Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Quy định của pháp luật việt nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh và các kiến nghị hoàn thiện dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
2.4 Giới hạn quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh
Giới hạn Quyền tác giả được hiểu một cách chung nhất, đó là những hạn chế về Quyền tác giả, chủ sở hữu Quyền tác giả hay còn được hiểu như là các ngoại lệ của Quyền tác giả.
Luật Sở hữu trí tuệ quy định về các trường hợp giới hạn Quyền tác giả như sau:
2.4.1 Sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền thù lao
Theo quy định tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ trường hợp này bao gồm: Việc sử dụng tác phẩm hoàn toàn vào mục đích phi thương mại (như nghiên cứu khoa học, giảng dạy, sử dụng riêng); Việc sử dụng không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến Quyền tác giả.
Khi sử dụng phải tôn trọng các quyền nhân thân của tác giả. Cụ thể bao gồm các trường hợp:
Sao chép tác phẩm: nếu cá nhân hay tổ chức sao chép tác phẩm nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy hoặc sao chép để lưu trữ trong thư viện và không nhằm mục đích thương mại (phi lợi nhuận) thì sẽ không vi phạm về Quyền tác giả. Đồng thời quy định về việc sao chép này là sao chép không quá một bản và không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình và chương trình máy tính. Nhưng hiện nay việc xác định thế nào là mục đích thương mại thì không rõ ràng và còn rất mơ hồ. Tại sao lại nói như vậy? Bởi định nghĩa sao chép tác phẩm không quy định rõ ràng. Nếu đặt giả thiết cá nhân tự sao chép hoặc sao chụp để bán với giá thấp hơn so với giá quy định thì bị xử phạt ra sao vẫn chưa có quy định cụ thể. Hoặc trường hợp lợi nhuận gián tiếp như các đơn vị kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, trong một khóa học sẽ thu tiền toàn bộ tiền của người học trong đó bao gồm cung cấp tài liệu cho người học. Nhưng theo thực tế cho thấy thì hằng năm các đơn vị này đã không thực hiện nghĩa vụ trả tiền Quyền tác giả hoặc tài liệu xuất bản. Mà lại sao chụp sách cho người học hoặc đánh máy lại in để sao chụp cho người học sử dụng nhằm giảm chi phí. Và quy định tại Khoản 10 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ cũng không đề cập đến trường hợp cá nhân, tổ chức chỉ sao chép một phần tác phẩm gốc. Nếu đặt giả thiết các trường hợp trên xảy ra thì có được coi là HVVP Quyền tác giả hay không? Điều này đã thực sự gây ra khó khăn trong quá xác định và xứ lý hành vi xâm phạm Quyền tác giả. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Như trong trường hợp sau đây được không được xem là sao chép phục vụ nghiên cứu khoa học, giảng dạy: như chúng ta đã biết thì Công ty TNHH Văn hóa sáng tạo Trí Việt đã mua bản quyền nội dung của hai bộ giáo trình Tiếng anh từ Công ty Compass về. Nhưng trong qua trình lưu hành thì đã có dấu hiệu bị hai trường ngoại ngữ Đ và A copy, sao chụp làm nội dung giảng dạy trực tiếp cho học viên khi đăng ký học tại hai cơ sở này. “Theo phản ánh của học viên thì họ đã phải mua sách ở hai cơ sở này, với giá mắc hơn giá gốc do Nhà xuất bản Trẻ và Công ty TNHH Văn hóa sáng tạo Trí Việt phát hành. Qua quá trình khám xét điều tra thì các cơ quan đã phát hiện hai cơ sở này sao chụp, nhân bản nội dung sách với số lượng trên 350 cuốn”. Thực tế cho thấy, hiện nay xảy ra vô vàn các hành vi sao chụp bán hoặc phát miễn phí cho người học. Tình trạng này được xem như là một vấn nạn xâm phạm Quyền tác giả đáng báo động, cần có những quy định cụ thể hơn để tránh tình trạng khó khăn trong xử lý vi phạm.
Mặt khác, quy định về quyền sao chép vẫn còn tồn tại bất cập về mục đích khi sao chép tác phẩm. Khi quy định Luật Sở hữu trí tuệ chỉ cho phép cá nhân sao chép tác phẩm để phục nghiên cứu khoa học, giảng dạy mà không đề cập đến việc việc sao chép để phục vụ cho việc học tập. Như thế Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã không phù hợp với các điều ước tế mà Việt Nam là thành viên khi không đảm bảo hài hòa lợi ích chủ thể Quyền tác giả và lợi ích xã hội. Như vậy việc bổ sung thêm quy định về cá nhân sao chép phục vụ cho việc học tập là cần thiết, nhầm góp phần tăng cường hiệu quả trong việc giáo dục và chủ động trong việc học tập.
Từ những phân tích trên cũng như những tồn tại về đối tượng bị sao chép chúng ta có thể thấy được những bất cập về hành lang pháp lý trong thực tiễn thi hành pháp luật VN. Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung năm 2022) cũng đã cũng thay đổi tích cực cần quy định rõ ràng đối tượng được sao chép không chỉ là “toàn bộ tác phẩm”, mà còn có thể là “một phần tác phẩm”. Định nghĩa về “Sao chép” tại Khoản 10 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2022) đã được điều chỉnh theo hướng:“Sao chép là việc tạo ra bản sao của toàn bộ hoặc một phần tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”. Quy định này là hợp lý, vừa thể hiện tính tương thích với quy định tại Điều 18.58 Hiệp định CPTPP, vừa là căn cứ pháp lý quan trọng để xử lý hành vi sao chép “một phần tác phẩm” khi không phù hợp với quy định của pháp luật, khắc phục được thiếu xót trong quy định của Luật Sở hữu trí tuệ. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Tại điểm a, Khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung năm 2022) quy định: “Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại”. Điều luật sửa đổi lần này cụm từ “…để giảng dạy của cá nhân” được thay bằng cụm từ “…để học tập của cá nhân…”. Việc bổ sung thêm quy định sao chép để phục vụ cho việc “học tập” đã phần nào giúp cân bằng giữa lợi ích chủ sở hữu Quyền tác giả và lợi ích xã hội mà Luật Sở hữu trí tuệ trước đã không đề cập đến. Và một điểm mới nữa tại Điểm a Khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung nằm 2022) là quy định “không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép”. Chúng ta có thể hiểu rằng thiết bị sao chép ở đây là: máy photocopy, máy scan. Tuy nhiên việc sửa đổi lần này vẫn chưa làm rõ được vấn đề sau: bằng cách nào để nhận biết được rằng bản sao chép để dùng nghiên cứu khoa học và học tập của cá nhân có được sao chép từ thiết bị sao chép hay không? Hơn nữa, khi sao chép một cuốn sách để học tập hay nghiên cứu, cá nhân có thể sao chép bằng cách nào nếu không phải là photocopy hay scan lại cuốn sách đó? Nếu những vấn đề trên không được làm rõ thì quy định này vô hình chung có thể gây khó khăn trong việc học tập, nghiên cứu khoa học của cá nhân và trong việc thực thi Quyền tác giả.
Ngoài ra, cùng với việc sửa đổi bổ sung điều khoản này thì cũng cần có quy định về các biện pháp nhằm quản lý chặt chẽ, cũng như góp phần hoàn thiện nâng cao trách nhiệm, nhận thức của công chúng về Quyền tác giả nhằm tạo điều kiện cho việc thực thi quy định về các ngoại lệ Quyền tác giả này.
Trích dẫn tác phẩm: là việc “trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình”. Việc trích dẫn tác phẩm phải đáp ứng điều kiện: mang tính giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề trong tác phẩm của mình và phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng để trích dẫn không gây phương hại đến Quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn.
“Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu”.
“ Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại”.
Về cơ bản, việc trích dẫn tác phẩm phải thỏa mãn hai điều kiện sau: phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập; số lượng của phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng để trích dẫn không gây phương hại đến Quyền tác giả của tác phẩm được sử dụng để trích dẫn, phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Vì hiện nay, chưa có những hướng dẫn cụ thể về việc giải quyết tranh chấp Quyền tác giả về trích dẫn tác phẩm, nên khi xảy ra vấn đề thì vẫn còn tồn tại một số quan điểm khác nhau. Điển hình như: Vụ tranh chấp Quyền tác giả xảy ra giữa năm 2001 và 2003 giữa hai nhà nghiên cứu Kiều học nổi tiếng là ông NQT và ông ĐTT, theo đó ông NQT– nguyên đơn khởi kiện vụ án dân sự kiện ông ĐTT – bị đơn vì đã sử dụng (sao chép) nguyên văn 4 bài phê bình văn học Truyện Kiều của nguyên đơn mà không xin phép và cũng không trả thù lao. Năm 2001 bốn bài phê bình văn học của nguyên đơn được đăng trên Tạp chí Văn học, Báo Văn Nghệ và Tạp chí Văn nghệ nhưng được nguyên đơn phát hiện là đã bị sử dụng nguyên văn không xin phép để in trong cuốn sách của bị đơn có tên “Văn bản Truyện Kiều – Nghiên cứu và Thảo luận” do Nhà xuất bản Hội nhà văn phát hành năm 2001. Đến năm 2003 hai bên xảy ra tranh chấp và hệ quả là nguyên đơn khởi kiện vụ án xâm phạm Quyền tác giả. Cuốn sách của bị đơn có 2 phần, phần 1 là phân tích và bình luận của bị đơn về Truyện Kiều và phần 2 tổng hợp 10 bài viết của các tác giả khác về cùng chủ đề phê bình Truyện Kiều mà trong số 10 bài viết này có 4 bài viết của nguyên đơn.
Theo bản án dân sự sơ thẩm số 68/2006/DSST của TAND thành phố Hà Nội, tòa án đã phê duyệt đơn khởi kiện của nguyên đơn, tuyên rằng hành vi in nguyên văn 4 bài báo của nguyên đơn mà không có sự cho phép của nguyên đơn cấu thành hành vi xâm phạm Quyền tác giả theo đó lệnh buộc TT phải xin lỗi QT và bồi thường thiệt hại 26.040.000 VND. Theo đó ông TT đã kháng cáo vì ông cho rằng việc trích dẫn nhằm “bình chú, phê phán, thảo luận” như tiêu đề của tác phẩm chứ không lấy tác phẩm vì mục đích thương mại. Nên ông hoàn toàn không vi phạm về Quyền tác giả. Tiếp đó phiên tòa phúc thẩm ngày 14/6/2007 ông ĐTT lại tiếp tực đưa ra dân chứng là khi đưa 4 tác phẩm của ông NQT vào sách thì những tác phẩm đó đã được “trích dẫn”, có để tên tác giả, không nhằm mục đích kinh doanh. Cuốn sách là một tác phẩm sáng tạo toàn diện của ông NQT. Việc trích dẫn bốn bài viết trong quyển sách của mình là không xâm phạm Quyền tác giả của ông NQT. Theo quan điểm của tác giả thì việc ông Tôn nếu muốn bình luận những ý kiến của ông Tuân khi nghiên cứu về truyện Kiều thì không nhất thiết phải nêu toàn văn bài viết của ông. Căn cứ theo Theo Điều 760, Điều 761 Bộ luật Dân sự năm 1995 hành vi sử dụng tác phẩm của người khác mà không cần xin phép, trả thù lao cho tác giả là hành vi “trích dẫn tác phẩm mà không làm sai lạc ý của tác giả để bình luận hoặc minh hoạ trong tác phẩm của mình” và Điều 12 Nghị định số 76/CP quy định: “Phần trích dẫn tác phẩm đã công bố của người khác theo quy định tại điểm b, c, d khoản 1 Điều 761 của Bộ luật không trở thành phần chính của tác phẩm mới; phần trích dẫn này chỉ giới hạn trong phạm vi giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề trong tác phẩm của mình và phải ghi rõ tên tác giả và nguồn gốc tác phẩm được trích dẫn”. Qua quy định như trên ta có thể thấy được việc ông Tôn không được gọi là “Trích dẫn” khi đã sử toàn bộ bốn tác phẩm của ông Tuân vào tác phẩm của mình. Vì để bình luận những quan điểm của ông Tuân thì chỉ cần “Trích dẫn” đoạn văn cụ thể để thể hiện quan điểm đó chứ không cần phải “Trích dẫn” toàn bộ tác phẩm.
Qua những trường hợp nêu trên, thì chúng ta có thể thấy sự bất cập, hạn chế của pháp luật trong giải quyết các vấn đề liên quan đến quy định trích dẫn tác phẩm. Theo đó, thì Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ là điều luật chính quy định một cách có hệ thống các hành vi được xác định là HVVP Quyền tác giả, nhưng không có khoản nào quy định một cách cụ thể hành vi trích dẫn không hợp pháp là HVVP Quyền tác giả, mà chỉ có các điều khoản mang tính chất chung chung. Và quy định tại Điểm b, Điểm c, Điểm d Khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ cũng không đồng nhất khi tại Điểm b quy định “Trích dẫn hợp lý” còn Điểm c và Điểm d thì lại chỉ quy định “Trích dẫn tác phẩm”. Điều này dể gây ra sự hiểu lầm và khó xác định được việc trích dẫn như thế nào là “hợp lý” và đúng quy định đảm bảo “không làm sai ý tác giả”. Bên cạnh đó, việc có quy định về dung lượng khi “Trích dẫn” vẫn chưa được đề cập, gây ra nhiều khó khăn trong áp dụng thực tiễn và sẽ có thể xảy ra những trường hợp như vụ việc của ông NQT và ông ĐTT, mặc dù đã xảy ra từ năm 2006 nhưng đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể về vấn đề này.
Đề xuất, kiến nghị: Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Cần có quy định thống nhất về việc trích dẫn tác phẩm hạn chế gây ra sự hiễu lầm và đảm bảo được sự “hợp lý” trong quá trình trích dẫn tác phẩm. Bên cạnh đó, cần phải có quy định về dung lượng khi “Trích dẫn”. Để bình luận, giới thiệu, minh họa về một tác phẩm chỉ nên trích dẫn một phần tác phẩm gốc. Điều này là cần thiết cho việc đảm bảo lợi ích giữa người trích dẫn và chủ sở hữu Quyền tác giả của tác phẩm gốc cũng như dể dàng áp dụng trong thực tiễn.
Tại Điểm đ Khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ (Sửa đổi, bô sung năm 2022) nội dung này đã được khắc phục trong quy định về trích dẫn tác phẩm, theo đó “Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu”. Tác giả đồng tình với điểm mới này trong Luật Sở hữu trí tuệ (Sửa đổi, bổ sung năm 2022) khi đã đồng nhất quy định về việc trích dẫn tác phẩm. Từ đó việc áp dụng trong thực tiễn đảm bảo hơn, góp phần bảo vệ tốt nhất cho tác giả, chủ sở hữu Quyền tác giả khi bị xâm phạm.
Bên cạnh những trường hợp nổi bật đã được phân tích như trên, tại các Điểm đ, e, g, h, i, k Khoản 1 Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ còn quy định về các trường hợp khác như: (i) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào; (ii) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy; (iii) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó; (iv) Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị; (v) Nhập khẩu một bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2.4.2. Sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ quy định về các trường hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao. “Đây là khai thác, sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền”. Theo quy định tại Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ thì việc tổ chức, phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng dù chương trình đó có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền hay không thì không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu Quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán có thể do các bên thỏa thuận hoặc thực hiện theo quy định của Chính phủ. Cần phân biệt hai trường hợp: (a) Nếu tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm cho các chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo, thu tiền thì tổ chức này và chủ sở hữu Quyền tác giả có quyền thỏa thuận về mức thù lao, nhuận bút, các lợi ích vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận. (b) Nếu tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm cho các chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo, không thu tiền thì phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu Quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính Phủ.
Ví dụ: Công ty B hoạt động trong lĩnh vực truyền thông, quảng cáo tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm điện ảnh của đạo diễn X (đã công bố), có thu vé vào cửa nhằm lấy tiền thu được để quyên góp đồng bào lũ lụt miền Trung (dù có thu vé hay không thu vé theo quy định trên vẫn phải trả tiền. nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu Quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ hoặc do các bên tự thoả thuận).
Việc sử dụng các tác phẩm phải theo quy định của pháp luật, không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến Quyền tác giả, chủ sở hữu Quyền tác giả. Tuy nhiên quy định tại Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ lại bỏ sót trường hợp không xác định được chủ sở hữu Quyền tác giả. Trường hợp tổ chức, cá nhân cần sử dụng đúng một tác phẩm đó mà không thể tìm và liên hệ được với chủ sở hữu Quyền tác giả hay đó là một tác phẩm khuyết danh thì phải làm như thế nào? Việc quy định không rõ ràng đã gây ra khó khăn về mặt pháp lý cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng tác phẩm. Nếu sử dụng tác phẩm mà không xác định chủ sở hữu Quyền tác giả để trả tiền nhuận bút, thù lao thì lại vi phạm Quyền tác giả.
Đề xuất, kiến nghị: Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Để tạo hành lang pháp lý hữu hiệu hơn trong việc xác lập về bảo hộ Quyền tác giả nên có quy định về trường hợp trả tiền thù lao, nhuận bút đối việc sử dụng tác phẩm khuyết danh hay không tìm thấy chủ sở hữu tác phẩm. Điều này sẽ dể dàng hơn cho các chủ thể có nhu cầu sử dụng tác phẩm mà không lo về việc vi phạm Quyền tác giả.
Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung năm 2022) đã bổ sung thêm khoản 5 Điều 26 như sau: “Tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác, sử dụng tác phẩm đã công bố của tổ chức, cá nhân Việt Nam nhưng không thể tìm kiếm được hoặc không xác định được chủ sở hữu Quyền tác giả thì thực hiện theo quy định của Chính phủ”. Việc bổ sung này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn thực thi pháp luật về Quyền tác giả hiện nay. Thực tế cho thấy có nhiều trường hợp mặc dù rất muốn biết về nguồn gốc tác phẩm mình dự định sử dụng để xin phép và trả tiền bản quyền để sử dụng tác phẩm đó nhưng không có cách nào để tìm ra chủ sở hữu Quyền tác giả tác phẩm đó. Với quy định mới này thì các bất cập trên đã có thể khắc phục được khó khăn trong thực thi pháp luật trong thực tiễn. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Nhà nước cần quy định rõ về mức thu phí làm sao để hài hòa giữa quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu, bên sử dụng tác phẩm và lợi ích chung của cộng đồng.
2.5. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
“Giới hạn về thời gian bảo hộ là việc quy định thời hạn bảo hộ, với quan điểm Quyền tác giả không thể là vô hạn. Luật Sở hữu trí tuệ đưa ra thời gian bảo hộ nhất định đối với từng loại hình tác phẩm cụ thể, với mục đích chính là nhằm bảo vệ toàn vẹn nhất cho quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu Quyền tác giả, đồng thời khuyến khích sự phát triển văn hóa, tạo nguồn cảm hứng sáng tạo”. Trong khoảng thời gian đó các quyền của chủ sở hữu Quyền tác giả đều được bảo đảm. Tuy nhiên khi kết thúc thời gian bảo hộ cá nhân, tổ chức sử dụng tác phẩm vẫn phải đảm bảo sự toàn vẹn của tác phẩm, tôn trọng quyền đứng tên, quyền đặt tên vì đây là các quyền được bảo hộ vô hạn.
Theo quy định tại Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ có hai cách tính thời hạn bảo hộ Quyền tác giả:
Đối với tác phẩm điện ảnh, sân khấu, mĩ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh là những tác phẩm có thời hạn bảo hộ không tính theo nguyên tắc đời người.
Đối với tác phẩm di cảo thời hạn bảo hộ là 50 năm kể tính từ ngày đầu tiên tác phẩm được công bố.
TP mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, điện ảnh, tác phẩm khuyết danh thời hạn bảo hộ là 75 năm kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu. Đối với trường hợp tác phẩm chưa được công bố trong thời hạn là 25 năm kể từ khi tác phẩm được hình thành thì thời hạn bảo hộ trong trường hợp này là 100 năm.
Các loại hình tác phẩm còn lại (văn học – nghệ thuật) thì thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời. Tại một số quốc gia Châu Âu thì thời hạn này là 70 năm sau khi tác giả qua đời.
Năm tính trong thời hạn bảo hộ Quyền tác giả được tính như sau thời hạn bảo hộ sẽ chấm dứt vào 24g00 ngày 31 tháng 12 năm cuối cùng của thời hạn bảo hộ Quyền tác giả theo quy định. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Với mỗi loại hình tác phẩm sẽ có thời hạn bảo hộ Quyền tác giả khác nhau tùy theo bản chất và từng trường hợp cụ thể. tác phẩm điện ảnh cũng vậy, bản chất của tác phẩm này cũng sẽ có những nét đặc trưng riêng biệt. Vì thế mà thời hạn Quyền tác giả bảo hộ đối với loại hình này cũng sẽ khác biệt. Việc quy định này vừa giúp tác giả, chủ sở hữu công bố tác phẩm phục vụ xã hội, vừa đảm bảo cân bằng lợi ích giữa loại hình tác phẩm tính thời hạn bảo hộ theo nguyên tắc đời người và loại hình tác phẩm tính thời hạn bảo hộ theo nguyên tắc định hình hoặc công bố; đồng thời để bảo đảm sự công bằng cho người Việt Nam với người nước ngoài khi áp dụng thời hạn bảo hộ này.
Như vậy, thời hạn bảo hộ quyền công bố tác phẩm điện ảnh được quy định như sau: Quyền công bố tác phẩm điện ảnh có thời hạn bảo hộ là 75 năm kể từ khi tác phẩm này được công bố lần đầu tiên; Nếu tác phẩm điện ảnh chưa được công bố trong thời hạn 25 năm kể từ khi được định hình thì thời hạn bảo hộ quyền công bố là 100 năm kể từ khi tác phẩm được định hình.
2.6. Hành vi xâm phạm quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh
Xâm phạm Quyền tác giả cũng như quyền Sở hữu trí tuệ hiện nay diễn ra khá phổ biến, đặc biệt với sự phát triển của công nghệ thông tin những HVVP Quyền tác giả ngày càng trở nên phức tạp. Thực trạng này này diễn ra ngày càng nhiều và rộng rãi bởi tốc độ của công nghệ thông tin trên Internet với độ phủ sóng làm cho những hành vi xâm phạm Quyền tác giả ngày càng trở nên phổ biến. Để khắc phục tình trạng này, thời gian qua Việt Nam đã gia nhập vào các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng.
2.6.1. Quy định của Điều ước quốc tế Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Một là, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật được ký tại Bern (Thụy Sĩ) năm 1886. Việt Nam chính thức trở thành viên của Công ước Berne ngày 26 tháng 10 năm 2004.
Theo Điều 2 Công ước này quy định bảo hộ các tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không có sự phân biệt về nội dung, phương tiện, ngôn ngữ, hình thức, chất lượng…, thì đều được công ước bảo hộ dưới bất kì hình thức nào và nếu vi phạm thì đều bị xử lý theo chế tài của pháp luật. Ngoài ra thì các tác phẩm có xuất xứ từ bất kỳ một nước thành viên nào của Công ước, thì đều được bảo hộ ở các nước thành viên khác.
Ví dụ: khi đăng kí bảo hộ Quyền tác giả đối với một bộ phim ở Việt Nam. Thì qua nước Pháp bộ phim đó cũng sẽ được bảo hộ. Vì Pháp cũng là một trong những những thành viên của Công ước Berne. Theo Công ước thì Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh là tự động, có nghĩa là việc bảo hộ tác phẩm điện ảnh không phụ thuộc vào thủ tục đăng kí, nộp lưu chuyển hay các thủ tục tương tự. Công ước Berne cho phép tác giả được hưởng tác quyền suốt đời cộng thêm tối thiểu 50 năm sau đó. Điều này cũng được Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam thể hiện tại Điều 27 về thời hạn bảo hộ Quyền tác giả.
Công ước quy định việc bảo hộ được tiến hành là vì lợi ích của bản thân tác giả và những người thừa kế của họ. Riêng đối với tác phẩm điện ảnh, các nước thành viên có thể quy định đối tượng đầu tiên có quyền đối với tác phẩm điện ảnh là nhà sản xuất, tiếp đó mới là đạo diễn, người viết kịch bản hay những người khác liên quan.
Công ước dành cho tác giả các quyền kinh tế như độc quyền biên dịch, điều chỉnh và sắp xếp lại tác phẩm; biểu diễn kịch; nhạc kịch; thông tin cho công chúng về việc trình diễn các tác phẩm; truyền thanh; sao chép lại dưới bất kỳ hình thức hay phương pháp nào; sử dụng tác phẩm làm cơ sở cho một tác phẩm nghe, nhìn; sản xuất, phân phối, trình diễn trước công chúng và thông tin cho công chúng biết về tác phẩm nghe nhìn. Đồng thời Công ước cũng thừa nhận sự bảo hộ đối với các quyền tinh thần của tác giả như quyền về danh nghĩa tác giả, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm. Những hành vi cắt xén, làm sai lệch hoặc các HVVP đến nội dung tác phẩm thì sẽ đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Để đảm bảo sự cân bằng thích hợp giữa người nắm Quyền tác giả và người sử dụng tác phẩm. Tại Khoản 2 Điều 9 Công ước này quy định rằng: “Luật pháp quốc gia thành viên Liên hiệp, trong vài trường hợp đặc biệt, có quyền cho phép sao in những tác phẩm nói trên, miễn là sự sao in đó không phương hại đến việc khai thác bình thường tác phẩm hoặc không gây thiệt thòi bất hợp lý đến những quyền lợi hợp pháp của tác giả” và Điều 10 quy định “Được coi là hợp pháp những trích dẫn rút từ một tác phẩm đã được phổ cập tới công chúng một cách hợp pháp, miễn là sự trích dẫn đó phù hợp với những thông lệ đúng đắn và không vượt quá mục đích trích dẫn, kể cả những trích dẫn các bài báo và tập san định kỳ dưới hình thức điểm báo”. Như vậy hai điều của công ước này quy định một số trường hợp ngoại lệ được quyền sao chép trích dẫn các tác phẩm miễn là thực thực hiện hợp pháp và không ảnh hưởng đến quyền lợi của tác giả. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Có thể thấy rằng bên cạnh những lợi ích mà công ước Berne mang lại đối với Việt Nam nói riêng và các quốc gia khác nói chung đều là rất lớn. Nhưng bên cạnh đó khi tham gia vào Công ước này thì Việt Nam còn gặp phải một số vướng mắc còn tồn tại. Điển hình là Quyền tác giả nói chung và đặc biệt là tác giả nước ngoài bị xâm phạm ở mức độ cao. “Xuất phát từ đặc thù của Việt Nam là Nhà nước độc quyền xuất bản”.[27] Vì vậy, có hiện tượng các cơ quan, tổ chức kinh doanh Nhà nước có thẩm quyền trên lĩnh vực này xâm phạm Quyền tác giả của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, sao chép và phổ biến các bản sao tác phẩm nước ngoài để sử dụng trong nước. Tiếp đó, một số cá nhân, tổ chức kinh doanh văn hóa phẩm tư nhân lại tiến hành nhân bản những bản sao của các cơ quan, tổ chức kinh doanh nói trên để bán hoặc sử dụng chúng vào mục đích thương mại. Ngoài ra còn phải kể đến tình trạng nhiều tác phẩm nước ngoài được nhập lậu vào Việt Nam để rồi lại được các cá nhân, tổ chức kinh doanh tư nhân nhân bản và phổ biến trên quy mô thương mại với giá rất thấp, cạnh tranh với các tổ chức kinh doanh văn hóa phẩm của Nhà nước và lấn át các tác phẩm của tác giả trong nước. Đây chỉ là phần nhỏ trong vô vàn những thực trạng mà Việt Nam đang đối mặt khi tham gia Công ước này. Qua phân tích chúng ta có thể thấy rằng để phù hợp với Công ước Berne thì các cơ quan nhà nước cần có một kế hoạch sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật hiện hành về Quyền tác giả cho phù hợp với thực tiễn để thi hành công ước một cách có hiệu quả.
Hai là, Công ước Rome bảo hộ người biểu diễn, người sản xuất chương trình ghi âm, tổ chức phát sóng được kí kết vào ngày 26 tháng 10 năm 1961 tại Rome. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Nội dung của Công ước Rome nhằm bảo hộ các chương trình biểu diễn nghệ thuật, âm nhạc của người sản xuất các chương trình này. Các nghệ sĩ trong các loại hình biểu diễn như diễn viên điện ảnh, ca sĩ, nhạc sĩ, nghệ sĩ múa được ngăn chặn các hành vi mà họ không muốn như truyền thanh, thông tin cho công chúng về buổi biểu diễn của họ, thu âm, ghi hình chương trình biểu diễn của mình.
Người biểu diễn được bảo hộ chương trình biểu diễn, chống lại các hành vi không được sự đồng ý của họ. Nhà sản xuất bản ghi âm được hưởng quyền cho phép hoặc cấm sao chép trực tiếp (hoặc gián tiếp) các bản ghi âm của họ. “Tổ chức phát sóng được hưởng quyền cho phép hoặc cấm các hành vi tái phát sóng chương trình phát sóng, sao chép các bản định hình chương trình phát sóng”.[28]
Kể từ ngày công ước Rome có hiệu lực tại Việt Nam, các cơ quan, tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp, Đài phát thanh, Đài truyền hình có nhu cầu sử dụng các chương trình biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng của các nước thành viên Công ước Rome phải liên hệ với các đối tác để xin phép, thỏa thuận việc sử dụng, tránh những tranh chấp không đáng có.
Ba là, Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Tuy không nêu cụ thể hành vi nào được xem là HVVP quyền Sở hữu trí tuệ.
Nhưng tại các điều khoản của Hiệp định lại phân tích rõ bản chất của các HVVP mà các bên tham gia đã đồng ý thống nhất.
Điều 18.58 Hiệp định CPTPP quy đinh về quyền sao chép: “Mỗi bên phải quy định rằng tác giả, người biểu diễn, và nhà sản xuất bản ghi âm được độc quyền cho phép hoặc cấm tất cả việc sao chép tác phẩm, cuộc biểu diễn hoặc bản ghi âm của mình theo bất kỳ cách thức hoặc hình thức nào, bao gồm cả hình thức điện tử”. Theo đó, các nước thành viên phải tự quy định hoặc bằng các hình thức khác ghi nhận trong pháp luật của mình để đảm bảo người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quyền độc quyền cho phép sự sao chép tác phẩm, cuộc biểu diễn và bản ghi âm của họ với bất kỳ hình thức nào bao gồm cả dưới dạng điện tử, cũng như được cấm sự sao chép các đối tượng quyền liên quan dưới bất kỳ hình thức nào. Luật Sở hữu trí tuệ vẫn chưa có quy định rõ ràng cụ thể chỉ mang tính chất chung chung về khái niệm cũng như các hành vi sao chép tác phẩm so với Hiệp định CPTPP. Đây được xem như là một lỗ hổng trong hệ thống pháp luật mà Việt Nam cần phải khắc phục nhanh chóng để giảm thiểu được số lượng HVVP về Quyền tác giả.
Theo quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung năm 2022), sao chép không chỉ tạo ra bản sao của toàn bộ mà còn tạo ra bản sao một phần của tác phẩm. Theo đó luật này đã định nghĩa lại khái niệm về sao chép, việc sửa đổi này theo tác giả là phù hợp với thực tiễn của xã hội, thể hiện nội dung một cách bao quát, rõ ràng và đầy đủ hơn. Đồng thời đây cũng là căn cứ pháp lý để pháp luật xử lý những hành vi sao chép một phần tác phẩm khi không có sự đồng ý của chủ sở hữu Quyền tác giả hay quy định của pháp luật, khắc phục được thiếu sót trong quy định của luật Sở hữu trí tuệ. Việc sửa đổi này hoàn toàn phù hợp với Điều 18.58 Hiệp định quy định về quyền sao chép. Điều này thể hiện Việt Nam đang dần hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý, giúp các quy định được thống nhất hơn, khi đi vào thực tiễn sẽ dễ dàng thi hành hơn.
Điều 18.59 CPTPP quy định “mỗi bên phải quy định cho tác giả độc quyền cho phép hoặc cấm truyền đạt tới công chúng tác phẩm của mình, bằng phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến, bao gồm cả việc phổ biến đến công chúng tác phẩm của mình theo cách mà công chúng có thể tiếp cận các tác phẩm này từ địa điểm và tại thời điểm do chính họ lựa chọn”. Theo tinh thần của Điều 18.61 Hiệp định CPTPP hành vi sử dụng Quyền tác giả mà không được sự cho phép của chủ thể có quyền thì được xem là HVVP Quyền tác giả. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Đề xuất, kiến nghị:
Việc gia nhập CPTPP là một bước tiến lớn trong quá trình hoàn thiện pháp luật về Sở hữu trí tuệ, bởi nó chứa đựng các tiêu chuẩn bảo hộ cao hơn và chi tiết. Vì vậy, để hoàn thiện pháp luật nhằm đáp ứng các cam kết của Hiệp định CPTPP, Việt Nam cần thực hiện những công việc trọng tâm dưới đây.
Một là, các quy định về bảo hộ Quyền tác giả, quyền liên quan đến Quyền tác giả trong môi trường internet cần được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Hiệp định CPTPP đã quy định rất rõ về các quy định bảo hộ Quyền tác giả, quyền liên quan và trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ trung gian trong ISP. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam quy định còn sơ sài khi vấn đề này chỉ được điều chỉnh tại Thông tư số 07/2012/TTLTBTTTT-BVHTTDL. Về nguyên tắc, việc quy định trách nhiệm của các ISP phải bảo đảm cân bằng giữa 2 lợi ích: (i) thúc đẩy sự phát triển các dịch vụ trung gian trực tuyến; (ii) cho phép các chủ thể quyền đối phó một cách hiệu quả với hành vi xâm phạm bản quyền xảy ra trong môi trường internet. Chính vì vậy, các nước thành viên của CPTPP phải xây dựng pháp luật chặt chẽ, “quy định rõ trách nhiệm của ISP đối với HVVP Quyền tác giả, quyền liên quan của người sử dụng dịch vụ trung gian do mình cung cấp, mặt khác phải quy định rõ những “giới hạn an toàn” cho phép ISP được miễn trừ trách nhiệm”.
Hai là, các HVVP Quyền tác giả được quy định tại Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ chỉ mang tính chất liệt kê mà chưa có sự giải thích cụ thể. Do đó, việc áp dụng các quy định này để xác định hành vi xâm phạm Quyền tác giả trên thực tế trở nên khó khăn, chủ yếu định nghĩa các hành vi theo nghĩa thông thường….
Vì vậy, pháp luật cần có những quy định cụ thể giải thích về HVVP Quyền tác giả. Một trong những cơ chế rất hiệu quả hiện nay mà chúng ta đang xây dựng là hệ thống án lệ. Có thể từng HVVP Quyền tác giả nếu được quy định quá chi tiết trong luật hay các văn bản hướng dẫn thì việc áp dụng chưa thực sự tốt, nhưng nếu có hệ thống án lệ về Quyền tác giả thì có thể giải quyết hữu hiệu vấn đề này. Đây cũng chính là cơ chế bảo hộ được xây dựng bởi nhiều quốc gia phát triển hiện nay.
2.6.2. Quy định của Pháp luật Việt Nam Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Hoạt động bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ ở nước ta được bắt đầu triển khai từ những năm 80, nhưng chỉ từ khi Quốc hội ban hành bộ Luật Dân sự năm 1995 thì hoạt động này mới bắt đầu tiến triển. Đặc biệt, từ khi Quốc hội ban hành Luật Sở hữu trí tuệ và Việt Nam là thành viên chính thức của WTO thì hoạt động này trở nên sôi động với tất cả các dạng tài sản trí tuệ được bảo hộ. Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng các văn bản pháp luật về Sở hữu trí tuệ nhưng vấn đề thực thi là một điểm yếu cần phải khắc phục.
Tại Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ, quy định các hành vi như chiếm đoạt Quyền tác giả tại Khoản 1 Điều 28; mạo danh tác giả Khoản 2 Điều 28. Ngoài ra điều luật còn đề cập tới các hành vi xâm phạm quyền nhân thân khác như: Công bố tác phẩm mà không được phép của tác giả tại Khoản 3 Điều 28; công bố tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó tại Khoản 4 Điều 28; sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả tại Khoản 5 Điêu 28 thì đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy rằng, pháp luật Sở hữu trí tuệ cũng chưa phân biệt rõ hành vi chiếm đoạt Quyền tác giả với trường hợp mạo danh tác giả. Ở đây cho thấy một điều khá rõ ràng, hành vi mạo danh tác giả là hành vi đưa tên người không phải là tác giả lên bản sao tác phẩm, làm cho công chúng hiểu nhầm người đó là tác giả thực hiện một phần hay toàn bộ tác phẩm. Hành vi này thường do những chủ thể không phải là tác giả thực hiện như lấy toàn bộ hay một phần tác phẩm của người khác rồi đề tên mình vào vị trí của tác giả.
Ngoài việc mạo danh đối với toàn bộ nội dung tác phẩm, trường hợp khá phổ biến trên thực tế là việc trích dẫn một đoạn tác phẩm mà không nêu rõ nguồn gốc trích dẫn, người thực hiện hành vi xâm phạm này đã tự nhận “đoạn tác phẩm” đó là của mình. Hành vi này cũng là mạo danh tác giả. Còn với hành vi chiếm đoạt Quyền tác giả là lấy toàn bộ nội dung tác phẩm của người khác. Tuy nhiên khác với hành vi mạo danh chỉ xâm phạm đến quyền nhân thân của tác giả và có thể mạo danh đối với toàn bộ hoặc một phần tác phẩm, hành vi chiếm đoạt Quyền tác giả được hiểu là việc biến tác phẩm của người khác thành tác phẩm của mình để được hưởng các lợi ích từ Quyền tác giả. Theo cách hiểu này thì hành vi “chiếm đoạt Quyền tác giả” là hành vi khai thác các Quyền tác giả đối với tác phẩm mà không được phép. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả: Đây là hành vi vi phạm diễn ra khá phổ biến trong các hoạt động sử dụng tác phẩm như: xuất bản, biểu diễn, sản xuất bản ghi âm, ghi hình. Theo quy định tại khoản 5 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ, hành vi chỉ coi là hành vi xâm phạm nếu việc “sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm”, “gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả”. Theo quy định này thì việc sửa chữa, cắt xén không gây phương hại đến danh dự, uy tín của tác giả, thậm chí làm cho tác phẩm hay hơn thì không bị coi là xâm phạm Quyền tác giả, quyền Sở hữu trí tuệ. Hướng dẫn tại khoản 3 Điều 20 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP cũng không thống nhất với Luật Sở hữu trí tuệ, theo đó, quyền bảo vệ sự toàn vẹn đối với tác phẩm quy định tại khoản 4 Điều 19 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm hoặc sửa chữa, nâng cấp chương trình máy tính trừ trường hợp có thoả thuận của tác giả. Theo tinh thần của quy định này, bất cứ việc sửa chữa, cắt xén tác phẩm nào mà không có sự đồng ý của tác giả thì đều bị coi là xâm phạm Quyền tác giả. Việc sửa chữa, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào có thể làm ảnh hưởng đến giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm, làm sai lệch, thậm chí bóp méo tư tưởng, chủ đề mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm của họ. Vì vậy, không có chủ thể nào khác ngoài tác giả có quyền thay đổi nội dung của tác phẩm kể cả trong trường hợp việc thay đổi nhằm làm tăng giá trị nghệ thuật, giá trị thực tiễn của tác phẩm, trừ trường hợp được tác giả cho phép.
Khoản 7 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu Quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phải sinh, trừ trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 25 của Luật này” là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Theo quy định của Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ, quyền làm tác phẩm phái sinh thuộc độc quyền của chủ sở hữu Quyền tác giả. Do đó, khi người khác tạo ra tác phẩm phái sinh trên cơ sở tác phẩm gốc như: dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn… tác phẩm thì phải xin phép (nếu tác phẩm chưa được công bố), trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu tác phẩm gốc. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Nghị định 105/2006/NĐ-CP chỉ đề cập đến hai hành vi xâm phạm Quyền tác giả kể trên. Trong khi đó, Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ còn quy định về các hành vi xâm phạm quyền tài sản của tác giả, bao gồm các hành vi: Phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả tại Khoản 3, và phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó tại Khoản 4; Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu Quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác tại Khoản 8; Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu Quyền tác giả tại Khoản 9;
Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu Quyền tác giả tại Khoản 10; Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu Quyền tác giả tại Khoản 11; Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu Quyền tác giả tại Khoản 16. Hành vi phân phối tác phẩm được hiểu là việc thực hiện bằng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được để bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác bản gốc hoặc bản sao tác phẩm. Tương tự như quyền sao chép, khái niệm quyền phân phối cũng được mở rộng để phù hợp với sự phát triển của môi trường kỹ thuật số. Phân phối tác phẩm có thể thực hiện bằng bất kỳ hình thức hay phương tiện kỹ thuật nào, ví dụ việc bán bản sao tác phẩm có thể được thực hiện trên internet. Theo khoản 3 Điều 21 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP, quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm quy định tại điểm d khoản 1 Điều 20 của Luật Sở hữu trí tuệ là quyền của chủ sở hữu Quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện bằng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được để bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác bản gốc hoặc bản sao tác phẩm.
Khoản 3 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm hai hành vi: công bố và phân phối tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu Quyền tác giả. Quy định như vậy chưa thực sự hợp lý, bởi lẽ hai hành vi trên xâm phạm đến các quyền khác nhau thuộc Quyền tác giả, cụ thể là: hành vi công bố tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu Quyền tác giả là hành vi xâm phạm quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm- quyền nhân thân của tác giả tại Khoản 3 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ; trong khi đó hành vi phân phối tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu Quyền tác giả là hành vi xâm phạm quyền phân phối tác phẩm – quyền tài sản của tác giả tại Điểm d Khoản 1 Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy, sẽ là hợp lý hơn nếu Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ quy định theo hướng tách riêng hai hành vi trên. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Với sự thay đổi nhanh chóng trong cách thức thể hiện tác phẩm trong thời đại hiện nay, các phương tiện truyền tải tác phẩm cũng ngày càng phong phú, đa dạng hơn, cho phép việc chuyển tải tác phẩm đến công chúng với phạm vi không bị hạn chế trong thời gian nhanh chất, chất lượng tốt nhất. Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ ghi nhận “Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác” là một trong các độc quyền thuộc Quyền tác giả. Chủ sở hữu Quyền tác giả có độc quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng bất kỳ phương tiện nào mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn. Đây cũng là quy định thể hiện sự tiếp cận mới của pháp luật Việt Nam đối với việc bảo hộ Quyền tác giả trong kỷ nguyên kỹ thuật số, khi mà internet trở thành một phương tiện truyển tải tác phẩm phổ biến với những đặc thù: truyền đạt tác phẩm không bị hạn chế về phạm vi lãnh thổ; công chúng có thể tiếp cận tại bất kỳ đâu, bất kỳ thời điểm nào do họ lựa chọn.
Liên quan đến hành vi xâm phạm các biện pháp bảo vệ Quyền tác giả, Điểm đ Khoản 1 Điều 7 Nghị định 105/2006/NĐ-CP quy định yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét là: “Sản phẩm có gắn thiết bị kỹ thuật bảo vệ Quyền tác giả bị vô hiệu hóa trái phép”. Hành vi xâm phạm quyền ở đây là hành vi làm vô hiệu hóa các thiết bị kỹ thuật để bảo vệ Quyền tác giả. Tuy nhiên, khoản 14 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ khi quy định về các hành vi xâm phạm còn quy định việc “Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu Quyền tác giả thực hiện để bảo vệ Quyền tác giả đối với tác phẩm của mình” cũng là hành vi xâm phạm.
Theo quy định này thì hành vi xâm phạm Quyền tác giả không chỉ là những hành vi tác động trực tiếp để làm vô hiệu hóa các thiết bị bảo vệ Quyền tác giả, mà còn bao gồm những hành vi làm tiền đề cho hành vi xâm phạm kể trên như sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê những thiết bị này cũng là hành vi xâm phạm.
Khoản 13 Điều 28 quy định hành vi “cố ý xoá, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm” là hành vi xâm phạm Quyền tác giả. Các chủ thể quyền có thể áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm Quyền tác giả bằng cách đưa các thông tin quản lý quyền gắn với bản gốc, bản sao tác phẩm; hoặc đưa thông tin quản lý quyền xuất hiện cùng với việc truyền đạt tác phẩm tới công chúng nhằm xác định tác phẩm, tác giả của tác phẩm, chủ sở hữu quyền, thông tin về thời hạn, điều kiện sử dụng tác phẩm và mọi số liệu hoặc mã, ký hiệu thể hiện thông tin đó để bảo vệ Quyền tác giả. Đồng thời các chủ thể quyền có thể áp dụng các biện pháp công nghệ để bảo vệ các thông tin quản lý quyền, ngăn chặn các hành vi tiếp cận tác phẩm, khai thác bất hợp pháp quyền sở hữu của mình theo quy định của pháp luật. Các thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm có thể là: mã nguồn của các chương trình, các mã chống sao chép, các mã cho phép số lần sử dụng hay thời hạn sử dụng đĩa CD, VCD chứa tác phẩm… Điều 18.69 CPTPP quy định hành vi gỡ bỏ hoặc làm thay đổi thông tin quản lý quyền… trên tác phẩm hành vi xâm phạm Quyền tác giả. Như vậy, việc bảo hộ Quyền tác giả đã được mở rộng, không chỉ giới hạn ở hành vi xâm phạm quyền mà thậm chí đối với những hành vi xâm phạm công nghệ bảo vệ tác phẩm, hoặc xâm phạm vào các thông tin quản lý quyền. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Theo những phân tích trên, về mặt lý luận và pháp lý, có thể thấy rằng chỉ khi có hành vi được quy định liệt kê tại Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ thì mới được xem là HVVP và phải chịu chế tài pháp lý, trường hợp khác, chẳng hạn có hành vi không tuân thủ theo quy định tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ về trích dẫn hợp lý, nhưng vì Điều 28 không quy định rõ ràng là HVVP, do vậy không thể áp dụng quy định này để xử lý, thậm chí nếu áp dụng sẽ dẫn đến sự khiên cưỡng, thiếu thống nhất. Mặc dù luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản pháp luật liên quan của Việt Nam đã tạo được khung pháp lý tương đối đầy đủ cho việc bảo hộ đối với Quyền tác giả. Nhưng trong thực tiễn, tình trạng xâm phạm Quyền tác giả nhiều nhất là trong lĩnh vực điện ảnh hiện nay vẫn còn ở mức độ rất phổ biến, phức tạp và đa dạng bằng nhiều hình thức khác nhau. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
HVVP này xảy ra ngày càng nhiều, và khó kiểm soát không những về mặt số lượng mà còn về mức độ đa dạng và các lĩnh vực xâm phạm như: điện ảnh, tạo hình, báo chí, phát thanh sân khấu, chương trình máy tính…. Hằng năm, các cơ quan chức năng của nước ta đã xử phạt hàng tỷ đồng với HVVP bản quyền, xâm phạm quyền riêng tư… “Ðơn cử như theo thống kê của VTVcab – một đơn vị cung cấp nội dung nhiều chương trình lớn, trong năm 2020, phải xử lý hơn 30 nghìn video lậu trên facebook, hơn 8 nghìn video lậu trên youtube và các nền tảng mạng xã hội; thiệt hại hơn 40 tỷ đồng tiền bản quyền, hàng trăm tỷ đồng từ nguồn thu quảng cáo và doanh thu thuê bao. Không chỉ gây thiệt hại lớn về kinh tế, việc chiếm đoạt trái phép tác phẩm có bản quyền còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, danh dự của người sáng tạo. Công chúng thì không được thưởng thức tác phẩm đúng nghĩa, bởi các sản phẩm sao chép, miễn phí khó có thể bảo đảm chất lượng như tác phẩm gốc”.
Tuy nhiên các hành vi xâm phạm Quyền tác giả được quy định tại Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ hiện nay chỉ mang tính chất liệt kê mà không có sự giải thích cụ thể dẫn đến việc áp dụng để xác định hành vi xâm phạm Quyền tác giả trở nên khó khăn. Chẳng hạn, những hành vi như “chiếm đoạt Quyền tác giả”,“mạo danh tác giả” không được giải thích cụ thể mà chủ yếu được hiểu theo nghĩa thông thường nên việc áp dụng trên thực tế chưa thuyết phục. Hành vi “sao chép” tác phẩm mặc dù có quy định giải thích nhưng dường như cũng chưa rõ ràng bởi đây là hành vi cực kỳ phức tạp, đặc biệt là liên quan đến việc sao chép một phần tác phẩm. Việc Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ liệt kê mười sáu nhóm hành vi xâm phạm dưới dạng một quy định đóng, tức là giới hạn về các hành vi bị xem là xâm phạm Quyền tác giả, dẫn đến sự lỗi thời trong trường hợp phát sinh những dạng hành vi xâm phạm mới mà pháp luật chưa điều chỉnh kịp. Đây có thể xem là hạn chế lớn nhất trong quy định của Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ cần được sửa đổi.
Đề xuất, kiến nghị:
Xuất phát từ phạm vi bảo hộ của Quyền tác giả là bao gồm các quyền nhân thân và tài sản nên các hành vi xâm phạm cũng nên phân chia theo nguyên tắc dựa trên cơ sở bảo hộ Quyền tác giả gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Hành vi nào xâm phạm hai nhóm quyền này và không thuộc các trường hợp ngoại lệ sẽ bị xem là hành vi xâm phạm Quyền tác giả. Theo đó, thay vì liệt kê các hành vi xâm phạm Quyền tác giả, Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ nên có những quy định mang tính nguyên tắc để xác định hành vi xâm phạm quyền nhân thân và hành vi xâm phạm quyền tài sản.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đảm bảo tính kịp thời, chính xác, thường xuyên. Ngoài ra việc phối hợp thực hiện giải quyết giữa các cơ quan, ban, ngành trong bộ máy thực thi bảo hộ Quyền tác giả, quyền liên quan còn hạn chế; các hoạt động cũng như xử lý chưa mang tính răn đe, ngăn chặn tình trạng xâm phạm Quyền tác giả, quyền liên quan. Các chủ sở hữu đối tượng bị vi phạm cũng không chủ động bảo vệ quyền lợi cho tác phẩm của mình dù rất bức xúc khi thấy chúng bị sử dụng tràn lan với mục đích thương mại. Mặt khác là do ý thức của người dân, một bộ phận thì không hiểu pháp luật cũng như tầm quan trọng của Quyền tác giả, còn bộ phận còn lại biết nhưng lại cố tình vi phạm và thái độ không tôn trọng pháp luật. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Vừa qua Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung năm 2022) đã sửa đổi bổ sung một số điều khoản tại Điều 28. Tác giả đồng quan điểm với việc sửa đổi lần này, thay vì liệt kê mười sáu hành vi xâm phạm Quyền tác giả như trước đây, thì Luật Sở hữu trí tuệ mới đã thể hiện rõ các quy định mang tính bao quát hơn, minh bạch hơn. Dựa trên nền tảng quy định tại các Điều 19, 20, 25, 26 của Luật này và các hành vi xâm phạm khác liên quan tới biện pháp công nghệ bảo vệ quyền, thông tin quản lý quyền, trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian.Việc sửa đổi hoàn thiện tạo ra sự đồng bộ, thống nhất. Đồng thời Luật mới cũng khắc phục được những bất cập về quy định mang tính gò bó trước đây. Nếu Luật Sở hữu trí tuệ trước đây dễ bỏ xót các HVVP, thì Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung năm 2022) giúp chủ thể Quyền tác giả dễ dàng nhận diện HVVP và thu thập chứng cứ chứng minh thích hợp từ đó tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2.7. Các biện pháp bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Tại Điều 199 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác thì tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự.”
2.7.1 Biện pháp dân sự
Biện pháp dân sự là biện pháp dùng để xử lí HVVP, theo yêu cầu của chủ thể quyền bị thiệt hại do hành vi xâm phạm Quyền tác giả gây ra. Nếu một HVVP Quyền tác giả đã và đang được xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc hình sự thì vẫn có thể áp dụng biện pháp dân sự để xứ lý. Và các cơ quan có thẩm quyền sẽ giải quyết yêu cầu đó theo thủ tục tố tụng dân sự…….
Theo biện pháp dân sự, tòa án buộc cá nhân, tổ chức xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ phải bồi thường thiệt hại về vật chất cũng như tinh thần cho các chủ thể Quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền sở hữu đối với giống cây trồng. Tuy nhiên, khoản bù đắp tổn thất tinh thần chỉ dành cho tác giả các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, người biểu diễn, tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng mà không dành cho chủ sở hữu các đối tượng này. Mức bồi thường thiệt hại được xác định theo quy định tại Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ.
Theo Điểm d Khoản 1 Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ quy định trong trường hợp không xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất thì toà án có thẩm quyền ấn định mức bồi thường tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại nhưng không quá 500.000.000. đồng. Bên cạnh đó nếu tác giả chứng minh được thiệt hại về mặt tinh thần thì theo Khoản 2 Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ mức bồi thường về tinh thần trong giới hạn sẽ từ năm triệu đồng (5.000.000 đồng) đến năm mươi triệu đồng (50.000.000 đồng). Để bảo vệ quyền lợi các chủ thể quyền Sở hữu trí tuệ, pháp luật quy định cho những chủ thể quyền Sở hữu trí tuệ được quyền yêu cầu toà án thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Các quy định này đã hỗ trợ rất nhiều trong việc răn đe, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể Quyền tác giả. Đặc biệt đối với việc áp dụng bồi thường thiệt hại đã phần nào tạo thêm niềm tin để những người có công sức sáng tạo tác phẩm yên tâm truyền tải tác phẩm của mình trước công chúng. Tuy nhiên, việc chứng minh được thiệt hại về mặt vật chất và tinh thần đối với loại hình tác phẩm trong môi trường kỹ thuật số là khó khăn đối với tác giả và chủ sở hữu Quyền tác giả.
Ở các nước, giải quyết tranh chấp về Sở hữu trí tuệ thường sử dụng cơ chế này. Nhưng ở Việt Nam, cơ chế này ít được quan tâm, lựa chọn do có nhiều bất cập: mất thời gian; trình tự, thủ tục giải quyết phức tạp. Vì vậy, pháp luật về Sở hữu trí tuệ cần tiếp tục hoàn thiện cũng như bổ sung, khắc phục những tồn tại các quy định về Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh, đơn giản hóa thủ tục, tạo điều kiện cho các tác giả, chủ sở hữu Quyền tác giả tác phẩm điện ảnh tham gia bảo hộ quyền của mình đối với tác phẩm, đặc biệt là cụ thể hóa hơn các quy định bảo đảm quyền tự bảo vệ của tác giả, chủ sở hữu Quyền tác giả đối với tác phẩm khi phát hiện HVVP đối với quyền của mình.
Ưu điểm:
- Chủ thể Quyền tác giả chủ động, linh hoạt trong cách xử lý, giải quyết.
- Được bảo mật thông tin liên quan đến quá trình giải quyết.
- Quá trình giải quyết nhanh chóng, ít tốn kém về thời gian và chi phí.
Nhược điểm:
- Biện pháp này chỉ mang tính cảnh cáo, không mang tính chất răn đe cao nên hiệu quả giải quyết thấp.
- Kết quả giải quyết hoàn toàn phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên liên quan, không mang tính chất ép buộc thi hành
2.7.2 Biện pháp hành chính Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Biện pháp hành chính được áp dụng để xử lý các hành vi xâm phạm Quyền tác giả. Việc áp dụng hình thức xử phạt này đối với các HVVP Quyền tác giả hiện nay khá phổ biến, nhất là trong môi trường mạng thì biện pháp này càng được sử dụng nhiều hơn các biện pháp khác. Chúng ta rất dễ dàng bắt gặp các thông tin về việc phạt tiền khi có hành vi xâm phạm Quyền tác giả, và trong quan điểm chung của công chúng thì cứ vi phạm là đóng phạt. Điều này dẫn đến một tình trạng chung là làm mờ nhạt đi các biện pháp xử lý khác cũng như tâm lý ỷ lại và thiếu tính răn đe. Theo Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ, biện pháp hành chính áp dụng để xử lí những hành vi xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho con người và xã hội.
Biện pháp xử phạt này ghi nhận trực tiếp tại Điều 214 Luật Sở hữu trí tuệ có thể bằng hình thức phạt tiền hoặc cảnh cáo và tùy tính chất, mức độ mà có những biện pháp hỗ trợ khác như tịch thu, buộc tiêu hủy,…Tuy nhiên, xã hội không ngừng phát triển kéo theo các HVVP ngày càng tinh vi và đa dạng đặc biệt là trong môi trường không gian mạng. Đây có thể xem là một môi trường mới rất khó quản lý hiệu quả cũng như xử lý các HVVP. Để phù hợp với thực tiễn việc quy định hình phạt hành chính cũng đã trãi qua nhiều lần thay đổi mức phạt tiền cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội và hơn nữa thích ứng với các HVVP Quyền tác giả ngày càng đa dạng. Cụ thể Khoản 1 Điều 2 c quy định xử phạt vi phạm hành chính về Quyền tác giả, quyền liên quan. Theo đó, mức phạt tiền tối đa đối với các hành vi xâm phạm Quyền tác giả đối với cá nhân là 250.000.000 đồng và tổ chức là 500.000.000 đồng tùy theo từng mức độ vi phạm. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Bên cạnh đó, tại Điều 3 Nghị định 131/2013/NĐ-CP đối với đặc trưng ở môi trường: internet và kỹ thuật số thì đã được bổ sung thêm các biện pháp khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều bất cập trong việc xác định cơ quan nào có thể xử lý hành vi xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ theo thủ tục hành chính khi tổ chức, cá nhân bị xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ cũng là một vấn đề lớn cần phải xem xét để hoàn thiện. Hiện nay, pháp luật quy định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính cho rất nhiều cơ quan. “Trong thực tế, các cơ quan này hoạt động chồng chéo, đôi khi lại không cơ quan nào xử lý HVVP. Chính vì vậy để việc xử lý đạt hiệu quả cao, đòi hỏi các cơ quan này phải độc lập với nhau nhưng đồng thời phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình hoạt động”. Đây được xem là một nhược điểm lớn trong quản lý nhà nước về Sở hữu trí tuệ cần phải khắc phục ngay.
“Trên thực tế, theo quy định của pháp luật thì các HVVP về quyền Sở hữu trí tuệ đều được giải quyết bằng cách thức hành chính là chủ yếu. Vì thế đã xảy ra tình trạng “hành chính hoá” các mối quan hệ dân sự. Không thể phủ nhận, lợi ích mà biện pháp này mang lại giúp tiết kiệm thời gian, giải quyết xử lý nhanh chóng các vấn đề vi phạm, song lại không triệt để. Hơn nữa, quan hệ hành chính mang tính chất quyền lực nhà nước, giữa một bên là Nhà nước, một bên là chủ thể vi phạm, do vậy việc xử lý HVVP quyền Sở hữu trí tuệ bằng biện pháp này không tạo ra vị thế cân bằng giữa các bên trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả như trong thủ tục tố tụng dân sự, không đảm bảo cơ chế thực thi quyền được bảo vệ đối tượng Sở hữu trí tuệ của chủ thể quyền, đặc biệt là Quyền tác giả”[32]. Tác giả đồng ý với nhận định của Nguyễn Thị Thu Sương và Ngô Khánh Tùng khi thấy những ưu điểm mà các biện pháp xử lý hành chính mang lại và sự phổ biến của các biện pháp xử lý hành chính tại Việt Nam. Tuy nhiên các biện pháp xử lý hành chính chỉ mang tính chất tạm thời về bồi thường thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu Quyền tác giả về mặt vật chất nhưng lại thiếu đi sự bồi thường về mặt tinh thần, và nó cũng thiếu đi tính răn đe để hạn chế những hành vi xâm phạm Quyền tác giả hình thành trong tương lai.
Bên cạnh những hạn chế nêu trên, thì các cơ quan đơn vị có thẩm quyền cần rà soát, đánh giá hiệu lực, hiệu quả và sự phù hợp của hệ thống tổ chức và cơ cấu bộ máy bảo vệ quyền Sở hữu trí tuệ hiện có để làm căn cứ xây dựng và thực hiện phương án sắp xếp, phân công lại trong bộ máy. Việc sắp xếp, phân công lại bộ máy các cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính cần đảm bảo theo hướng thu gọn đầu mối, phù hợp với tính chất dân sự của quyền Sở hữu trí tuệ, xóa bỏ tình trạng hành chính hóa các quan hệ dân sự về Sở hữu trí tuệ. Việc thu gọn cần được thực hiện đồng thời với việc phân định rõ thẩm quyền của mỗi cơ quan.
Ưu điểm:
- Thủ tục giải quyết khá đơn giản, tốn ít thời gian, chi phí
- Giải quyết triệt để các HVVP về quyền Sở hữu trí tuệ
- Đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng, ổn định trật tự xã hội.
Nhược điểm: Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
- Khả năng bảo mật các thông tin còn thấp.
- Chủ thể bị xâm phạm không được bồi thường thiệt hại nếu HVVP không gây ra thiệt hại.
- Có tác dụng giáo dục, răn đe quy mô nhỏ.
- Hệ thống các cơ quan, đơn vị giải quyết xử lý chưa đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất.
2.7.3. Truy cứu trách nhiệm hình sự
Bên cạnh việc xử lý các HVVP bằng các biện pháp nêu trên. Thì HVVP QTG, quyền liên quan tuỳ theo mức độ còn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Khi các cá nhân, tổ chức có HVVP đến Quyền tác giả mà gây ra hậu quả đặc biệt nguy hiểm và có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu. Việc áp dụng biện pháp này thuộc thẩm quyền của tòa án. Nếu HVVP có đủ dấu hiệu vi phạm thị sẽ bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm Quyền tác giả và các quyền liên quan theo quy định Điều 225 bộ luật hình sự quy định về quyền tác giả và các quyền liên quan.
Nếu chủ sở hữu tác phẩm phát hiện HVVP hoặc có cơ sở xác định các cá nhân, tổ chức khác xâm phạm đến Quyền tác giả thì có thể thực hiện quyền của người tố giác, báo tin về tội pham, kiến nghị khởi tố theo quy định tai Điều 56 Bộ luật Tố tụng Ḥiǹh sự.
Trên thực tế, tại Việt Nam có rất ít trường hợp nào về xâm phạm Quyền tác giả bị áp dụng xử lý theo biện pháp này, hầu như chỉ dừng lại bằng việc xử phạt hành chính hoặc khởi kiện ra tòa yêu cầu bồi thường thiệt hại, tuy nhiên việc khởi kiện ra tòa thông qua các hình thức tranh chấp dân sự cũng không nhiều. Đây cũng là thách thức cho Việt Nam khi chưa có kinh nghiệm trong việc áp dụng biện pháp hình sự để xử lý. Với tình hình hội nhập quốc tế, đặc biệt là thành viên chính thức trong mười một quốc gia của Hiệp định CPTPP, việc tuân thủ những yêu cầu hiện nay trong việc xử lý hình sự là hoàn toàn áp lực lớn đối với không những Việt Nam mà cả các quốc gia thành viên khác. Theo đó tại Điều 18.71 của Hiệp định CPTPP ghi nhận rõ nghĩa vụ mỗi bên phải có các thủ tục thực thi và chế tài hình sự đối với HVVP Quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số, các thủ tục này phải đảm bảo công bằng, hợp lý. Cụ thể tại Điều 18.77 của Hiệp định CPTPP các thủ tục và hình phạt được quy định khá khắt khe. Với các quan điểm quốc tế thì việc tập trung tăng cường các biện pháp hình sự đối với lĩnh vực Sở hữu trí tuệ được lặp lại liên tục thông qua các cuộc đàm phán trong quá khứ và đang diễn ra của một số hiệp định thương mại đa phương hoặc song phương là hết sức cần thiết. Cho nên, pháp luật Việt Nam cần chú trọng thực hiện nghiêm khắc các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm bằng biện pháp hình sự nhằm mục đích răn đe hiệu quả các hành vi xâm phạm.
Ưu điểm:
- Mang tính giáo dục, răn đe mạnh nhất, xử lý triệt để hành vi xâm phạm.
Nhược điểm:
- Không bảo mật được thông tin về hàng hóa, sản phẩm, thương hiệu.
- Quy trình, thủ tục giải quyết phức tạp vì có sự can thiệp của cơ quan nhà nước, thời gian giải quyết kéo dài.
Đề xuất, kiến nghị: Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Trong khuôn khổ bài luận này, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo hộ Quyền tác giả và hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ, cũng như là nâng cao tính khả thi khi áp dụng các quy định về bảo vệ Quyền tác giả trong tất cả các lĩnh vực nói chung và trong lĩnh vực điện ảnh nói riêng trong thực tiễn, tác giả đưa một số kiến nghị, như sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh. Hiện nay, các quy định về tội xâm phạm Quyền tác giả đối với loại hình tác phẩm điện ảnh đã được đề cập, tuy nhiên các quy định trên còn mang tính khái quát, chưa nêu cụ thể đối với loại hình tác phẩm này. tác phẩm điện ảnh có những đặc trưng riêng, những hành vi xâm phạm Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh cũng mang tính chất khác biệt so với những tác phẩm khác. Trước tiên, cần phải làm rõ khái niệm tác phẩm điện ảnh, giải thích những từ ngữ mang tính chuyên môn hoặc trừu tượng trong định nghĩa để người đọc có thể hình dung được chính xác nhất về loại hình tác phẩm điện ảnh. Việc bổ sung những quy định về tác phẩm phái sinh của tác phẩm điện ảnh cũng là hết sức cần thiết. Việc xác định chính xác tác phẩm phái sinh của tác phẩm điện ảnh sẽ giúp cho việc bảo vệ Quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh được hiệu quả hơn, tránh gây nhầm lẫn tác phẩm phái sinh với những tác phẩm sao chép, đạo nhái. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Ngoài ra, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh cũng cần phải đáp ứng yêu cầu là phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, để việc bảo vệ Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh không chỉ hiệu quả trong nước mà còn phù hợp với pháp luật quốc tế, nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế mạnh mẽ như ngày nay.
Hai là, tiếp tục đấy mạnh hoạt động quản lý nhà nước về Quyền tác giả. Trước hết phải đào tạo chuyên sâu về pháp luật Quyền tác giả cho đội ngũ cán bộ thông qua các lớp đào tạo trong nước và quốc tế. Thành lập một cơ quan nhà nước thống nhất về Sở hữu trí tuệ, cơ quan này sẽ đảm nhận nhiệm vụ thực hiện việc giám sát và bảo vệ các Quyền tác giả nói chung và Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh nói riêng như: khuyến khích việc chuyển nhượng Quyền tác giả tác phẩm điện ảnh phù hợp với các quy định của pháp luật; giám sát việc sử dụng hợp pháp và bất hợp pháp tác phẩm điện ảnh; bảo vệ các tác phẩm điện ảnh. Điều tiết và giám sát các biện pháp kỹ thuật nhằm thực hiện việc bảo vệ và xác định các tác phẩm điện ảnh được bảo vệ.
Ba là, bản thân tác giả, chủ sở hữu Quyền tác giả tác phẩm điện ảnh cần đầu tư áp dụng các cách thức bảo hộ tác phẩm của mình. Trong cả môi trường truyền thống và môi trường không gian mạng internet. Tuy nhiên, hai môi trường này có tính chất khác nhau nên tùy vào mỗi môi trường, tác giả hay chủ sở hữu Quyền tác giả cần có những biện pháp cụ thể phù hợp với từng môi trường. Tác giả cần đặc biệt chú ý tới việc bảo hộ tác phẩm trên môi trường Internet bởi đặc tính vô hình của phương tiện chứa đựng và truyền dẫn là mạng không gian ảo. Tác giả cần tự áp dụng các biện pháp tự bảo hộ cho tác phẩm của mình như đăng ký tạo tài khoản cá nhân online. Tài khoản này sẽ nhận dạng kỹ thuật số của tác giả và nó có mức độ bảo mật cao hoàn thiện hệ thống quản lý và thực thi Quyền tác giả.
Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đi đôi với xử lý nghiêm các HVVP Quyền tác giả. Trong khuôn khổ pháp luật về Quyền tác giả, chủ sở hữu Quyền tác giả, về công tác tuyên truyền phải tập trung vào ba đối tượng chủ yếu đó là tác giả, chủ sở hữu Quyền tác giả và người sử dụng tác phẩm, làm cho các đối tượng nắm rõ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngoài ra cần có mức xử phạt đủ nặng về mặt kinh tế và kết hợp pháp lý đối với các HVVP, xâm phạm Quyền tác giả để tăng tính nghiêm minh và thực thi có hiệu quả các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
Chương II, luận văn đã phân tích được một cách tổng quan các quy định của pháp luật VN về bảo hộ Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh, cũng như các chế tài xử lý đối với hành vi xâm phạm Quyền tác giả. Trên thực tế, luận văn đã nêu ra được thực trạng về những bất cập, mâu thuẫn trong các quy định văn bản của pháp luật, và thực tiễn áp dụng Luật Sở hữu trí tuệ về bảo hộ Quyền tác giả hiện nay có thực sự đảm bảo hiệu quả hay không? Đồng thời, luận văn cũng có đối chiếu, so sánh, đánh giá các quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ so với Luật Sở hữu trí tuệ mới (sửa đổi, bổ sung năm 2022), và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Từ đó tác giả đưa ra những kiến nghị, cũng như giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh.
KẾT LUẬN Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
Mặc dù xuất hiện và phát triển từ khá sớm tác phẩm điện ảnh chỉ thực sự phát triển trong những năm gần đây. Dù vậy sự đóng góp của nó ngày càng quan trọng trong việc cải thiện và nâng cao các hoạt động điện ảnh cũng như nâng cao các giá trị tinh thần của mọi người, tạo ra khả năng cạnh tranh cho nước nhà so với các quốc gia đang phát triển, thúc đẩy sự đầu tư của các nguồn lực từ bên ngoài vào nền công nghiệp điện ảnh ở Việt Nam. Qua đó tạo ra những cơ hội phát triển cho các ngành nghề có liên quan, thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Bảo hộ Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh theo pháp luật Việt Nam mặc dù không còn là vấn đề mới mẻ nhưng vẫn chưa dành được sự quan tâm của xã hội và Nhà nước đúng như tầm quan trọng vốn có của nó. Do đó việc tạo thành hành lang pháp lý an toàn khuyến khích các hoạt động sáng tạo của tác giả và bảo hộ thành quả lao động của chủ thể sáng tạo là cần thiết. Tuy nhiên, việc xâm phạm Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh hiện nay vẫn đang diễn ra phổ biến và ngày càng tinh vi bởi sự hỗ trợ và phát triển của công nghệ đặc biệt là môi trường trực tuyến đã ảnh hưởng đến hoạt động sáng tạo, đầu tư, kinh doanh, gây ra nhiều bức xúc, quan ngại cho các đối tác, nhà đầu tư. Song song với đó là công tác quản lý, thực thi bảo hộ Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh còn nhiều khó khăn, hạn chế.
Do vậy, nội dung trong bài luận văn này không chỉ đi nghiên cứu về Quyền tác giả và thực trạng Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh, mà còn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện và hiệu quả hơn các vấn đề quản lý, xử lý các vi phạm, tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc để mọi cá thể sáng tạo có thể đảm bảo được quyền lợi của mình cũng như các tác phẩm điện ảnh mà mình dày công sáng tạo ra cũng được bảo vệ. Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: lamluanvan24h@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Kiến nghị PL bảo hộ quyền tác giả đối tác phẩm điện ảnh […]