch Thương mại điện tử như trong giao dịch thương mại truyền thống… Có thể nói, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động Thương mại điện tử mà Nhà nước ta đã ban hành cơ bản có thể đáp ứng được yêu cầu bảo đảm về mặt pháp lý cho việc phát triển Chữ ký điện tử. Tuy nhiên, để những quy định pháp luật có thể được triển khai hiệu quả cần có sự hợp tác của cả Doanh nghiệp và người dân. Và bản thân người sử dụng Chữ ký điện tử cũng là một lực lượng đáng kể giúp xây dựng môi trường giao dịch lành mạnh, thông qua việc theo dõi, giám sát và phản hồi nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Nền kinh tế thế giới đang thay đổi một cách sâu rộng dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 làm xuất hiện nền kinh tế số. Công nghệ mới cho phép Doanh nghiệp xử lý khối lượng công việc lớn và đưa ra các quyết định thông minh hơn, là một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các Giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet. Kinh tế số bao gồm tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, sản xuất, phân phối lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng… mà Chữ ký điện tử là một trong những công cụ hiệu quả phổ biến nhất mà các tổ chức, Doanh nghiệp có thể dễ dàng áp dụng để nâng cao hiệu suất và giá trị tăng trưởng. Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.
Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về Chữ ký điện tử ở nước ta cần tiếp tục bổ sung để tiếp cận với các chuẩn mực của pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, quá trình hoàn thiện pháp luật về Chữ ký điện tử cũng cần phải tính đến những đặc điểm văn hóa, thói quen của con người Việt Nam và trình độ phát triển khoa học, công nghệ của nước ta.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Pháp luật về chữ ký điện tử trong hợp đồng thương mại
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: lamluanvan24h@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại […]