Luận văn: Thực trạng PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về chữ ký điện tử trong hợp đồng thương mại dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Nội dung các quy định pháp luật Việt Nam về chữ ký điện tử trong các hợp đồng thương mại ở Việt Nam

Trước năm 2000, Thương mại điện tử còn là thuật ngữ pháp lý mới. Hệ thống pháp luật Việt Nam có quy định nhưng chưa thể hiện được bản chất và tầm quan trọng của Thương mại điện tử cũng như Chữ ký điện tử. Trong giai đoạn này, cũng có một số quy định liên quan. Ví dụ như Luật Thương mại 1997, tại Điều 49 có quy định về hình thức hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có nêu rằng hợp đồng có thể được xác lập bằng các hình thức như “fax, telex, thư điện tử” và nó cũng có giá trị “tương đương văn bản”.

Nhìn chung những văn bản pháp lý được coi là quan trọng nhất nhằm hình thành khung pháp lý đầy đủ cho ứng dụng và phát triển Thương mại điện tử đều được tiến hành xây dựng và ban hành từ năm 2005 tạo cơ sở hình thành các văn bản pháp lý chi tiết hơn về những vấn đề như bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, thông tin cá nhân trong Thương mại điện tử, cơ chế để xác định chứng cứ trong giải quyết các tranh chấp… Cho đến nay khung pháp lý cho hoạt động Thương mại điện tử đã được hình thành tương đối đầy đủ với hệ thống văn bản pháp luật khá toàn diện, đáp ứng được các yêu cầu cơ bản về mặt pháp lý đối với việc phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam.

Hai văn bản cốt lõi nhất điều chỉnh hoạt động thương mại là Bộ luật dân sự và Luật Thương mại đã thừa nhận giá trị pháp lý của Giao dịch điện tử thông qua việc thừa nhận thông điệp dữ liệu – hình thức biểu hiện cụ thể của Chữ ký điện tử. Bên cạnh Bộ luật dân sự và Luật Thương mại người tham gia vào Hợp đồng thương mại thông qua việc sử dụng Chữ ký điện tử còn phải tuân thủ các quy định khác liên quan tới hoạt động kinh doanh thương mại như Luật Bảo vệ Người tiêu dùng, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Quảng cáo… Luận văn: Thực trạng PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.

Khung pháp lý cho Giao dịch điện tử nói chung và Thương mại điện tử nói riêng được hình thành với hai nền tảng chính là Luật Giao dịch điện tử và Luật Công nghệ thông tin cùng hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành. Luật Giao dịch điện tử 2005 đặt nền tảng pháp lý cơ bản cho các Giao dịch điện tử trong xã hội bằng việc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, đồng thời quy định khá chi tiết về Chữ ký điện tử. Nếu Luật Giao dịch điện tử tập trung điều chỉnh các khía cạnh pháp lý của Giao dịch điện tử, thì Luật Công nghệ thông tin chủ yếu quy định về hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin cùng những biện pháp bảo đảm về mặt chính sách và hạ tầng cho các hoạt động này.

Hiện nay, theo quy định về chữ ký trên hợp đồng điện tử, khi giao kết hợp đồng điện tử, các bên sẽ sử dụng Chữ ký điện tử. Theo quy định tại Luật Giao dịch điện tử 2005, Chữ ký điện tử có các đặc điểm như:

  • Được tạo lập dưới dạng dữ liệu điện tử như chữ, ký hiệu, hình ảnh, âm thanh…;
  • Được gắn liền, kết hợp với hợp đồng điện tử một cách logic. Chẳng hạn như dưới dạng file Word hoặc file PDF;
  • Người dùng có thể nhận dạng người ký thông qua Chữ ký điện tử. Chữ ký này phải có khả năng xác nhận định danh được người ký và thông qua chữ ký này người ký thể hiện sự chấp thuận đồng ý đối với các nội dung đã ghi nhận trên hợp đồng.

HĐTM có thể tồn tại dưới dạng hợp đồng điện tử. Luật pháp công nhận Chữ ký điện tử cũng có giá trị pháp lý nếu thỏa mãn đủ các điều kiện, do vậy Chữ ký điện tử hoàn toàn có thể dùng trong các loại Hợp đồng thương mại nếu các bên có thỏa thuận đồng ý sử dụng. Tuy nhiên các loại Hợp đồng thương mại cũng rất đa dạng và mỗi loại đều có các quy định khác nhau, do đó ta cần phải nắm rõ để sử dụng Chữ ký điện tử đúng với từng trường hợp cụ thể. Ví dụ như một số loại hợp đồng không chỉ yêu cầu chữ ký như một số hợp đồng vận chuyển mẫu sẽ được công bố hoặc niêm yết trước và các bên sẽ giao kết hợp đồng thông qua vé hoặc vận đơn. Hay một số hợp đồng khác ngoài chữ ký còn phải có dấu mộc hoặc phải được công chứng hoặc chứng thực như hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp đồng về nhà ở, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất…

Mặt khác, trong thực tiễn ngày nay pháp luật cũng đề cao sự tự do cho các bên về hình thức hợp đồng được thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Điều 119 Bộ luật dân sự 2015 đã thừa nhận “Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản”. Việc củng cố tự do hợp đồng về hình thức còn được thể hiện thông qua giảm chế tài khi có vi phạm về hình thức hợp đồng hay việc yêu cầu hợp đồng vô hiệu về hình thức. Đây là điều kiện thuận lợi để các cá nhân, tổ chức và Doanh nghiệp mạnh dạn áp dụng Chữ ký điện tử vào Hợp đồng thương mại.

Đặc biệt theo Luật Doanh nghiệp 2020 thì các Doanh nghiệp Việt Nam đã được bãi bỏ việc phụ thuộc vào con dấu, Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của Doanh nghiệp và việc quản lý, sử dụng và lưu giữ con dấu thực hiện theo Điều lệ công ty, do đó Chữ ký điện tử ngày càng có giá trị hơn đối với các bên trong việc giao kết hợp đồng và đảm bảo hiệu lực hợp đồng bởi con dấu Doanh nghiệp không còn nhiều giá trị pháp lý trong các quy định pháp luật nữa.

Nhìn chung, pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ mới công nhận hiệu lực của các hợp đồng được lập bằng hình thức điện tử và được ký bằng chữ ký số. Hiệu lực của các hợp đồng được ký bằng chữ ký scan và chữ ký hình ảnh chưa được quy định cụ thể. Do vậy việc cho rằng kết luận các hình thức này không được phép hoặc không có giá trị pháp lý vì không được quy định cụ thể trong pháp luật mang tính chủ quan và chưa phù hợp với thông lệ thị trường. Chữ ký scan và chữ ký hình ảnh nên được thừa nhận có giá trị pháp lý nếu chữ ký đó thể hiện ý chí của người ký và người ký có thẩm quyền ký.

Có thể nói, theo các yêu cầu bảo đảm về mặt pháp lý đối với việc phát triển Thương mại điện tử, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động Thương mại điện tử được Nhà nước ta ban hành trong những năm qua đang dần được đáp ứng. Pháp luật Việt Nam đã ghi nhận các hoạt động kinh doanh, thương mại trên các phương tiện điện tử, quy định kinh doanh dịch vụ Thương mại điện tử là một ngành, nghề kinh doanh, thừa nhận giá trị pháp lý của Chữ ký điện tử, các quy định về thuế như hướng dẫn Giao dịch điện tử trong lĩnh vực khai báo thuế, công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng về Giao dịch điện tử trong hoạt động Hải quan, quy định về vấn đề bảo vệ người tiêu dùng khi tham gia giao dịch Thương mại điện tử như trong giao dịch thương mại truyền thống. Luận văn: Thực trạng PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.

Sau khoảng 17 năm áp dụng, Luật Giao dịch điện tử 2005 đã bộc lộ những điểm hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được với những thay đổi của thời đại mới với sự phát triển vượt bậc của công nghệ. Ngày 22/06/2023, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Giao dịch điện tử mới và luật này chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2024. Luật Giao dịch điện tử 2023 gồm 7 chương, 54 điều. Theo Ông Nguyễn Huy Dũng, “Luật Giao dịch điện tử năm 2023 đã thể chế hoá đầy đủ quan điểm, chủ trương của Bộ Chính trị, khắc phục những vướng mắc, bất cập, tồn tại của Luật Giao dịch điện tử (năm 2005), phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành và các cam kết trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đáp ứng yêu cầu và thúc đẩy chuyển đổi số toàn dân, toàn diện”.

So với Luật Giao dịch điện tử 2005, Luật Giao dịch điện tử 2023 có một số điểm mới cơ bản liên quan tới Chữ ký điện tử như sau:

Về khái niệm, tại Điều 3 Luật Giao dịch điện tử 2023 đã sửa đổi bổ sung một số định nghĩa khái niệm mà ở Luật Giao dịch điện tử 2005 chưa được quy định cụ thể hay chưa được đề cập đến như Chữ ký điện tử, chữ ký số, dấu thời gian, dữ liệu số, dữ liệu chủ, môi trường điện tử, dịch vụ chứng thực chữ ký số…

Về điều kiện để chữ ký số trở thành Chữ ký điện tử, tại khoản 3 Điều 22 Luật Giao dịch điện tử 2023 quy định khá cụ thể việc chữ ký số được coi là Chữ ký điện tử khi đáp ứng đầy đủ các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện liên quan đến Giao dịch điện tử, gồm 03 dịch vụ: Dịch vụ cấp dấu thời gian; Dịch vụ chứng thực thông điệp dữ liệu; Dịch vụ chữ ký số công cộng (Luật Giao dịch điện tử năm 2005 chỉ quy định về Dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử).

Ngoài các điểm mới liên quan trực tiếp tới Chữ ký điện tử, Luật Giao dịch điện tử 2023 còn có một số điểm mới cơ bản khác như: thay đổi phạm vi điều chỉnh, hoàn thiện một số khái niệm, quy định chi tiết và cụ thể hơn những hành vi bị nghiêm cấm, về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, vấn đề Giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước, về hệ thống thông tin phục vụ GDĐT…

yêu cầu chi tiết như có thể xác nhận chủ thể đã ký và khẳng định sự chấp nhận của chủ thể ký đối với thông điệp dữ liệu, dữ liệu tạo chữ ký số chỉ thuộc sự kiểm soát của chủ thể ký tại thời điểm ký, mọi thay đổi với thông điệp dữ liệu sau thời điểm ký đều có thể bị phát hiện…

Về việc phân loại Chữ ký điện tử, Luật Giao dịch điện tử 2023 quy định về việc Chữ ký điện tử được phân loại thành ba nhóm chính là Chữ ký điện tử chuyên dùng, chữ ký số công cộng và chữ ký số chuyên dùng công vụ tại Điều 22 Luật Giao dịch điện tử 2023. Đây được coi là một quy định mới tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp có thể tiến hành sử dụng phổ biến các loại Chữ ký điện tử vào các Hợp đồng thương mại trong tương lai. Luận văn: Thực trạng PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.

Trong Luật Giao dịch điện tử 2023 cũng có quy định mới về “thông điệp dữ liệu”, khẳng định rõ “thông điệp dữ liệu có giá trị như văn bản, thông điệp dữ liệu có giá trị như bản gốc, thông điệp dữ liệu có giá trị dùng làm chứng cứ tạo căn cứ pháp lý cho việc triển khai trên thực tế. Việc đưa ra khái niệm chứng thư điện tử và đảm bảo giá trị pháp lý cho hình thức này là một bước đột phá lớn để thúc đẩy các hoạt động giao dịch điện tử trong các ngành, lĩnh vực và xã hội diễn ra toàn trình”.

Nhìn chung, Luật Chữ ký điện tử 2023 đã có nhiều nội dung mới bổ sung, sửa đổi về CKĐT nhằm thể hiện sự quan tâm của Chính phủ trong việc thúc đẩy áp dụng Chữ ký điện tử vào Hợp đồng thương mại ở thời gian tới. Tuy nhiên, vẫn còn một số điểm chưa được làm rõ và quy định một cách minh thị trong Luật Giao dịch điện tử 2023. Ví dụ như việc tuy đã phân loại Chữ ký điện tử nhưng Luật chưa đề cập hay thừa nhận việc chữ ký scan hay chữ ký hình ảnh có thể được coi là Chữ ký điện tử hay không. Quan điểm của cơ quan lập pháp là “Có ý kiến đề nghị bổ sung các loại hình chữ ký điện tử khác ngoài chữ ký số đáp ứng đủ các điều kiện để bảo đảm chữ ký an toàn, giá trị pháp lý. Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, theo khoản 11 Điều 3 của dự thảo Luật, chữ ký điện tử được sử dụng để xác nhận chủ thể ký và xác nhận sự chấp thuận của chủ thể đó đối với thông tin trong thông điệp dữ liệu được ký và phải được tạo lập dưới dạng dữ liệu điện tử gắn liền hoặc kết hợp một cách lôgíc với thông điệp dữ liệu thì lúc đó mới được coi là chữ ký điện tử.  Hiện nay, các hình thức xác nhận khác bằng phương tiện điện tử như chữ ký scan, chữ ký hình ảnh, mật khẩu sử dụng một lần (OTP), tin nhắn (SMS),… không phải là chữ ký điện tử. Tuy nhiên, để phù hợp với thực tiễn triển khai nghiệp vụ trong ngành ngân hàng, hải quan… và nhằm thúc đẩy giao dịch điện tử, khoản 4 Điều 22 của dự thảo Luật đã quy định thêm việc sử dụng các hình thức xác nhận này được thực hiện theo quy định pháp luật có liên quan”. Luật Giao dịch điện tử không quy định nhưng trên thực tế, chữ ký scan hay chữ ký hình ảnh lại là những dạng chữ ký được sử dụng phổ biến tại các Hợp đồng thương mại giữa các Doanh nghiệp Việt Nam với các Doanh nghiệp nước ngoài, do vậy hi vọng trong tương lai gần sẽ có thêm những quy định bổ sung đề cập đến vấn đề này.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Nhận Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2.2. Thực trạng pháp luật và những yếu tố tác động tới hiệu quả thực thi pháp luật về chữ ký điện tử trong hợp đồng thương mại ở Việt Nam

2.2.1. Thực trạng pháp luật về sử dụng chữ ký điện tử trong hợp đồng thương mại tại Việt Nam Luận văn: Thực trạng PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.

Về thực tiễn, trong quan hệ thương mại, khi các bên đã thực hiện việc giao kết hợp đồng trên phương tiện điện tử có kết nối mạng, việc sử dụng Chữ ký điện tử mang lại sự hiệu quả, khả thi và tiện lợi nhất. Tuy nhiên, nếu trên cơ sở đó mà quy định nguyên tắc “bắt buộc phải sử dụng chữ ký điện tử”, hạn chế hình thức khác xác nhận nội dung hợp đồng đã thỏa thuận là hơi “khiên cưỡng”. Pháp luật đã ghi nhận “Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác” (khoản 1 Điều 3 Nghị định số 52/2023/NĐ-CP). Tất yếu, việc lựa chọn sử dụng hay không sử dụng Chữ ký điện tử không ảnh hưởng tới việc giao dịch của các bên có hay không thỏa mãn đặc điểm của thương mại điện tử, nếu một phần hoặc các quy trình còn lại các bên đã tiến hành trên phương tiện điện tử có kết nối mạng. Vì vậy, nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong khuôn khổ pháp luật trong việc sử dụng chữ ký Chữ ký điện tử là hoàn toàn phù hợp.

Thực tế ngày nay cho thấy việc chủ động tham gia thương mại trong thế kỉ 21 gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, với việc kết nối vạn vật trên mọi lĩnh vực trong đó các Hợp đồng thương mại được chuyển đổi số là một xu thế tất yếu của thời đại. So với các nước trong khu vực thì tại Việt Nam, Chữ ký điện tử vẫn chưa phát huy hết sức mạnh và tính hiệu quả của nó. Thực tiễn cho thấy ở nhiều công ty vừa và nhỏ thì các hợp đồng được ký kết qua hình thức Chữ ký điện tử chưa nhiều, các bên vẫn còn khá e ngại dè dặt khi áp dụng Chữ ký điện tử trong giao dịch, đặc biệt là các hợp đồng có giá trị lớn hay những đối tác chưa thực sự tin cậy. Điều đó khiến việc ký kết các Hợp đồng thương mại mất nhiều thời gian hơn cho các bên, tốn kém các chi phí liên quan và đặc biệt là thời gian có hiệu lực của hợp đồng, khiến việc hợp tác bị ảnh hưởng và tổn thất cho các bên trong thời đại mà các giao dich thương mại diễn ra liên tục và mọi thương nhân phải tranh thủ từng phút từng giờ.

Tại Việt Nam, mặc dù có tới 90% là Doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ nhưng những động thái về việc chuyển đổi số đang được diễn ra mạnh mẽ và đây được xem như là cuộc cách mạng cho nền kinh tế, tiêu biểu như hiện có tới 95% ngân hàng thương mại đang xây dựng chiến lược chuyển đổi số[9], đã tích cực và chủ động trong việc nắm vững công nghệ 4.0 như điện toán đám mây, phân tích dữ liệu lớn, cung cấp các sản phẩm dịch vụ trên nền tảng số. Nhiều nghiệp vụ ngân hàng như mở tài khoản thanh toán, thanh toán chuyển tiền, gửi tiền tiết kiệm đã được số hóa 100% trong đó việc sử dụng Chữ ký điện tử được ưu tiên đã cho phép khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại hoàn toàn trên kênh số. Quá trình chuyển đổi số không chỉ đóng góp cho hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng mà chính người dân là đối tượng được hưởng lợi rõ rệt. Trong thời gian giãn cách xã hội người dân vẫn có thể ngồi nhà giao dịch, thanh toán, đầu tư thông qua các dịch vụ ngân hàng trực tuyến…nhờ vào việc khách hàng có thể ký thẳng lên trên điện thoại hay ipad để ngân hàng xác minh định danh và tiến hành các giao dịch như mở thẻ, đặt lệnh chứng khoán một cách dễ dàng và nhanh chóng nhất.

Đơn cử như tại Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) đã có rất nhiều loại hợp đồng hay giấy tờ giao dịch giải ngân được phép sử dụng Chữ ký điện tử như Hợp đồng mua bán ngoại tệ kì hạn, hợp đồng hoán đổi ngoại tệ, khế ước nhận nợ, ủy nhiệm chi… (được thể hiện ở Phụ lục 1). Luận văn: Thực trạng PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.

Hay như ở ngành điện lực là một trong những ngành tiên phong trong việc chuyển đổi số, được Bộ Thông tin và Truyền thông xác nhận đạt mức độ là 3/5 tức là đã “hình thành doanh nghiệp số”, qua đó người dùng có thể đăng ký tất cả các loại hình dịch vụ điện, truy cập thông tin sử dụng điện, báo sửa chữa điện, thanh toán tiền điện qua hình thức trực tuyến, và các hợp đồng dịch vụ này có thể ký kết trực tuyến trên các thiết bị di động thông qua hình thức Chữ ký điện tử.

Việc thực hiện và giao kết hợp đồng điện tử đã được pháp luật quy định khá cụ thể nhưng mỗi hợp đồng có những quy định riêng và còn tùy thuộc và các bên khi tham gia giao kết hợp đồng. Tại điều 34 Luật Giao dịch điện tử 2005, tương ứng là Điều 34, Luật Giao dịch điện tử 2023 cũng đã thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử là “không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu”. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp các Doanh nghiệp hay cá nhân khi tham gia hoạt động thương mại đều có xu hướng mong muốn có văn bản rõ ràng với chữ ký viết tay cùng dấu mộc Doanh nghiệp như quan niệm “giấy trắng mực đen” để tạo nên sự yên tâm cho các bên. Chính vì vậy nên Chữ ký điện tử đến nay vẫn chưa được sử dụng nhiều như kì vọng mặc dù các quy định pháp lý liên quan đến lĩnh vực này đã khá cởi mở và tạo điều kiện cho các bên.

Nhưng cùng với sự phát triển và tiến bộ về khoa học kĩ thuật, “các dữ liệu điện tử ngày càng chiếm ưu thế so với „văn bản giấy‟ trong giao dịch thương mại tại Việt Nam. Chữ ký điện tử vì thể cũng được doanh nghiệp tận dụng triệt để trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng. Xu hướng chung là các doanh nghiệp thường ưu tiên phương tiện điện tử trước rồi sau đó mới giao nhận văn bản giấy‟ như là một biện pháp „phòng vệ‟ khi xảy ra tranh chấp. Cũng có những doanh nghiệp chọn sử dụng phương tiện điện tử 100% không cần „văn bản giấy‟. Nhanh chóng, tiện lợi, tiết kiệm, hiệu quả là những ưu điểm vượt trội của phương tiện điện tử, tuy nhiên, nó cũng tiềm ẩn những rủi ro khôn lường. Ai gửi, gửi khi nào, đã nhận chưa, ai nhận, có thẩm quyền không… là những vấn đề mà các bên tranh chấp có thể chất vấn nhau không hồi kết. Nếu không cẩn trọng, doanh nghiệp phải đối mặt với các hậu quả nặng nề như phạt vi phạm, chịu lãi suất, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật Việt Nam, thậm chí là ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường”. Luận văn: Thực trạng PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.

Điều quan trọng là Doanh nghiệp cần quan tâm là có những giải pháp phù hợp nhằm sử dụng hiệu quả và kiểm soát những rủi ro có thể gặp phải khi sử dụng Chữ ký điện tử trong Hợp đồng thương mại, trường hợp nào dùng Chữ ký điện tử, trường hợp nào nên sử dụng chữ ký tay, trường hợp nào sử dụng tài liệu điện tử, trường hợp nào cần sử dụng “văn bản giấy”? Ngoài ra, việc lưu trữ và quản lý dữ liệu cũng rất cần thiết, bởi nó không chỉ phục vụ cho hoạt động quản lý Doanh nghiệp mà còn có thể là những chứng cứ hữu ích trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh.

Ngoài ra để hạn chế những rủi ro có thể xảy ra khi sử dụng Chữ ký điện tử trong Hợp đồng thương mại, Doanh nghiệp nên sử dụng và yêu cầu đối tác sử dụng chữ ký số, thay vì Chữ ký điện tử khác đối với những tài liệu, chứng cứ quan trọng trong giao dịch thương mại như: Hợp đồng thương mại và các phụ lục, chứng từ, đơn đặt hàng, thông báo tạm ngừng hoặc chấm dứt hợp đồng… vì tính bảo mật và tính xác thực cao của chữ ký số.

2.2.2. Những yếu tố tác động tới hiệu quả thực thi pháp luật về chữ ký điện tử trong hợp đồng thương mại ở Việt Nam

Có nhiều yếu tố tác động tới hiệu quả thực thi pháp luật về Chữ ký điện tử trong Hợp đồng thương mại ở Việt Nam, kể cả khách quan lẫn chủ quan, từ trong văn bản pháp luật đến thực tiễn áp dụng mà chúng ta cần phải nhìn nhận bao quát có thể kể đến như:

Nền công nghệ thông tin phát triển vượt bật trong những năm gần đây khiến cho những quy định trong Luật Giao dịch điện tử 2005 chưa cập nhật thêm những quy định mới như về định danh, xác thực điện tử, trách nhiệm pháp lý của các bên khi có tranh chấp xảy ra, những loại Chữ ký điện tử được công nhận… đã gây khó khăn cho các bên khi áp dụng Chữ ký điện tử vào thực tế Hợp đồng thương mại.

Ngoài ra đối với một số Doanh nghiệp thì việc áp dụng Chữ ký điện tử trong các loại hợp đồng cũng chiếm một khoản kinh phí khá lớn gây tâm lý e ngại đối với một số Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta. Ví dụ như là bảng giá chữ ký số điện tử dưới đây của công ty cổ phần MISA:

Gói SP/DV Đơn vị tính Đơn giá (VND)
Tổ chức Cá nhân trong tổ chức Cá nhân
Gói sản phẩm
01 năm Gói 1.279.000 499.000 499.000
02 năm Gói 2.179.000 899.000 899.000
03 năm Gói 2.979.000 1.199.000 1.199.000
04 năm Gói 3.779,000 1.499.000 1.499.000
05 năm Gói 4.479.000 1.799.000 1.799.000

Ta thấy chi phí bỏ ra cho chữ ký số tuy không quá lớn nhưng cũng khiến một số Doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ và nhỏ phải cân nhắc nếu như Doanh nghiệp đó không có quá nhiều hoạt động Thương mại điện tử hay các hoạt động thương mại đó không cần phải áp dụng Chữ ký điện tử. Các dự án chuyển đổi số có thể tốn rất nhiều chi phí đầu tư, trong khi năng lực tài chính của các Doanh nghiệp, đặc biệt là Doanh nghiệp nhỏ và và siêu nhỏ còn khá hạn chế. Theo khảo sát của VCCI năm 2020 với hơn 400 Doanh nghiệp tại Việt Nam, có đến 55,6% các Doanh nghiệp tham gia khảo sát cho rằng chi phí ứng dụng công nghệ được xem là rào cản lớn nhất. Bên cạnh đó, các Doanh nghiệp quy mô vừa và lớn có tiềm lực tài chính tốt hơn thì gặp rào cản nhiều nhất về thay đổi thói quen, tập quán kinh doanh. Điều này một phần do các Doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn có bộ máy, quy trình phức tạp hơn các Doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, vì thế sẽ khó khăn hơn khi thích ứng với thay đổi.

Ngoài ra việc quy định về Chữ ký điện tử ở từng Doanh nghiệp lại khác nhau và chưa có sự đồng bộ, còn mang tính cục bộ và chịu ảnh hưởng theo quy định nội bộ của từng Doanh nghiệp cũng gây khó khăn cho các cá nhân, thương nhân hay chủ thể kinh doanh khi muốn tiến hành sử dụng Chữ ký điện tử. Luận văn: Thực trạng PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.

Đơn cử như trường hợp ở Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB) có công văn nội bộ Quyết định số 217D/NVQĐ-KVH.2021 quy định về thực hiện giao dịch bằng chứng từ có Chữ ký điện tử dựa trên các quy định của Luật Giao dịch điện tử 2005 và một số Thông tư Nghị định có liên quan. Nhưng trên thực tế, các văn bản này vẫn được điều chỉnh theo hướng tuân thủ các quy định nội bộ trong Khối Vận hành Ngân hàng ACB nhằm đảm bảo quyền lợi lớn nhất cho Ngân hàng cũng như khách hàng của ACB khi đến thực hiện các giao dịch ngân hàng hoặc ký kết các loại hợp đồng có liên quan. Ngoài ra, ở công văn này vẫn có phần giải thích sơ lược các định nghĩa về Chữ ký điện tử hay hợp đồng Chữ ký điện tử cũng như một số định nghĩa khác có liên quan trong ngành ngân hàng như tài khoản, danh sách người thụ hưởng, số mã hóa, hạn mức giao dịch bằng Chữ ký điện tử trong ngày…Những công văn này có hiệu lực trong toàn bộ hệ thống ngân hàng ACB nhưng đối với ngân hàng khác lại có sự khác biệt không nhỏ. Điều này khiến cho nhiều cá nhân, Doanh nghiệp có thể mất thêm nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu xem xét kĩ các điều khoản khi tiến hành sử dụng Chữ ký điện tử và cản trở quá trình sử dụng Chữ ký điện tử của nhiều tổ chức, Doanh nghiệp đang kinh doanh trong xã hội.

Thêm vào đó ở một số Doanh nghiệp thì Chữ ký điện tử vẫn được sử dụng hạn chế vì lý do tâm lý e ngại rủi ro về an toàn bảo mật, lấy ví dụ như ở ngân hàng ACB mỗi khi tiến hành giao dịch cần có tờ trình (phụ lục 2) để trình các cấp lãnh đạo xem xét nên đôi khi cũng làm mất thời gian nếu các bên có nhu cầu ký kết hay cần tiến hành các giao dịch cần phải giải ngân gấp.

Bên cạnh các yếu tố trên thì Luật Giao dịch điện tử 2005 chưa quy định rõ ràng về thông điệp dữ liệu an toàn và Chữ ký điện tử an toàn, dẫn đến sự thiếu tin tưởng của các bên khi tham gia Giao dịch điện tử. Bên cạnh đó, Luật còn thiếu quy định về định danh, xác thực điện tử, dẫn tới hạn chế trong xác định trách nhiệm pháp lý của các bên liên quan trong Giao dịch điện tử…. Sau khoảng 17 năm thi hành, Luật Giao dịch điện tử 2005 cũng đã bộc lộ những điểm bất cập, hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được những sự phát triển của khoa học – công nghệ trong giai đoạn hiện nay và cũng như trong tương lai. Các quy định liên quan tới thông điệp dữ liệu như quy định về định dạng, thời gian gửi, nhận, lưu trữ, chuyển đổi.. còn thiếu nhất quán. Ngoài ra, các quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực này còn khá chung chung.

Một thực tiễn rất đáng quan tâm là dù quá trình chuyển đổi số trong quản trị Doanh nghiệp còn tương đối chậm, thể hiện qua số lượng không nhiều Doanh nghiệp ứng dụng các giải pháp ERP, HRM, E – Office, phần mềm chấm công, tính lương điện tử… song có một tỉ lệ không hề nhỏ các Doanh nghiệp đã chuyển đổi số hoạt động quản trị, vận hành nội bộ ở mức cơ bản, thể hiện qua những thống kê sơ bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư vào năm 2021. Có thể lấy ví dụ như hơn 60% cơ sở sản xuất kinh doanh đang sử dụng các phần mềm kế toán, trên 200.000 cơ sở kinh doanh đang sử dụng các phần mềm hóa đơn điện tử của nhiều nhà cung cấp khác nhau, hầu hết các Doanh nghiệp vừa và lớn đã trang bị và sử dụng chữ ký số… Nhiều Doanh nghiệp nhìn nhận chuyển đổi số như một cơ hội để sáng tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới hướng tới thay đổi bản chất Doanh nghiệp, góp phần tạo ra các Doanh nghiệp y tế số, giáo dục số, nông nghiệp số, chữ ký số, logistic giao nhận thương mại, khách sạn du lịch, ngân hàng số… hoạt động theo những phương thức mới, dựa trên việc kết nối các hệ thống công nghệ, dữ liệu và xử lý thông tin tự động.

2.2.3. Một số rào cản trong việc áp dụng chữ ký điện tử đối với hợp đồng thương mại tại Việt Nam Luận văn: Thực trạng PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.

Một trong những điều ta cần thừa nhận là các biện pháp an toàn công nghệ và lập pháp đã được nêu trên không làm cho Chữ ký điện tử và kỹ thuật số hoàn toàn an toàn. Đơn cử như việc một bên thứ ba có thể sử dụng các công cụ điện tử hay phần mềm tinh vi để truy cập vào khóa riêng và sử dụng chữ ký số tương ứng mà không cần sự đồng ý của chủ sở hữu hợp pháp. Đặc biệt là trong trường hợp các cuộc đàm phán và thảo luận kinh doanh không diễn ra trực tiếp, việc chứng minh sự gian lận hoặc giả mạo có thể mang tới nhiều khó khăn. Trên một phương diện khác, nguy cơ mất dữ liệu điện tử rất cao nếu không có hệ thống lưu trữ hiệu quả. Bởi tội phạm trên không gian mạng liên tục tìm ra cách mới để khai thác những sơ hở của người dùng nhằm thực hiện cách hành vi giả mạo hay trộm cắp tài chính, và những đổi mới điện tử làm phát sinh một nhóm các mối quan tâm về vấn đề này.

Để giảm bớt những sự cố như vậy xảy ra, cá nhân, tổ chức sử dụng Chữ ký điện tử cần có sự thận trọng hơn. Người dùng nên ghi lại và lưu trữ tất cả các thông tin liên lạc có đề cập đến sự sắp xếp của Chữ ký điện tử. Ngoài ra, các bên cần có thỏa thuận rõ về việc các tài liệu có Chữ ký điện tử được gửi từ người nào, có thẩm quyền chức vụ gì mới là hợp pháp. Không những thế, việc sử dụng các định dạng tập tin không cho phép chỉnh sửa, ví dụ như là PDF, nên được ưu tiên. Trong trường hợp nhận được một tập tin có Chữ ký điện tử, người nhận phải luôn có trách nhiệm xem xét kỹ nội dung của tài liệu đã ký để bước đầu đảm bảo rằng nó không bị giả mạo. Việc có một hệ thống lưu trữ điện tử an toàn và sử dụng các biện pháp bảo mật cao để tránh bị đánh cắp dữ liệu quan trọng cũng là một yêu cầu cấp thiết. Luận văn: Thực trạng PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.

Pháp luật cũng nên có các quy định kiểm soát đầy đủ để đảm bảo một hệ thống an ninh chặt chẽ hơn. Ví dụ như “vào tháng 2 năm 2020, một công ty phần mềm nội địa, MISA, đã ra mắt eSign với tư cách là chữ ký số không cần có Token đầu tiên tại Việt Nam. Công ty này thông cáo với báo chí rằng, phát minh đột phá này hiện đã cho phép chữ ký số trên không chỉ trên máy tính có cổng USB mà còn trên điện thoại thông minh, cho phép các cá nhân thực hiện thương mại điện tử kể cả khi đang di chuyển. Tuy nhiên, những lo ngại về việc thiếu bảo mật của eSign đã làm mất đi niềm tin của công chúng vào công nghệ mới này. Không có phần cứng mã hóa, eSign của MISA sử dụng Mật khẩu dùng một lần (OTP) qua tin nhắn văn bản để xác minh danh tính của người ký do đó rất dễ bị tin tặc tấn công. Vì lý do đó, vào tháng 5 năm 2020, Trung tâm Chứng thực Điện tử Quốc gia Việt Nam đã yêu cầu MISA ngừng tất cả các hoạt động bán hàng và khuyến mãi sản phẩm của họ cho đến khi tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật. Hành động nhanh chóng của cơ quan này là đáng khen ngợi, vì nó đã ngăn chặn hiệu quả một số vi phạm tiềm ẩn và sự giả mạo của các giao dịch thương mại”.

Hiện nay trên không gian mạng có nhiều hiện tượng lợi dụng lừa đảo trong Giao dịch điện tử bao gồm cả giả mạo thông tin định danh cũng như Chữ ký điện tử của các Doanh nghiệp và cá nhân, do đó cần phải làm rõ vai trò trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ, đồng thời bổ sung thêm quy định về trách nhiệm quyền hạn của các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc giám sát và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong Thương mại điện tử theo lĩnh vực và địa bàn được phân công.

Ngoài ra chúng ta có thể áp dụng hệ thống định danh và xác thực điện tử của Bộ Công An làm tiêu chuẩn chung trong giao dịch trên Thương mại điện tử, cũng như ứng dụng CKĐT trong việc ký kết các Hợp đồng thương mại trên cổng dịch vụ công.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Luận văn: Thực trạng PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.

Pháp luật Việt Nam thừa nhận giá trị pháp lý và thúc đẩy việc sử dụng Chữ ký điện tử trong các giao dịch thương mại nói chung và Hợp đồng thương mại nói riêng. Điều đó thể hiện ở việc, Việt Nam ban hành các văn bản ở cấp độ luật để điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực Giao dịch điện tử. Pháp luật điều chỉnh Chữ ký điện tử trong Hợp đồng thương mại đã có những thành công bước đầu trong việc phát triển loại chữ ký này ở Việt Nam, tuy nhiên, vẫn còn có những hạn chế, bất cập nhất định. Trong Chương 2, Luận văn đã phân tích các quy định pháp luật Việt Nam về Chữ ký điện tử trong Hợp đồng thương mại, chỉ ra một số hạn chế, bất cập trong các quy định cũng như thực tiễn thực thi.

Mặc dù Chữ ký điện tử phát triển mạnh mẽ trong thời gian vừa qua cũng như đang có những dấu hiệu tích cực trong thời gian tới, tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức đặt ra cho quá trình hoàn thiện pháp luật đối với các hoạt động Thương mại điện tử có áp dụng Chữ ký điện tử, đặc biệt là việc xây dựng ý thức pháp luật, lòng tin của người dân và doanh nghiệp trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và doanh nghiệp khi tham gia lĩnh vực này. Việc phát triển Chữ ký điện tử hay rộng hơn là ứng dụng chuyển đổi số trong hoạt động Thương mại điện tử phải xuất phát từ chính quyết tâm của những người đứng đầu Doanh nghiệp, xem đó là lợi ích lâu dài đem lại sự phát triển của tổ chức, đơn vị.

Thực tế cho thấy việc chủ động tham gia chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động kinh doanh, thương mại gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 ở Việt Nam dù có khởi sắc nhưng vẫn còn những vướng mắc, hạn chế nhất định. So với các nước trong khu vực thì tại Việt Nam, Chữ ký điện tử vẫn chưa phát huy hết sức mạnh và tính hiệu quả của nó. Thực tiễn cho thấy ở nhiều công ty vừa và nhỏ thì các hợp đồng được ký kết qua hình thức Chữ ký điện tử chưa nhiều, các bên vẫn còn khá e ngại dè dặt khi áp dụng Chữ ký điện tử trong giao dịch, đặc biệt là các hợp đồng có giá trị lớn hay những đối tác chưa thực sự tin cậy.

Sau khoảng 17 năm áp dụng, Luật Giao dịch điện tử 2005 đã bộc lộ những điểm hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được với những thay đổi của thời đại mới với sự phát triển vượt bậc của công nghệ. Ngày 22/06/2023, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Giao dịch điện tử mới và luật này chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2024. Luật Giao dịch điện tử 2023 vừa mới được ban hành, chưa có hiệu lực áp dụng và do vậy, chưa có được những đánh giá xác đáng về tác động của luật này và hiệu quả áp dụng trên thực tế. Luận văn: Thực trạng PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Luận văn: Kiến nghị PL về chữ ký điện tử hợp đồng thương mại

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0972114537