Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Khóa Luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm khóa luận tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm khóa luận thì với đề tài: Hoạt động của hệ thống ngân hàng TMCP Việt Nam Trong Thời Gian Diễn Ra Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Thế Giới 2022 dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM
1, Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng TMCP
Kể từ khi hai pháp lệnh ngân hàng ra đời đã tạo lập ra khuôn khổ pháp luật để thực hiện đổi mới cơ bản hệ thống ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp. Đây là bước ngoặt quan trọng đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp với hai chức năng tách biệt nhau. Trong đó ngân hàng cấp là ngân hàng Trung Ương với chức năng quản lý Nhà Nước và chức năng ngân hàng Trung Ương của ngân hàng Nhà Nước và ngân hàng cấp 2 là các tổ chức tín dụng với chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.
Ngân hàng TMCP là ngân hàng thương mại được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, trong đó một cá nhân hoặc một tổ chức không được sở hữu cổ phần của ngân hàng quá tỷ lệ do ngân hàng Nhà Nước quy định
Hệ thống ngân hàng TMCP Việt Nam đa phần ra đời vào những năm đầu thập kỷ 90. So với lịch sử ra đời và phát triển của các ngân hàng thương mại Nhà Nước thì khối ngân hàng TMCP còn non trẻ về mọi mặt. Trải qua nhiều biến động trong quá trình phát triển, chứng kiến sự sáp nhập, giải thể của một số ngân hàng TMCP, những năm gần đây khối các ngân hàng TMCP đã từng bước phát triển tương đối ổn định. Tính đến cuối năm 2022, ngành ngân hàng Việt Nam ngoài hệ thống ngân hàng nhà nước có trụ sở chính tại Hà Nội và các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trong cả nước thì còn có hệ thống các định chế ngân hàng trung gian gồm có 5 ngân hàng thương mại Nhà Nước, 1 ngân hàng chính sách xã hội, 38 ngân hàng TMCP đô thị, 42 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 17 công ty tài chính, 13 công ty cho thuê tài chính, 54 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Mặc dầu mới được hình thành từ sau năm 1989, hoạt động của các ngân hàng TMCP đã mở rộng khá nhanh ra cả nước với các nghiệp vụ chủ yếu là dịch vụ bán lẻ, đối tượng phục vụ khá đa dạng nhưng tập trung chủ yếu là các cá nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các ngân hàng TMCP hiện đang tăng nhanh vốn điều lệ, một số đã tạo được uy tín cao có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển chung của thị trường ngân hàng trong nước.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Tài Chính Ngân Hàng
2. Vai trò của các ngân hàng TMCP trong hệ thống ngân hàng Việt Nam Ngân hàng TMCP là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Ngân hàng TMCP là chủ thể đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đó và sử dụng nguồn vốn huy động được cấp vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng. Ngân hàng TMCP trở thành chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Nhờ có hoạt động ngân hàng và đặc biệt là hoạt động tín dụng các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng TMCP là cầu nối doanh nghiệp và thị trường. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ cấu kinh tế, chế độ hạch toán kinh tế mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đưa công nghệ mới vào sản xuất, tìm tòi và sử dụng nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn, nhiều khi vượt quá khả năng của doanh nghiệp. Do đó để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp đến ngân hàng để xin vay vốn để thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình.Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho doanh nghiệp ngân hàng là cầu nối doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung cấp cho doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường và từ đó tạo cho doanh nghiệp chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh .
Ngân hàng TMCP là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt dộng thanh toán giữa các ngân hàng trong hệ thống, Ngân hàng TMCP đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế Ngân hàng TMCP đã thực hiện việc dẫn dắt các nguồn tiền, tập hợp và phân phối vốn trên thị trường, điều khiển chúng một cách hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô. Cùng với các cơ quan khác, Ngân hàng luôn được sử dụng như một công cụ quan trọng để nhà nước điều chỉnh sự phát triển của nền kinh tế. Khi nhà nước muốn phát triển một ngành hay một vùng kinh tế nào đó thì cùng với việc sử dụng các công cụ khác để khuyến khích thì các Ngân hàng TMCP luôn được sử dụng bằng cách Ngân hàng Nhà Nước yêu cầu các Ngân hàng TMCP thực hiện chính sách ưu đãi trong đầu tư, sử dụng vốn như giảm lãi suất, kéo dài thời hạn vay, giảm điều kiện vay vốn hoặc qua hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nước cấp vốn ưu đãi cho các lĩnh vực nhất định. Khi nền kinh tế tăng trưởng quá mức nhà nước thông qua ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để giảm khả năng tạo tiền từ đó giảm khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế để nền kinh tế phát triển ổn định vững chắc.
Ngân hàng TMCP là cầu nối nền tài chính quốc gia và nền tài chính quốc tế. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, khi các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế – xã hội giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế ở các quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó.Vì vậy nền tài chính của mỗi quốc gia cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và Ngân hàng TMCP với các hoạt động của mình đã đóng góp vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Với các nghiệp vụ như thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác, ngân hàng TMCP tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển. Thông qua hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối quan hệ tín dụng với các ngân hàng thương mại nước ngoài đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế .
II: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH DIỄN RA CUỘC KHỦNG HOẢNG
1, Thực trạng hoạt động hệ thống ngân hàng TMCP Việt Nam
Hệ thống ngân hàng TMCP ngày càng phát triển vững mạnh. Trước đây các ngân hàng thương mại quốc doanh là đơn vị nòng cốt trong việc cung cấp vốn cho nền kinh tế do lợi thế về vốn và thị phần, tuy nhiên trong những năm gần đây đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ sang khối ngân hàng TMCP. Quy mô và mạng lưới kinh doanh của các ngân hàng TMCP ngày càng phát triển. Vốn điều lệ của các ngân hàng TMCP cũng tăng lên nhanh chóng. Tăng trưởng thu nhập của các ngân hàng TMCP đạt khoảng 60% – 120% mỗi năm.
Trong năm 2022, nhờ tăng vốn điều lệ cao nên các ngân hàng TMCP có điều kiện mở rộng phạm vi hoạt động ra nhiều địa bàn bằng việc mở nhiều chi nhánh, phòng giao dịch, lắp đặt máy ATM, máy POS, đầu tư vào công nghệ thông tin. Chẳng hạn như STB với 211 chi nhánh, 350 máy ATM và 1752 máy POS, Techcombank có 130 chi nhánh, 230 máy ATM và 1839 máy POS; ngân hàng Á Châu với 126 chi nhánh, 174 máy ATM và 7060 máy POS; ngân hàng Đông Á với 107 chi nhánh, 794 máy ATM và 822 máy POS. 7 Tuy phải đối phó với nhiều khó khăn trong năm 2022 nhưng đến cuối năm 2022, mặc dù một số chỉ tiêu cơ bản của các ngân hàng TMCP vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng, song tốc độ đã chậm lại. Hoạt động của các ngân hàng chủ yếu là tập trung huy động vốn để cân đối nguồn và đảm bảo khả năng thanh khoản, bảo đảm an toàn của từng ngân hàng và toàn hệ thống. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Trong năm 2022 hoạt động của các ngân hàng TMCP chịu sự ảnh hưởng từ tác động xấu của nền kinh tế trong và ngoài nước cùng với những chính sách điều tiết vĩ mô của ngân hàng Nhà Nước đã làm cho các ngân hàng phải đối mặt với vô vàn khó khăn. Mặc dù vậy, các ngân hàng đã vượt qua những khó khăn đó và vẫn tiếp tục hoạt động ổn định. Tính đến 31/10/2022 so với cùng kỳ năm 2021 thì tổng tài sản của các ngân hàng TMCP đạt 228.497 tỷ đồng, tăng 5,5%; Nguồn vốn huy động đạt 154.087 tỷ đồng, tăng 35%; Dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 109.464 tỷ đồng, tăng 16,8%; Chênh lệch thu nhập – chi phí là 3.141 tỷ đồng, bằng 98,5% năm 2021. Hiện nay, các ngân hàng TMCP vẫn thực hiện tốt các quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động.
Hiện đã có một số ngân hàng TMCP Việt Nam đề nghị xin mở chi nhánh ra nước ngoài (STB) và hình thành các tập đoàn ngân hàng trong đó ngân hàng là công ty mẹ thành lập các công ty con, công ty liên doanh,liên kết để hoạt động sang các lĩnh vực khác không thuộc phạm vi quản lý của cơ quan giám sát ngân hàng tại Việt Nam như VCB, ACB, STB.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả Nam trong giai đoạn diễn ra cuộc khủng hoạt động của ngân hàng TMCP Việt hoảng Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng TMCP trong giai đoạn diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính không chỉ chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài mà còn chịu ảnh hưởng từ các yếu tố bên trong ngân hàng.
2.1. Ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài ngân hàng
Hoạt động của các ngân hàng TMCP chịu ảnh hưởng tiêu cực từ nền kinh tế thế giới thông qua các mối quan hệ với các tổ chức tín dụng quốc tế, các yếu tố kinh tế vĩ mô trong nước, chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà Nước, khách hàng) như đã nêu ra ở chương I .
Chính sách tài chính tiền tệ của ngân hàng Nhà Nước
Trong đó, những ảnh hưởng tiêu cực từ chính sách tài chính tiền tệ của ngân hàng Nhà Nước là mạnh nhất. Mục đích của ngân hàng Nhà Nước thực hiện việc điều hành chính sách tiền tệ để giúp ổn định hoạt động của nền kinh tế nói chung và hoạt động của ngân hàng nói riêng nhưng chính sách này lại đi trái với mong muốn của ngân hàng Nhà Nước. Chính sách này đã ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng TMCP, gây ra liên tiếp những khó khăn cho các ngân hàng TMCP. Các ngân hàng luôn bị động trong việc quyết định lãi suất cho vay và huy động vốn, luôn phải đối mặt với rất nhiều rủi ro hoạt động (rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng) trong năm 2022 do đó hầu hết các ngân hàng đều phải điều chỉnh giảm mục tiêu lợi nhuận từ 30 – 40% thậm chí có ngân hàng thua lỗ.
Hành lang pháp lý
Hành lang pháp lý ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng như luật các tổ chức tín dụng, luật ngân hàng Nhà Nước… Trong năm vừa qua, Ngân hàng Nhà Nước đã thay đổi quy định trần lãi suất huy động VND ở mức 12%/năm sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với luật của ngân hàng Nhà Nước và bộ luật hình sự, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND đối với khách hàng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà Nước công bố trong từng thời kỳ. Quy định chặt chẽ điều kiện cho vay và khống chế dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; ban hành mới cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng theo hướng chỉ cho vay đối với nhu cầu nhất thiết sử dụng vốn vay bằng ngoại tệ, hạn chế tình trạng đôla hoá.10 Ngày 10/6/2022, ngân hàng Nhà Nước ban hành văn bản 5158/NHNN-CSTT yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện việc không được thu phí liên quan đến hoạt động cho vay. Các ngân hàng thương mại không được huy động tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng hoặc giảm lãi suất, mà phải dựa vào lãi suất do ngân hàng Nhà Nước đưa ra và chỉ được xê dịch trong biên độ nhất định mà ngân hàng Nhà Nước cho phép. Tất cả những quy định đó đều ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng
Tâm lý, thói quen tiêu dùng của khách hàng: Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế diễn ra, thu nhập của người dân trong nước giảm nên nhu cầu đầu tư và giao dịch của họ giảm tương đối so với nhu cầu tiêu dùng do đó nhu cầu gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng sẽ giảm. Mặt khác với tình hình lạm phát tăng cao làm cho đồng tiền mất giá thì gửi tiền tiết kiệm không còn là kênh hấp dẫn người dân nữa do đó nên người dân sẽ tìm các kênh đầu tư khác để cất trữ tiền an toàn như đầu tư vàng, bất động sản…, do đó khối lượng khách hàng gửi tiền vào ngân hàng sẽ giảm, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Đồng thời tâm lý bất ổn, không tin tưởng vào ngân hàng của người dân khi xảy ra tình trạng phá sản của hàng loạt các ngân hàng lớn trên thế giới càng làm cho việc huy động vốn từ dân cư của ngân hàng khó khăn hơn.
2.2. Ảnh hưởng bởi các yếu tố bên trong ngân hàng
Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng TMCP chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên trong ngân hàng. Sau đây là một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt đông trong giai đoạn diễn ra cuộc khủng hoảng.
Lãi suất
Lãi suất là một trong những nhân tố điều tiết huy động vốn và cho vay của ngân hàng. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Lãi suất huy động và cho vay đều do từng ngân hàng ấn định và luôn phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của ngân hàng và lãi suất cơ bản của ngân hàng Nhà Nước đưa ra. Tuỳ chiến lược kinh doanh của từng ngân hàng mà từng ngân hàng áp dụng các loại lãi suất khác nhau trong quá trình huy động vốn và cho vay với kỳ hạn khác nhau. Với việc ngân hàng Nhà Nước thay đổi lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc liên tục trong năm 2022 với 3 lần tăng và 5 lần giảm đã làm cho lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng biến động mạnh. Đặc biệt là tại thời điểm ngay sau khi ngân hàng Nhà Nước tăng lãi suất cơ bản lên 14% thì lãi suất huy động và cho vay tăng lên cao đồng thời cuộc đua lãi suất của các ngân hàng diễn ra. Tại thời điểm 25/6/2022, OCB tung ra thị trường chương trình tiết kiệm ngắn hạn “Nhận lãi trước + Lãi suất cao” với thời hạn huy động 1 tháng, nếu đáo hạn mà vẫn tiếp tục gửi, khách hàng được hưởng mức lãi suất 1,6%/tháng tức là 19,2%/năm. DCB tăng lãi suất huy động đối với kỳ hạn 1-3 tháng, 6-9 tháng với lãi suất tương ứng 18%-18,5%/năm..Đến ngày 28/8/2022, lãi suất huy động của các ngân hàng cũng đã giảm tuy nhiên các ngân hàng TMCP vừa và nhỏ lãi suất huy động vẫn rất cao điển hình là PACB phát hành kỳ phiếu với lãi suất lên đến 19,5%/năm12 và kèm theo nhiều khuyến mại. Huy động lãi suất cao như vậy đồng thời lãi suất cho vay cũng tăng cao chẳng hạn như DCB huy động 18-18,5% nhưng trần lãi suất cho vay là 21% thì ngân hàng này cũng không có lãi. Do đó lãi suất ảnh hưởng mạnh đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Việc ảnh hưởng mạnh hay nhẹ phụ thuộc vào việc ấn định lãi suất huy động và cho vay của mỗi ngân hàng. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Tỷ trọng các loại nguồn vốn trong tổng số nguồn vốn
Cơ cấu nguồn vốn có nhiều loại khác nhau, tương ứng với các mức lãi suất khác nhau như: tiền gửi (nguồn tiền gửi trên tài khoản có thể phát hành séc, nguồn vốn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn), chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn, tiền vay các ngân hàng khác và ngân hàng Nhà Nước. Sự biến động của kết cấu các loại nguồn vốn (giả sử tổng nguồn không đổi) dẫn đến thay đổi lượng chi phí trả lãi cho nguồn vốn và ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Hầu hết các ngân hàng TMCP đều có tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn (chủ yếu là huy động từ dân cư) chiếm tỷ lệ cao trên tổng nguồn vốn. Do đó trong năm 2022 các ngân hàng phải huy động một tỷ lệ lớn tiền gửi tiết kiệm và tiền vay trên thị trường liên ngân hàng với chi phí phải trả cao do đó đã ảnh hưởng mạnh đến lợi nhuận của các ngân hàng.
Chất lượng hoạt động cho vay
Các ngân hàng TMCP chủ yếu tập trung vào hoạt động cho vay do đó hoạt động này chính là nguồn thu chính của các ngân hàng. Chính vì thế nếu chất lượng của hoạt động này không tốt sẽ ảnh hưởng mạnh đến lợi nhuận của ngân hàng. Trong giai đoạn này tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng tăng cao do ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như chính sách điều tiết của ngân hàng Nhà Nước, tình hình kinh tế trong và ngoài nước, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán sụt giảm. Rủi ro tín dụng tăng cao trong toàn bộ hệ thống ngân hàng đã làm cho nhiều ngân hàng phải điều chỉnh lại mục tiêu lợi nhuận thậm chí thua lỗ.
Quy mô ngân hàng
Quy mô hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Nếu ngân hàng có quy mô lớn, mạng lưới rộng sẽ có khả năng thu hút khối lượng tiền gửi nhiều hơn đồng thời các dịch vụ cũng được phát triển, do đó được nhiều người biết đến, thị phần tăng lên. Đồng thời với đó là lợi nhuận tăng lên, tiềm lực tài chính vững mạnh hơn. Đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng tài chính đang diễn ra cùng với môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng cạnh tranh gay gắt với nhiều ngân hàng nước ngoài thành lập ở Việt Nam thì quy mô lớn sẽ giúp cho ngân hàng Việt Nam có đủ tiềm lực tránh được những ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính đồng thời có thể cạnh tranh được với những ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính tốt, chất lượng dịch vụ cao. Do đó quy mô của ngân hàng đóng vai trò quan trọng giúp cho các ngân hàng có thể đứng vững trong gian đoạn này. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Dịch vụ ngân hàng
Hoạt động cung cấp dịch vụ của ngân hàng cũng ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng trong giai đoạn này. Với việc các ngân hàng TMCP ngày càng chú ý, tập trung phát triển các loại hình dịch vụ sẽ làm tăng lợi nhuận từ dịch vụ, làm giảm áp lực tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động tín dụng qua đó có thể hạn chế được rủi ro, nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng. Hiện nay, dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, đa tiện ích. Bên cạnh các dịch vụ ngân hàng truyền thống, các ngân hàng đang ngày càng chú ý đến hoạt động ngân hàng hiện đại như tư vấn tài chính,cho vay tiêu dùng, dịch vụ thẻ, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ cho thuê tài chính. Ngân hàng ACB mở sàn giao dịch vàng, sàn giao dịch chứng khoán, sàn giao dịch địa ốc; ngân hàng STB có công ty quản lý và thu hồi nợ Sacomreal; ngân hàng DAB có công ty cho thuê tài chính, công ty dịch vụ kiều hối. Bên cạnh đó, các ngân hàng tiếp tục khai thác thị trường thẻ để thúc đẩy phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Đây là sự phát triển hợp lý trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng gặp nhiều hạn chế.
Ngoài ra với việc ngân hàng Nhà Nước ra văn bản cấm các ngân hàng thu phí hoạt động cho vay đã ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng trong giai đoạn vừa qua. Vì lúc này ngân hàng đã mất đi một khoản thu nhập từ phí cho vay trong khi đó mức chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay rất thấp trong năm 2022 nên lợi nhuận của các ngân hàng TMCP không thể tránh được giảm thậm chí lỗ vì thu nhập không đủ bù đắp rủi ro tín dụng. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Quản trị và đội ngũ nhân viên chuyên môn
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ chịu tác động mạnh bởi năng lực điều hành của hội đồng quản trị, quyết định quản trị và những thay đổi về cơ cấu tổ chức quản lý. Điều đó có thể thấy rõ trong giai đoạn khủng hoảng tài chính này, khi các ngân hàng thương mại Việt Nam đang trong giai đoạn cơ cấu lại, công tác quản trị điều hành tại các ngân hàng thương mại Việt Nam còn nhiều bất cập. Trong thời gian qua đã có sự khác biệt lớn trong công tác quản trị điều hành giữa các ngân hàng. Điều này đã tác động không nhỏ đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và đây cũng chính là mầm mống phát sinh rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Một số ngân hàng TMCP nông thôn đựoc chuyển lên đô thị có quy mô nhỏ, đội ngũ cán bộ thiếu chuyên nghiệp, khả năng quản trị kinh doanh và nguồn nhân lực hạn chế không đáp ứng được với mục tiêu tăng trưởng kinh doanh quá cao, từ đó gây nguy cơ rủi ro cao không chỉ cho bản thân các ngân hàng mà còn tác động đến cả hệ thống. Bên cạnh đó chiến lược kinh doanh và các quyết định quản trị kinh doanh còn có thể làm cho các ngân hàng đi đến phá sản và gây rủi ro toàn hệ thống ngân hàng thấy được rất rõ qua việc sụp đổ của ngân hàng đầu tư Lehman Brothers tại Mỹ. Chính những chiến lược kinh doanh mạo hiểm, đi vay để đầu tư rủi ro và quyết định táo bạo của chủ tịch ngân hàng tăng số tiền đầu tư vào các chứng khoán phái sinh phát hành dựa trên nợ cầm cố trong bối cảnh khủng hoảng tín dụng mỗi lúc một trầm trọng đã đẩy lehman Brothers lâm vào thua lỗ trầm trọng và đi đến phá sản và gây đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống ngân hàng Mỹ và thế giới.
3. Đối sách đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính của ngân hàng Nhà Nước và ảnh hưởng của nó đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng TMCP Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
3.1. Đối sách của ngân hàng Nhà Nước 13
Trước những bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, lạm phát trong nước tăng cao, để kiềm chế lạm phát và giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nóng tránh rủi ro bong bóng bất động sản, chứng khoán gây đổ vỡ hệ thống ngân hàng, ngân hàng Nhà Nước đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt với đồng thời cả ba công cụ lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở cùng với những quy định siết chặt cho vay thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản đã tác động mạnh đến hoạt động ngân hàng. Ngay sau khi ngân hàng Nhà Nước thực thi những quy định về tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1%(Quyết định 187/QĐ-NHNN) vào ngày 16/01/2022, tăng lãi suất cơ bản lên 0,5%, tái cấp vốn tăng 1,0%, lãi suất chiết khấu tăng 1,5% (Quyết định 305/QĐ-NHNN) vào ngày 30/1/2022, phát hành tín phiếu bắt buộc, thực hiện vào ngày 17/3, với tổng giá trị tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,8%/năm (Quyết định 346/QĐ-NHNN) thì các hoạt động cho vay gần như co cụm lại, lãi suất tăng vọt, luồng tiền gửi trở lên bất ổn, thị trường bất động sản đang ở trong cơn sốt bỗng đóng băng và trở lên lạnh giá, thị trường vàng như con ngựa bất kham, giá cả hàng hoá thì tăng vọt. Sau đó vào ngày 19/5/2022, ngân hàng Nhà Nước lại tiếp tục tăng lãi suất cơ bản lên 12%/năm và chưa đầy một tháng sau, ngày 11/6/2022, lãi suất cơ bản đã lên đến mức 14%/năm. Sự can thiệp quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã làm cho các ngân hàng phải chịu áp lực thanh khoản và trong vài ngày lãi suất tiền gửi từ 15%/ năm lên 19%/ năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở hầu hết các ngân hàng.
Cuộc đua lãi suất không chỉ diễn ra trên thị trường cấp I giữa ngân hàng và khách hàng mà nói còn diễn ra quyết liệt trên thị trường cấp II giữa các ngân hàng với nhau. Sang quý III, chính sách tiền tệ này đã phát huy tác dụng, chỉ số lạm phát tháng 7 được công bố ở mức 1,13%_ mức thấp nhất so với các tháng trước đã làm cho tình hình lạm phát dịu đi. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế bắt đầu chậm lại, thị trường chứng khoán, bất động sản vẫn ảm đạm, thị trường tiền tệ diễn biến phức tạp. Cùng lúc đó tình trạng suy thoái đang diễn ra trên thế giới và Việt Nam cũng đang rơi vào tình trạng suy thoái sau thời gian nền kinh tế phát triển quá nóng. Để đối phó với tình trạng suy thoái kinh tế trong nước, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh và tăng tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, ngân hàng Nhà Nước đã ban hành Quyết định 2317 vào ngày 20/10/2022 cho phép tín phiếu bắt buộc được thanh toán trước hạn; Quyết định 1436 ngày 26/6/2022 và Quyết định 2635 ngày 6/11/2022 nới lỏng biên độ tỷ giá từ +/- 1% lên +/-2% và từ +/- 2% lên +/-3%; Quyết định 2811 ngày 20/11/2022 và Quyết định 2951 ngày 03/12/2022, Quyết định 3158 ngày 19/12/2022 giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10%/năm lần lượt xuống 8%/năm, 6%/ năm, 5%/ năm và các loại lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ xuống. Bên cạnh đó hạn chế cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay bất động sản cũng được nới lỏng theo. Ngay sau đó, mặt bằng lãi suất mới được thiết lập, các ngân hàng thương mại đồng loạt giảm lãi suất. Đây là dấu hiệu tích cực một phần giúp cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận được vốn vay dễ dàng hơn để duy trì và mở rộng sản xuất và một phần làm tăng trưởng tín dụng giúp cải thiện tình hình kinh doanh cho các ngân hàng thương mại, giảm các khoản nợ xấu gây rủi ro cho hệ thống ngân hàng trước những biến động của nền kinh tế trong nước và thế giới.
Bên cạnh thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt ngân hàng Nhà Nước còn đưa ra các biện pháp tích cực đảm bảo tối thiểu hóa rủi ro phát sinh như: Yêu cầu các ngân hàng thương mại rà soát các khoản tiền gửi và đầu tư tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng nước ngoài, có kế hoạch dự phòng chuyển các khoản tiền này vào các tổ chức tín dụng an toàn và ít chịu ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng; yêu cầu các ngân hàng rà soát, kiểm tra các khoản cho vay đầu tư nhất là các lĩnh vực chịu nhiều rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán và tăng cường các biện pháp giám sát và phòng ngừa rủi ro đối với những khoản cho vay này; đệ trình chính phủ các quy định về xử lý ngân hàng có vấn đề như quy chế về mua bán nợ, cơ chế xử lý nợ khó đòi nhằm cung cấp cơ sở pháp lý cho việc tái cơ cấu các ngân hàng và tổ chức tín dụng yếu kém, từ đó đảm bảo an toàn và tình trạng vững mạnh của hệ thống ngân hàng; xây dựng và trình Thường Trực Chính phủ thông qua Phương án bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng và góp phần ổn định kinh tế vĩ mô do ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính và nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu.
3.2. Ảnh hưởng tích cực của đối sách đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng TMCP Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Trong ngắn hạn, chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà Nước đã làm cho tốc độ tăng trưởng dư nợ giảm xuống, tránh được sự phát triển tín dụng quá nóng đặc biệt là tín dụng bất động sản dẫn đến bong bóng bất động sản gây đổ vỡ trên toàn hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó cũng giúp cho các ngân hàng quản lý chặt chẽ hơn trong khâu thẩm định tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu các khoản nợ xấu, nợ đọng. Đồng thời giúp các ngân hàng cơ cấu lại danh mục cho vay, hạn chế cho vay các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro như cho vay đầu tư chứng khoán và bất động sản và tập trung cho vay các dự án khả thi, các nhóm khách hàng truyền thống, có tình hình tài chính tốt nhằm hạn chế được rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn hoạt động trong bối cảnh tài chính thế giới đang tiếp tục diễn biến xấu đi.
Trong dài hạn, chính sách này đã làm cho các ngân hàng phải chấn chỉnh hoạt động và có những điều chỉnh hợp lý trong hoạt động, tìm cách khắc phục những khiếm khuyết còn tồn tại để vượt qua thách thức đảm bảo phát triển bền vững trong dài hạn. Đây cũng là thử thách đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng và là giải pháp giúp cho ngân hàng Nhà Nước có thể cơ cấu lại hệ thống ngân hàng một cách hữu hiệu, sàng lọc các ngân hàng yếu kém không đủ khả năng hoạt động, đảm bảo hệ thống ngân hàng phát triển vững mạnh chuẩn bị cho quá trình hội nhập hoá sâu hơn của toàn hệ thống.
3.3. Ảnh hưởng tiêu cực của đối sách đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng TMCP
Bên cạnh những điểm tích cực của chính sách tiền tệ thì chính sách tiền tệ còn nhiều hạn chế nhất định gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Thứ nhất, Rủi ro thanh khoản Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Vấn đề thanh khoản là vấn đề đáng quan tâm nhất trong ngành ngân hàng trong năm 2022 vừa qua. Chính việc thay đổi liên tục các quyết định về lãi suất huy động áp dụng tại các ngân hàng TMCP của ngân hàng Nhà Nước (ấn định lãi suất trần huy động 12%/năm; thay đổi lãi suất cơ bản từ 8.75%/năm lên đến 12%/năm, 13%/năm, 14%/ năm) và các biện pháp tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mua tín phiếu có kỳ hạn bắt buộc với mục đích đảm bảo tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng đã làm cho nhiều ngân hàng đứng trước nguy cơ thiếu hụt thanh khoản. Và chính điều này làm cuộc chạy đua lãi suất trong hệ thống ngân hàng xảy ra. Việc lãi suất tăng nhanh trong thời gian ngắn đã tạo tâm lý không ổn định cho khách hàng gửi tiền. Hầu hết khách hàng trong thời gian này chỉ gửi tiền với kỳ hạn ngắn đợi lãi suất tăng lên sẽ rút tiền gửi ra và gửi lại với lãi suất cao hơn hoặc chuyển sang những ngân hàng có lãi suất hấp dẫn hơn do đó vốn huy động được chủ yếu là các nguồn vốn ngắn hạn, dễ biến động nên điều này đã ảnh hưởng lớn đến cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng, làm cho các ngân hàng bị động trong quản lý tài sản nợ – tài sản có, khó dự đoán được biến động tài sản của ngân hàng, dễ gây rủi ro thanh khoản cho ngân hàng khi khối lượng lớn khách hàng rút tiền trong thời gian ngắn.
Vấn đề thanh khoản một lần nữa lại xuất hiện trong giai đoạn chính sách lới lỏng tiền tệ, các ngân hàng trong trạng thái dư thừa vốn nhưng ứ đọng vốn, khó cho vay trong khi chịu áp lực trả lãi suất cao cho các khoản huy động thời gian trước đe dọa đến tính thanh khoản của ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng TMCP nhỏ huy động khối lượng lớn tiền gửi vào ngân hàng nhằm giải quyết thiếu hụt thanh khoản giờ đây phải tìm cách tăng trưởng tín dụng để bù đắp vào chi phí huy động vốn cao.
Thứ hai, Rủi ro lãi suất
Các ngân hàng quy mô lớn, nguồn vốn huy động dồi dào có đủ khả năng đáp ứng trên mức nhu cầu vay thực tế do đó các ngân hàng này luôn dành một phần nguồn vốn đầu tư vào các giấy tờ có giá, có thể tham gia vào thị trường mở để vay vốn của ngân hàng Nhà Nước với lãi suất thấp để tăng tính thanh khoản cho Ngân hàng. Trong khi đó, các ngân hàng quy mô nhỏ hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực tín dụng nên để nâng cao lợi nhuận các ngân hàng này không chỉ sử dụng hầu hết vốn huy động được mà còn sử dụng vốn vay liên ngân hàng để đẩy mạnh cho vay tín dụng và do đó không đầu tư hoặc đầu tư rất ít vào giấy tờ có giá nên không thể vay tiền ngân hàng Nhà Nước thông qua thị trường mở. Khi ngân hàng Nhà Nước thực hiện các biện pháp tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng các mức lãi suất… để thu hút một lượng lớn tiền lưu thông trên thị trường về thì các khoản tiền gửi có kỳ hạn của các Ngân hàng khác tại các ngân hàng nhỏ sẽ được rút về do đó các ngân hàng này sẽ bị mất cân đối nguồn vốn trầm trọng. Để đảm bảo thanh khoản, các ngân hàng nhỏ phải huy động từ khách hàng và các ngân hàng có quy mô lớn với lãi suất cao, có thời điểm lên đến gần 43%/năm do đó bắt đầu cuộc đua lãi suất để bù đắp khoản tiền gửi bị các ngân hàng khác rút về và để bù đắp khoản tiền do phải tăng khoản tiền dự trữ bắt buộc tại ngân hàng Nhà Nước. Tuy các ngân hàng TMCP lớn có nguồn vốn huy động vượt nhu cầu cho vay nhưng vẫn giữ lãi suất huy động cao để giữ chân khách hàng. Do đó tạo nên một cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng và tiềm ẩn rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Sau đó rủi ro lãi suất đã thành hiện thực khi ngân hàng Nhà Nước chuyển từ chính sách tiền tệ thắt chặt sang nới lỏng khiến lãi suất trên thị trường giảm, lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng TMCP giảm theo làm cho nhiều ngân hàng TMCP nhỏ thua lỗ vì các ngân hàng này phải chi trả chi phí huy động vốn cao của các khoản huy động trước đó trong khi lãi suất cho vay hiện tại thấp hơn nhiều. Bên cạnh đó nhu cầu tín dụng đã sụt giảm một phần nguyên nhân do tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng kém vì chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, một phần là do chính sách thắt chặt tiền tệ thực hiện thời gian trước phát huy tác dụng dẫn đến tình trạng ngân hàng thừa thanh khoản, ứ đọng vốn, không cho vay được. Và rủi ro lãi suất đã trở thành vấn đề nghiêm trọng, gây khó khăn, ảnh hưởng mạnh đến lợi nhuận của các ngân hàng TMCP nhỏ có tỷ lệ nguồn vốn huy động nhạy cảm với lãi suất chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn trong khi nguồn vốn huy động lãi suất thấp, ít nhạy cảm với lãi suất như tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp rất ít ỏi.
Thứ ba, Rủi ro tín dụng
Ngân hàng Nhà Nước không nghiên cứu kỹ, không bao quát hết được tất cả những trường hợp có thể xảy ra khi ra các Quyết định, chỉ thị; không tìm hiểu kỹ tình hình các Ngân hàng và khả năng các Ngân hàng có thể thực hiện được không? Thật vậy, vì lo ngại rủi ro quá lớn từ các khoản cho vay bất động sản, cổ phiếu và trước sức ép của lạm phát, Ngân hàng Nhà Nước đã thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, cuối tháng 05 năm 2021, Ngân hàng Nhà Nước ban hành Chỉ thị 03/2021/CTNHNN về việc kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong đó khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ của tổ chức tín dụng. Đi ngược lại mong muốn của ngân hàng Nhà Nước, đa số các Ngân hàng đẩy mạnh cho vay nhằm làm tăng tổng dư nợ lên để đảm bảo dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán xuống dưới mức 3% tổng dư nợ. Việc tăng quá nhanh dư nợ cho vay của các ngân hàng TMCP kèm theo đó là nới lỏng điều kiện cho vay nên không thể có chất lượng tín dụng tốt được. Mặt khác khi nền kinh tế lạm phát cùng với chính sách thắt chắt tiền tệ làm cho các doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng do các ngân hàng thực hiện biện pháp thắt chặt tín dụng và nếu có vay được vốn thì áp lực phải trả lãi cao cùng với giá cả đầu vào cao – chi phí sản xuất kinh doanh tăng vọt đã góp phần làm suy yếu sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp. Với biến động thất thường của nền kinh tế, đầu năm giá tăng, cuối năm giảm làm cho các doanh nghiệp đã phải chịu chi phí sản xuất cao nhưng sản phẩm làm ra không thể bán được giá cao khi giá cả giảm do vậy ảnh hưởng đến việc trả nợ các khoản vay của doanh nghiệp với ngân hàng, nợ xấu sẽ tăng lên cao.
Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng giảm sút do môi trường kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro (rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng) cộng với những yếu kém nội tại của các ngân hàng (tăng trưởng tín dụng bất động sản quá nóng, bất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn lấy vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn, vay lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng để cho vay vào các lĩnh vực chứa đầy rủi ro như bất động sản, chứng khoán) đã làm cho nhiều ngân hàng đứng trước nguy cơ xảy ra khủng hoảng thanh khoản trong thời gian qua, hiệu quả sử dụng vốn thấp và hầu hết các ngân hàng đều phải điều chỉnh lại chỉ tiêu kế hoạch lợi nhuận của mình từ 30 – 40%. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Sau khi nền kinh tế bắt đầu lâm vào suy thoái thì ngân hàng Nhà Nước đã thực hiện chính sách lới lỏng tiền tệ để kích thích sản xuất kinh doanh, tăng trưởng tín dụng thông qua các gói hỗ trợ lãi suất nhưng tình hình tăng trưởng tín dụng không cải thiện. Dư nợ trung dài hạn giảm mạnh, dư nợ ngắn hạn tăng mạnh hơn dư nợ trung dài hạn. là do các doanh nghiệp làm ăn sa sút và dư âm của chính sách thắt chặt tín dụng trong giai đoạn qua nhưng một phần do chính sách hỗ trợ lãi suất của chính phủ còn nhiều hạn chế. Chính sách hỗ trợ lãi suất tập trung vào cho vay kinh doanh thương mại, đối tượng cho vay được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất còn hẹp, chưa phát huy tác dụng đến mọi loại hình doanh nghiệp, cơ chế cấp bù lãi suất, thời gian quá ngắn. Doanh nghiệp nhà nước vẫn là nhóm khách hàng có nhu cầu vay vốn nhiều nhất và được chấp nhận cấp tín dụng nhiều nhất, các doanh nghiệp vẫn khó khăn trong việc tiếp cận vốn.
4.Đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng TMCP
Vốn điều lệ của các ngân hàng TMCP. Căn cứ vào mức vốn điều lệ năm 2022 ta chia hệ thống ngân hàng TMCP thành 3 nhóm
Nhóm 1: Gồm 8 ngân hàng có mức vốn điều lệ từ 3000 tỷ trở lên
Nhóm 2 gồm có 11 ngân hàng TMCP có mức vốn điều lệ từ 2014 – 3000 tỷ. Chỉ duy nhất có LVB có mức vốn điều lệ 3300 tỷ nhưng vẫn xếp vào nhóm này vì ngân hàng này mới thành lập năm 2022.
4.1. Hoạt động huy động vốn
Biểu đồ 1: Tỷ lệ tăng trưởng vốn huy động các năm, tỷ lệ vốn huy động trên vốn chủ sở hữu của một số ngân hàng TMCP
Trong những năm qua tổng nguồn vốn huy động (gồm tiền gửi và vay các tổ chức tín dụng khác, tiền gửi của khách hàng, phát hành giấy tờ có giá và các nguồn vốn khác) của các ngân hàng TMCP đã không ngừng tăng lên. Tốc độ tăng trưởng cuả nguồn vốn huy động năm 2021 so với năm 2020 rất cao lên đến trên 100% như GDB tăng trưởng 135,6%, MXB tăng trưởng 180,1%, KLB tăng trưởng với 210% và đặc biệt là PACB tăng trưởng 503,5% nguyên nhân là do năm 2021 là năm thành công của ngành ngân hàng, mạng lưới hoạt động của các ngân hàng TMCP tăng với tốc độ chóng mặt, vốn điều lệ tăng cao, nhiều dịch vụ tiện ích ra đời, uy tín không ngừng tăng lên đã thu hút được lượng lớn khoản tiền gửi nhưng đến năm 2022 tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động đã thấp hơn rất nhiều một phần là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và chịu ảnh hưởng bởi chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ. Tuy nhiên tỷ lệ tổng vốn huy động/ vốn chủ sở hữu ở các ngân hàng nhóm 1 vẫn tương đối tốt chỉ có EIB là thấp một phần do trong năm 2022 đã tăng vốn chủ sở hữu cao gấp đôi trong khi vốn huy động chỉ tăng 40,34%. Bên cạnh đó thì khả năng huy động vốn của các ngân hàng nhóm 2 và 3 còn quá thấp so với mức thông thường (từ 15 đến 20 lần), quy mô vốn huy động còn quá nhỏ so với tiềm lực thực sự của vốn chủ sở hữu nguyên nhân chính là do trong năm 2022 các ngân hàng có vốn điều lệ thấp đều phải tăng vốn lên 1000 tỷ để tránh bị sáp nhập điển hình như GDB, MXB, KLB, PACB đều đã tăng mức vốn điều lệ lên gấp đôi vào năm 2022. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Bảng 3: Tỷ lệ cơ cấu nguồn vốn huy động 2020-2022 của ngân hàng TMCP nhóm 1.
Mặc dù tăng trưởng nguồn vốn huy động ở các ngân hàng TMCP đều giảm trong năm 2022 nhưng tỷ trọng của các nguồn vốn thành phần trong nguồn vốn huy động của các ngân hàng TMCP nhóm 1 thay đổi rất ít trong đó nguồn vốn huy động từ khách hàng vẫn là nguồn vốn chính của các ngân hàng nhóm này luôn chiếm tầm 77% ( lấy trung bình 6 ngân hàng trên). Điều đó chứng tỏ các ngân hàng này có nguồn lực tài chính và thương hiệu mạnh cùng với chiến lược kinh doanh hợp lý nên hoạt động huy động vốn rất hiệu quả, ít chịu ảnh hưởng từ những bất lợi của nền kinh tế và những chính sách của ngân hàng Nhà Nước đề ra. Cơ cấu vốn của các ngân hàng TMCP này tương đối hợp lý, tỷ trọng nguồn vốn huy động tiền gửi và vay các tổ chức tài chính khác không quá cao trong khi đó nhiều ngân hàng đã phát hành trái phiếu để huy động vốn dài hạn bổ sung cho vốn chủ sở hữu. Tỷ trọng nguồn vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá ngày càng tăng lên cho thấy các ngân hàng nhóm 1 có chiến lược huy động vốn hợp lý, cân đối giữa nguồn vốn trung, dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn.
Bảng 4: Tỷ lệ cơ cấu nguồn vốn huy động 2020 – 2022 của ngân hàng TMCP nhóm 2
Tỷ trọng nguồn vốn thành phần trong tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng TMCP nhóm 2 và nhóm 3 thay đổi tương đối nhiều chủ yếu là do các ngân hàng TMCP này tiềm lực tài chính kém, dễ chịu tác động bởi những thay đổi của môi trường kinh doanh. Trong năm 2021, tỷ trọng nguồn vốn huy động từ khách hàng của các ngân hàng TMCP nhóm 2 chỉ chiếm tầm 50%, các ngân hàng TMCP nhóm 3 thấp hơn ở mức 30% trong đó nguồn vốn huy động từ tiền gửi và vay các tổ chức tín dụng chiếm tỷ lệ tương đối cao khoảng 30-60%. Chính cơ cấu nguồn vốn huy động này đã làm cho các ngân hàng TMCP nhóm 2, 3 này chịu ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chính cũng như những biến động của nền kinh tế và chính sách điều tiết của ngân hàng Nhà Nước. Trong những tháng đầu năm 2022 vừa qua, do chính sách thắt chặt tiền tệ của ngân hàng Nhà Nước đã làm cho các ngân hàng đều thiếu hụt thanh khoản phải nâng cao mức lãi suất huy động để giải quyết vấn đề thanh khoản dẫn đến cuộc chạy đua lãi suất giữa các ngân hàng (diễn ra chủ yếu giữa các ngân hàng TMCP).
Các ngân hàng TMCP vừa và nhỏ do tiềm lực tài chính yếu nên thiếu thanh khoản trầm trọng đã dần đầu cuộc đua này. Bằng hình thức huy động với lãi suất hấp dẫn hơn các ngân hàng thương mại khác khiến cho một lượng lớn các khách hàng chuyển từ các ngân hàng có lãi suất thấp sang các ngân hàng này để kiếm lời do đó các ngân hàng vừa và nhỏ này đã huy động được một lượng lớn tiền từ dân cư. Song hành với cuộc đua lãi suất trên thị trường 1 thì trên thị trường liên ngân hàng cuộc đua đó cũng diễn ra quyết liệt làm cho các ngân hàng trước kia dựa nhiều vào nguồn vốn vay liên ngân hàng đã không thể chịu nổi chi phí vốn lớn đó làm cho tỷ trọng nguồn vốn huy động từ tiền gửi và vay các tổ chức tín dụng khác giảm đáng kể. Do tình hình thiếu thanh khoản diễn ra phổ biến trên toàn hệ thống ngân hàng nên tài khoản tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại các ngân hàng đều giảm vì các tổ chức này cũng rút bớt về để giải quyết vấn đề thanh khoản do đó tỷ trọng của nguồn vốn huy động từ tiền gửi và vay các tổ chức tín dụng khác giảm và nguồn vốn huy động từ khách hàng ( nguồn vốn có tính chất ổn định) tăng lên trở thành nguồn huy động chính của các ngân hàng như VPB, VIB, ABB, DAB. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn huy động theo chiều hướng tích cực làm cho cơ cấu nguồn vốn huy động của các ngân hàng TMCP ổn định hơn, nâng cao khả năng tiềm lực chống lại biến động kinh tế. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Mặc dù thực tế là các ngân hàng ở nhóm 3 đưa ra những mức lãi suất hấp dẫn hơn đã làm cho tỷ trọng vốn huy động từ khách hàng trên tổng nguồn vốn huy động cải thiện nhiều so với năm 2021 (tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động từ khách hàng khoảng trên 50% cao hơn các ngân hàng ở nhóm 1, 2) nhưng nguồn huy động từ khách hàng vẫn chưa phải là nguồn vốn huy động chính của các ngân hàng này ( ngoại trừ MXB, DAB, KLB). Điều đó nói lên khả năng huy động vốn từ khách hàng của các ngân hàng nhóm 3 chưa hiệu quả một phần là do uy tín của các ngân hàng này chưa cao, niềm tin của khách hàng còn thấp và thị phần huy động của nhóm ngân hàng này chiếm tỷ trọng còn nhỏ trong hệ thống ngân hàng TMCP. Bên cạnh đó, tuy tỷ trọng nguồn vốn huy động từ tiền gửi và vay các tổ chức tín dụng khác của một số ngân hàng TMCP nhóm 2, 3 có xu hướng giảm xuống so với năm 2021 nhưng tỷ trọng này vẫn tương đối cao trong khi nguồn vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá của các ngân hàng TMCP nhóm 2, 3 chiếm tỷ trọng rất nhỏ và hầu hết các ngân hàng TMCP nhóm 3 đã không huy động nguồn vốn này. Chính điều này đã làm cho nguồn vốn của các ngân hàng TMCP nhóm 2 đặc biệt là các ngân hàng TMCP nhóm mất cân đối trầm trọng, cơ cấu vốn chủ yếu là các khoản vốn huy động ngắn hạn, không ổn định. Đây chính là khiếm khuyết trong cơ cấu huy động vốn của các ngân hàng TMCP vừa và nhỏ.
Bảng 5: Tỷ lệ cơ cấu nguồn vốn huy động 2020 – 2022 của ngân hàng TMCP nhóm 3
4.2. Hoạt động tín dụng
Biểu đồ 2: Dư nợ tín dụng của một số ngân hàng TMCP từ 2020 – 2022
Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng của các ngân hàng TMCP trong năm 2022 thấp hơn nhiều so với năm 2021 là do trong năm 2022 các ngân hàng TMCP đã thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng theo chủ trương của ngân hàng Nhà Nước. Nhìn vào bảng trên ta thấy mức tăng trưởng của các ngân hàng TMCP ở nhóm 1,2 thấp, chỉ vào khoảng từ 10-20%, cao nhất là 30.36% trong khi đó mức tăng trưởng của các ngân hàng TMCP nhóm 3 vẫn còn cao, cao nhất lên đến 62.41% (MXB). Điều đó cho thấy các ngân hàng TMCP nhóm 3 tập trung nhiều hơn vào hoạt động tín dụng và hoạt động tín dụng được coi là hoạt động thu lợi chủ yếu của các ngân hàng này. Bên cạnh đó cũng phản ánh được phần nào chính sách tín dụng của các ngân hàng nhóm 3 lới lỏng, điều kiện cấp tín dụng dễ dãi hơn so với các ngân hàng TMCP nhóm 1, 2 và do đó tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn trong năm 2022. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Bảng 6: Tăng trưởng huy động từ khách hàng, tăng trưởng tín dụng của một số ngân hàng TMCP 2022 so với 2021
Từ bảng trên cho ta thấy quy mô hoạt động tín dụng đã thu hẹp, hiệu quả sử dụng vốn huy động để cho vay thấp đi thể hiện rõ qua tỷ lệ dư nợ/ tổng tài sản có, tỷ lệ dư nợ/ vốn huy động ở các ngân hàng TMCP có xu hướng giảm trong năm 2022. Tuy nhiên tỷ lệ dư nợ/ tổng tài sản có, tỷ lệ dư nợ/ vốn huy động này vẫn ở mức cao trên 50%. Điều đó cho thấy hoạt động tín dụng vẫn chiếm tỷ lệ cao trong hoạt động của các ngân hàng và đây là mảng hoạt động chính đem lại thu nhập cho các ngân hàng. Đặc biệt là tại các ngân hàng TMCP nhóm 3 phụ thuộc chủ yếu vào lĩnh vực tín dụng để sinh lời như MXB, KLB, PACB có tỷ lệ dư nợ cho vay/ vốn huy động chiếm trên 90% đã chịu tác động mạnh mẽ bởi chính sách thắt chặt tiền tệ dẫn đến rủi ro tín dụng tăng cao, lợi nhuận của các ngân hàng bị giảm sút mạnh.
Rủi ro tín dụng
Do các ngân hàng TMCP tập trung quá nhiều vào hoạt động tín dụng đặc biệt các ngân hàng TMCP nhóm 3 phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động tín dụng để thu lợi nhuận nên trong năm 2022 xuất hiện nhiều rủi ro tín dụng ảnh hưởng mạnh đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng TMCP. Rủi ro tín dụng xuất phát từ thị trường bất động sản tăng trưởng nóng trong năm 2021 đã đẩy tăng trưởng tín dụng bất động sản lên cao cùng với việc các ngân hàng đẩy mạnh tăng dư nợ để đảm bảo tỷ lệ dư nợ tín dụng cho vay chứng khoán dưới 3% dẫn đến rủi ro nợ xấu khi thị trường bất động sản giảm mạnh trong năm 2022. Theo thống kê của ngân hàng Nhà Nước tính đến cuối tháng 4/2022, dư nợ cho vay để kinh doanh bất động sản là 135000 tỷ đồng, chiếm 13% tổng dư nợ. Tỷ lệ này có thể cao hơn so với tỷ lệ được công bố, lên đến khoảng 20% tổng dư nợ cho vay. Đặc biệt là các ngân hàng TMCP nhóm 3, các sản phẩm dịch vụ chưa phát triển, để tăng lợi nhuận chỉ có thể đẩy mạnh tín dụng trong đó tín dụng bất động sản tăng nhanh nhất với tỷ trọng từ 50-70% tổng dư nợ. Khoản chênh lệch này nằm trong dư nợ cho vay tiêu dùng do các ngân hàng không kiểm soát được hết mục đích sử dụng của những khoản vay này. Không những thế hầu hết các hợp đồng cho vay bất động sản đều được ký kết và giải ngân vào thời kỳ cao điểm nhất của thị trường bất động sản (quý 4/2021) trong khi đó các ngân hàng không cố định mức lãi suất ban đầu trong suốt thời hạn vay mà lãi suất cho vay được điều chỉnh theo lãi suất thị trường, quy định rõ trong hợp đồng cho vay. Như vậy khi lãi suất tăng cùng lúc với thị trường bất động sản sụt giảm đã dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán tăng cao đối với khoản vay bất động sản trong sáu tháng cuối năm 2022.
Một rủi ro tiềm ẩn quan trọng nữa là đa phần các khoản cho vay của các ngân hàng đều được đảm bảo bằng bất động sản. Do đó rủi ro tín dụng gắn liền với sự biến động của thị trường bất động sản. Khi thị trường bất động sản sụt giảm sẽ làm cho giá trị của các tài sản đảm bảo sụt giảm, tài sản của các ngân hàng TMCP giảm sút và rủi ro tín dụng tăng cao.
Bên cạnh đó các khoản cho vay cầm cố chứng khoán tăng nhanh trong năm 2020-2021 cũng góp phần làm tăng rủi ro tín dụng. Tại một số ngân hàng TMCP nhỏ có thời điểm tỷ lệ cho vay cầm cố chứng khoán lên đến mức 40-50% dư nợ cho vay. Đến năm 2022 thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh làm tăng rủi ro tín dụng đối với các khoản cho vay cầm cố chứng khoán nhất là các ngân hàng TMCP nhỏ có tỷ lệ cho vay cầm cố chứng khoán cao. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Ngoài ra rủi ro xuất phát từ tình hình tài chính của các doanh nghiệp đi vay. Do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế trong nước và tác động của chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô làm cho nhiều doanh nghiệp ( xuất nhập khẩu, kinh doanh bất động sản, xây dựng, vận tải hàng hoá…) không đủ khả năng trả các khoản vay dẫn đến nợ quá hạn, nợ xấu tăng cao.
Tuy các ngân hàng TMCP đã thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng nhưng tỷ lệ nợ xấu/ tổng tài sản của hầu hết các ngân hàng TMCP đều tăng cao hơn so với năm 2021. Đặc biệt khoản nợ xấu từ các khoản vay bất động sản vì tỷ lệ cho vay bất động sản chiếm tỷ lệ cao trên tổng dư nợ. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do rủi ro trong hoạt động tín dụng trong năm 2022 cao hơn rất nhiều so với năm 2021. Rủi ro đó xuất phát từ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và nền kinh tế trong nước cùng với những chính sách điều tiết của ngân hàng Nhà Nước. Tính đến cuối năm 2022 nhiều ngân hàng TMCP có tỷ lệ nợ xấu vượt quá giới hạn an toàn theo quy định của ngân hàng Nhà Nước ( tỷ lệ nợ xấu dưới 3%) điển hình là PACB với mức cao báo động là 10.83%. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng nhóm 1 cũng ở mức cao như EIB (4,71%), TCB (2.56%) mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng chỉ ở mức 20%. Nguyên nhân một phần là do các ngân hàng này đã cấp tín dụng tập trung quá nhiều vào các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán, xây dựng và một phần vì mục tiêu lợi nhuận các ngân hàng này đã mua lại các khoản nợ của các ngân hàng TMCP nhỏ dẫn đến phát sinh nhiều khoản nợ xấu. Qua đó phản ánh chính sách tín dụng của các ngân hàng TMCP còn quá lỏng lẻo, dễ dàng trong khâu thẩm định, quản trị rủi ro tín dụng còn yếu kém dễ dẫn đến rủi ro mất vốn, gây thua lỗ cho ngân hàng.
Thu nhập lãi tiền ròng/chi phí lãi
- Bảng 8: Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng của một số ngân hàng TMCP năm 2021, 2022
- Bảng 11: Tỷ lệ cơ cấu thu nhập trên tổng thu nhập của một số ngân hàng TMCP nhóm 1 (%)
Tuy chịu ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính và khó khăn từ nền kinh tế trong nước nhưng trong năm 2022, các ngân hàng TMCP nhóm 1 có mức tăng trưởng thu nhập tương đối cao khoảng 70%. Nguyên nhân là do các khoản mua bán chứng khoán kinh doanh và đầu tư của các ngân hàng này có mức thua lỗ thấp khi thị trường chứng khoán sụt giảm trong năm 2022. Điều đó chứng tỏ các ngân hàng TMCP nhóm 1 đầu tư vào các cổ phiếu có tính rủi ro thấp, chiến lược kinh doanh của các ngân hàng này không quá tập trung vào lĩnh vực mua bán kinh doanh chứng khoán. Trong khi đó các ngân hàng TMCP nhóm 1 có lợi thế về dịch vụ như STB, ACB…, có lợi thế về kinh doanh vàng ( EIB, STB, ACB) nên các đã thu được khoản lợi nhuận từ các mảng dịch vụ và kinh doanh ngoại tệ lớn hơn nhiều so với khoản thua lỗ từ việc mua bán chứng khoán kinh doanh và đầu tư. Tuy thu nhập từ hoạt động của TCB giảm nhưng thu nhập từ mua bán chứng khoán của TCB tăng cao khiến cho tăng trưởng thu nhập của TCB lên tới 170.58%( cao hơn so với EIB, STB, ACB). Nhìn chung thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ lệ tương đối cao trong tổng thu nhập của các ngân hàng TMCP nhóm 1 nhưng thu nhập từ hoạt động tín dụng trong năm 2022 gần như chỉ tăng hoặc giảm một ít. Nguyên nhân là do các ngân hàng bị ảnh hưởng bởi quy định hạn chế tăng trưởng tín dụng của ngân hàng Nhà Nước và những khó khăn phát sinh từ chính sách tiền tệ. Bên cạnh đó thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối có xu hướng tăng lên ở các ngân hàng có lợi thế về kinh doanh vàng (EIB, STB, ACB), thu nhập từ hoạt động dịch vụ tăng lên ở các ngân hàng có lợi thế về dịch vụ ( STB, ACB). Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Bảng 12: Tỷ lệ cơ cấu thu nhập trên tổng thu nhập của một số ngân hàng TMCP nhóm 2 (%)
Thu nhập từ hoạt động tín dụng của các ngân hàng TMCP nhóm 2 tăng lên so với các ngân hàng TMCP nhóm 1 nhưng mức tăng thu nhập từ hoạt động tín dụng chưa chiếm khoảng 10% tổng thu nhập.Tuy nhiên tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng rất cao chiếm đến trên 80% tổng thu nhập. Chứng tỏ mức độ phụ thuộc vào hoạt động tín dụng của các ngân hàng TMCP nhóm 2 cao hơn so với nhóm 1. Do đó các ngân hàng TMCP nhóm 2 sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn các ngân hàng TMCP nhóm 1 từ những khó khăn trong năm 2022. Do hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng này nên các ngân hàng trong năm 2022 đã nâng cao chất lượng dịch vụ để tăng nguồn thu từ dịch vụ bù đắp cho những khoản thua lỗ từ hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh và đầu tư. Tuy thu nhập từ dịch vụ của các ngân hàng này tăng lên nhưng mức tăng thấp khoảng 4% tổng thu nhập trong khi thua lỗ từ hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh và đầu tư của các ngân hàng này cao hơn nhiều (VIB lỗ 8.6%; ABB lỗ 7.3%; HBB lỗ 6.9% tổng thu nhập) làm cho thu nhập của các ngân hàng này giảm sút điển hình là ABB thu nhập giảm 20% so với năm 2021. Qua đó cho thấy nguồn thu nhập của các ngân hàng TMCP nhóm phụ thuộc chính vào hoạt động tín dụng và nguồn thu thứ 2 là hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh và đầu tư. Hoạt động kinh doanh này tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất là khi thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh trong năm 2022 đã ảnh hưởng mạnh đến tổng thu nhập của các ngân hàng. Hoạt động dịch vụ chưa phát triển. Hoạt động kinh doanh ngoại hối gặp khó khăn điển hình là ABB lỗ 1.47% tổng thu nhập do tỷ giá biến động mạnh trong năm 2022 gây rủi ro cho ngân hàng. Tuy tỷ lệ thu nhập từ hoạt động dịch vụ có xu hướng tăng nhưng chưa cao.
Bảng 13: Tỷ lệ cơ cấu thu nhập trên tổng thu nhập của một số ngân hàng TMCP nhóm 3 năm 2021, 2022(%)
Thu nhập từ hoạt động tín dụng của các ngân hàng TMCP nhóm 3 chiếm tỷ lệ cao trên tổng thu nhập khoảng 80%. Đa phần tỷ lệ thu nhập từ hoạt động này đều giảm hoặc tăng ít so với năm 2021( ngoại trừ GDB, WB). Do đó thu nhập của các ngân hàng này cũng sụt giảm mạnh trong năm 2022. Tuy nhiên các ngân hàng này lại tập trung nhiều vào hoạt động mua bán chứng khoán do đó nhiều ngân hàng chịu thua lỗ rất nặng từ chứng khoán như GDB (lỗ 71% tổng thu nhập), VAB( lỗ 14% tổng thu nhập). Ngoài ra các hoạt động dịch vụ, hoạt động kinh doanh ngoại tệ, góp vốn cổ phần, của các ngân hàng này chưa được chú ý đến nhiều. Tuy nhiên trong năm 2022, một số ngân hàng TMCP đã thu lợi lớn từ hoạt động kinh doanh ngoại hối như VAB ( thu nhập từ kinh doanh ngoại hối chiếm 29.64% tổng thu nhập), GDB( thu nhập kinh doanh ngoại hối chiếm 6.54% tổng thu nhập) là do các ngân hàng này tận dụng được cơ hội từ biến động mạnh của ngoại tệ trong năm 2022. Nhìn chung thu nhập các ngân hàng nhóm 3 sụt giảm mạnh nhất là GDB sụt giảm 48.32% so với năm 2021.
4.5. Nhận xét chung Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Tăng trưởng vốn huy động của các ngân hàng TMCP thấp hơn so với năm 2021. Tuy nhiên tỷ lệ vốn huy động/ vốn chủ sở hữu của các ngân hàng TMCP còn thấp so với mức thông thường nhất là các ngân hàng TMCP nhóm 3 chỉ khoảng 2 lần do các ngân hàng này tăng vốn điều lệ cao trong năm 2022.
Cơ cấu tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng TMCP nhóm 1 gần như không thay đổi trong khi đó tại các ngân hàng TMCP nhóm 2, 3 thay đổi nhiều. Cơ cấu nguồn vốn của các ngân hàng TMCP nhóm 1 tương đối hợp lý. Tỷ trọng nguồn vốn huy động từ khách hàng vẫn chiếm ưu thế, tỷ trọng vốn huy động từ tiền gửi và vay các tổ chức tài chính khác không quá cao, tỷ trọng nguồn huy động phát hành giấy tờ có giá có xu hướng tăng. Trong khi đó tuy cơ cấu tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng TMCP nhóm 2, 3 có sự chuyển dịch theo hướng tích cực trong năm 2022: tỷ trọng nguồn huy động từ khách hàng có xu hướng tăng lên nhưng tỷ trọng đó vẫn ở mức chưa cao đặc biệt là các ngân hàng TMCP nhóm 3. Đặc biệt là tỷ trọng nguồn huy động từ tiền gửi và vay các tổ chức tài chính khác giảm nhưng vẫn cao và giữ vai trò quan trọng trong tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng TMCP nhóm 2, 3. Nguồn vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá chiếm tỷ lệ rất nhỏ và hầu như các ngân hàng chưa huy động nguồn vốn từ hoạt động này. Do đó các ngân hàng TMCP nhóm 2, 3 chủ yếu huy động vốn ngắn hạn để cho vay dẫn đến bất cân đối nguồn vốn nghiêm trọng.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng tại các ngân hàng TMCP giảm mạnh tuy nhiên tại các ngân hàng TMCP nhóm 3 vẫn rất cao, tăng trưởng lên đến 60%. Hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chính của các ngân hàng TMCP đặc biệt là các ngân hàng TMCP nhóm 3, chất lượng sản phẩm dịch vụ thấp, sản phẩm nghèo nàn, công nghệ chưa cao. Do đó rủi ro tín dụng tại các ngân hàng TMCP tăng cao. Tỷ lệ nợ xấu tăng cao do các ngân hàng đã cấp tín dụng tập trung quá nhiều vào các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán, xây dựng. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Thiếu hụt thanh khoản trầm trọng tại các ngân hàng phụ thuộc nhiều vào vốn vay liên ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng TMCP nhóm 3.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng TMCP thấp. Tỷ lệ ROA, ROE giảm so với năm 2021. Tỷ lệ chi phí hoạt động/ thu nhập hoạt động của các ngân hàng TMCP nhóm 2, 3 tăng lên.
Thu nhập từ hoạt động tín dụng và chứng khoán giảm mạnh ở hầu hết các ngân hàng TMCP. Nhiều ngân hàng TMCP nhóm 3 lỗ nặng trong việc đầu tư chứng khoán.Thu nhập từ dịch vụ và kinh doanh vàng tăng lên chủ yếu tại các ngân hàng TMCP nhóm 1 chất lượng dịch vụ tốt, có thế mạnh về kinh doanh vàng. Tổng thu nhập của các ngân hàng TMCP nhóm 1 tăng trưởng cao, nhiều ngân hàng TMCP nhóm 2, 3 tăng trưởng thu nhập âm.
5. Tồn tại và nguyên nhân tồn tại trong hoạt động của các ngân hàng TMCP Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
5.1. Tồn tại trong hoạt động của ngân hàng
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng TMCP giảm sút mạnh. Lợi nhuận giảm, rủi ro hoạt động tăng cao ( rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất). Tuy đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% nhưng tỷ lệ này chỉ mới vượt qua tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu một chút.
Hoạt động kinh doanh còn nghèo nàn tập trung chủ yếu là hoạt động tín dụng. Một số hoạt động kinh doanh ngoại tệ, hoạt động kinh doanh vàng, mua bán cổ phần chỉ phát triển chủ yếu tại các ngân hàng TMCP nhóm 1 như (EIB, STB, ACB). Các ngân hàng TMCP tham gia nhiều vào hoạt động kinh doanh mua bán chứng khoán. Hoạt động dịch vụ chưa phát triển.
Khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế không cao. Thông thường cứ 1 đồng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại có thể huy động được 15 đồng vốn từ nền kinh tế, nhưng tại các ngân hàng TMCP con số này rất thấp đặc biệt là các ngân hàng TMCP nhóm 3 chỉ khoảng 2 lần do đó bị hạn chế quy mô hoạt động và không đạt được mức lợi nhuận tối đa.
Bất cân đối nguồn vốn. Nguồn vốn huy động chủ yếu của các ngân hàng TMCP là vốn huy động từ khách hàng và từ tiền gửi và vay các tổ chức tài chính khác với lãi suất cao. Do đó các ngân hàng phải thường xuyên lo lắng đến đảm bảo khả năng chi trả cho dân chúng gửi tiền. Đồng thời, khi có khó khăn, một số ngân hàng rút vốn làm cho các ngân hàng này bị động, lúng túng trong việc điều hành thanh khoản, vay mượn lẫn nhau làm cho lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có thời điểm lên đến 43%/năm. Đặc biệt là các ngân hàng TMCP nhóm 3 hoạt động mạnh trên thị trường liên ngân hàng, vay vón trên thị trường này để cho vay trên thị trường 1.
Chất lượng tín dụng có nhiều điểm hạn chế
Tỷ lệ nợ xấu ở mức 2,26% tăng 1,15% so với cuối năm 2021. Tỷ lệ nợ xấu đó tuy không cao nhưng số tuyệt đối khá lớn, rủi ro tín dụng tăng cao.
- Cho vay đối với các lĩnh vực bất động sản ở các ngân hàng TMCP phần nhiều là vẫn dựa vào tài sản thế chấp, chưa đánh giá được năng lực trả nợ của khách hàng làm cơ sở cho vay.
- Vay đảo nợ phổ biến ở các ngân hàng trong những tháng cuối năm 2022.
Khả năng thích ứng với sự biến động của môi trường kinh doanh của không ít các ngân hàng TMCP còn yếu. Hoạt động ngân hàng bị tác động mạnh của thị trường tiền tệ, thay đổi nhiều về cơ cấu lãi suất. Do huy động vốn khó khăn, hầu hết các ngân hàng phải sử dụng nhiều biện pháp để hút và giữ nguồn vốn. Lãi suất huy động ngắn hạn cao hơn lãi suất huy động dài hạn. Nhiều ngân hàng ở một số thời điểm đã tăng lãi suất quá cao sát trần lãi suất cho vay, làm thị trường tiền tệ lộn xộn, khách hàng chuyển dịch tiền lòng vòng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác và “làm giá” với ngân hàng. Thiếu hụt thanh khoản diễn ra trong suốt năm 2022. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
5.2. Nguyên nhân của những tồn tại
5.2.1. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Trong mấy năm gần đây tuy các ngân hàng không ngừng tăng vốn điều lệ nhưng so với các ngân hàng thương mại trên thế giới thì mức vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam quá nhỏ. Nếu so sánh ngân hàng TMCP có vốn điều lệ lớn nhất ở Việt Nam là Vietcombank thì chỉ mới đạt 12100 tỷ VND ( 730 triệu USD) trong khi các ngân hàng thương mại trên thế giới như City bank đạt 83 tỷ USD, Bank of American đạt 67 tỷ USD; ICB China đạt 20 tỷ USD, Krungbank Thailand đạt 5,8 tỷ.
Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng TMCP chưa thực sự hiệu quả. Các ngân hàng chưa kết nối rộng rãi hệ thống thanh toán thẻ trong nước cũng như với các tổ chức thẻ quốc tế, do đó chưa phát huy được hết những tiện ích của thẻ, gây lãng phí nguồn lực ở ngân hàng, chưa thực sự tiện ích cho khách hàng. Một số ngân hàng đã đầu tư khá lớn vào hệ thống ATM, nhưng chất lượng dịch vụ chưa tốt nên hiệu quả chưa cao.
Dịch vụ ngân hàng còn nghèo nàn, thiếu sức cạnh tranh. Hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu cung cấp các dịch vụ tín dụng, dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, các dịch vụ ngân hàng hiện đại phát triển chậm.
Tăng trưởng tín dụng quá nóng vượt quá tốc độ tăng trưởng vốn huy động đi kèm với cơ cấu đầu tư không hợp lý, tập trung nhiều vào bất động sản từ cuối năm 2021 và đầu năm 2022. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Các ngân hàng nhỏ đã cấp tín dụng với những điều kiện dễ dãi hơn để đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng. Cơ sở dữ liệu về lịch sử tín dụng của người đi vay chưa đầy đủ, chưa có hệ thống cung cấp thông tin lịch sử tín dụng của toàn bộ con nợ cá nhân. Một tỷ trọng không nhỏ các khoản vay chỉ dựa đơn thuần vào quá khứ trả nợ vay của người xin vay ở những ngân hàng khác khi đánh giá khả năng chi trả nợ vay của người xin vay. Cho vay quá mức khả năng chi trả của con nợ ( một cá nhân có thể vay nhiều khoản vay cùng một lúc hoặc vay ở ngân hàng khác để trả nợ các khoản vay đến hạn ở ngân hàng đang vay)
Cấp tín dụng cho những con nợ đã có lịch sử nợ xấu tại các ngân hàng khác vì ngân hàng không có đầy đủ và chính xác thông tin khách hàng.
Đối tượng cho vay tập trung chủ yếu là các cá nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Cho vay tập trung chủ yếu ở các ngành chứa nhiều rủi ro như bất động sản, kinh doanh chứng khoán, xây dựng
Chưa hề có công cụ đánh giá được rủi ro tín dụng của người xin vay vốn, việc cấp tín dụng chủ yếu dựa vào chính sách tín dụng nội bộ của ngân hàng, mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng và tình hình lãi suất trên thị trường
Một số ngân hàng nhóm 3 thiếu khả năng thu hút nguồn cung tiền từ thị trường 1 mà đã sử dụng vốn chủ yếu từ thị trường 2 để cho vay những lĩnh vực rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản, đã tạo ra khó khăn về thanh khoản cho chính ngân hàng đó cũng như cả hệ thống ngân hàng.
Giao dịch ngoại tệ tại các ngân hàng chủ yếu tập trung vào một loại ngoại tệ là USD nên khi tỷ giá biến động (tăng hoặc giảm) đã tác động đến cung cầu thanh khoản, tạo sự không hợp lý, gây rủi ro thanh khoản.
Chưa quan tâm tới việc đa dạng hoá dự trữ thứ cấp để chuẩn bị cho nguồn cung thanh khoản, vì vậy khi cần không thể giải quyết một cách linh hoạt và nhanh chóng được, sẽ gây bất lợi về thanh khoản đối với các ngân hàng TMCP.
Tính liên kết hệ thống giữa các ngân hàng TMCP để đảm bảo an toàn thanh khoản còn yếu, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao, tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền hoặc rút tiền chuyển sang các ngân hàng TMCP khác, dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống. Bên cạnh đó hiện tượng, nhiều ngân hàng lớn với uy tín lâu năm, mạng lưới hoạt động rộng, khả năng huy động vốn tốt đã thu hút tiền gửi của khách hàng rồi cho vay lại trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao từ 20-24% để thu lợi nhuận, gây khó khăn cho các ngân hàng TMCP nhỏ đang tìm cách huy động vốn để bù đắp thiếu hụt thanh khoản. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Chất lượng nhân sự của các ngân hàng TMCP chưa cao. Nhân viên hiện là những người rất trẻ, kinh nghiệm làm việc còn ít, do đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng Công nghệ còn lạc hậu. Các ngân hàng do năng lực tài chính hạn hẹp nên chưa có sự đầu tư thích đáng đến công nghệ. Các ngân hàng chủ yếu thu lợi nhuận từ hoạt động tín dụng, còn dịch vụ ngân hàng hiện đại chưa phát triển nên khó có thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài trong thời gian sắp tới.
Công tác dự báo và phân tích thị trường của các ngân hàng TMCP còn hạn chế, còn tư tưởng ý lại quá nhiều vào cơ chế Nhà Nước trong khi các ngân hàng nước ngoài, ngoài việc chấp hành nghiêm túc các tỷ lệ an toàn còn thường xuyên nghiên cứu, dự báo sát các diễn biến của thị trường, nên đã dự phòng vốn thanh khoản và đã điều chỉnh kịp thời, không bị động trước những tác động của thị trường.
Chiến lược và phương pháp quản trị rủi ro ở nhiều ngân hàng chưa được quan tâm một cách đúng mức. Các ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận nên đã đầu tư vào tài sản sinh lời quá mức.
5.2.2. Nguyên nhân khách quan từ bên ngoài:
Chính các yếu tố bên ngoài đã làm cho những yếu kém nội tại lâu nay của các ngân hàng TMCP bộc lộ rõ trong thời gian này. Những yếu kém nội tại này cùng với các các nhân tố ảnh hưởng bên ngoài đã gây ra nhiều rủi ro cho hệ thống ngân hàng TMCP trong thời gian vừa qua đã đe doạ đến an toàn hoạt động của các ngân hàng.
Trong giai đoạn khủng hoảng vừa qua, để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an toàn cho hoạt động ngân hàng, Ngân hàng Nhà Nước đã thực thi chính sách tiền tệ do đó đã tác động mạnh đến hoạt động của các ngân hàng TMCP làm cho các ngân hàng phải đối mặt với hàng loạt rủi ro. Đồng thời với đó thì sự sụt giảm của thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán một phần do tác động của cuộc khủng hoảng đã làm cho những tồn tại yếu kém của ngân hàng bộc lộ rõ hơn. Một số ngân hàng TMCP kinh doanh mạo hiểm đi vay ngắn hạn để cho vay chứng khoán, bất động sản đã phải gánh chịu những hậu quả nặng nề, nợ xấu tăng cao.
Tóm lại, các ngân hàng TMCP Việt Nam có quy mô còn nhỏ, hiệu quả hoạt động chưa cao, luôn tồn tại nhiều yếu kém trong hoạt động do đó khi có những biến động mạnh của nền kinh tế thì các ngân hàng sẽ bộc lộ rõ những yếu kém và chịu ảnh hưởng nặng nề. Chính vì thế, tuy cuộc khủng hoảng tài chính thế giới không tác động trực tiếp đến các ngân hàng nhưng thông qua ảnh hưởng của nền kinh tế trong nước, các ngân hàng đã phải chịu tác động mạnh mẽ.
Với hiệu quả hoạt động kém như vậy nên trong thời gian tới các ngân hàng TMCP sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức lớn.
III: NHỮNG THÁCH THỨC ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG TMCP TRONG THỜI GIAN TỚI Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
1. Môi trường kinh doanh biến động
Theo các chuyên gia kinh tế dự đoán năm 2023 sẽ là năm khó khăn hơn của nền kinh tế thế giới cũng như Việt Nam. Đồng thời cũng sẽ là năm biến động thất thường của thị trường chứng khoán, bất động sản, lãi suất, tỷ giá diễn ra do đó dễ dẫn đến rủi ro trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Chính vì thế tình hình khó khăn thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro tín dụng vẫn sẽ là những vấn đề thách thức đặt ra cho các ngân hàng TMCP Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt là các ngân hàng TMCP có quy mô vốn vừa và nhỏ.
2. Sự cạnh tranh diễn ra quyết liệt trong hoạt động ngân hàng
Với cam kết mở cửa thị trường tài chính khi Việt Nam ra nhập WTO đã khiến cho môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn. Sẽ có nhiều ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập ở Việt Nam. Bên cạnh đó với việc xin thành lập ngày càng nhiều các ngân hàng TMCP trong nước, ngân hàng liên doanh và các công ty tài chính đã làm cho môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng trở nên quyết liệt hơn. Đồng thời ảnh hưởng tạm thời của cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ khiến cho các ngân hàng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng mới dẫn đến mức độ cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn. Đây chính là thách thức đối với các ngân hàng TMCP Việt Nam chủ yếu phát triển theo chiều rộng( mở rộng quy mô) chưa chú trọng đến phát triển theo chiều sâu( quan tâm đến chất lượng dịch vụ) nhất là các ngân hàng vừa và nhỏ trong việc giữ khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới trong thời gian tới và do đó các ngân hàng sẽ khó khăn trong việc thu hút vốn và thu nhập của ngân hàng sẽ giảm.
3. Nội lực của các ngân hàng còn yếu Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Hiện tại ở Việt Nam có quá nhiều ngân hàng TMCP nhưng các ngân hàng TMCP này đều nhỏ, chưa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế về vốn và tỷ lệ an toàn hoạt động còn thấp hơn so với các ngân hàng trên thế giới, dịch vụ ngân hàng còn nghèo nàn, trình độ công nghệ chưa cao, năng lực quản trị rủi ro còn kém và đồng thời hoạt động của ngân hàng tập trung chủ yếu vào hoạt động tín dụng nhất là các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản, bất cân đối trong cơ cấu vốn, đầu tư mạo hiểm. Đây chính là khó khăn và thách thức lớn đối với các ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng tài chính này và trong giai đoạn mở cửa thị trường tài chính sắp tới. Để có thể đứng vững tồn tại phát triển trong giai đoạn khủng hoảng tài chính cũng như trong giai đoạn mở cửa thị trường tài chính thì các ngân hàng TMCP Việt Nam cần phải có nỗ lực lớn, nâng cao tiềm lực tài chính của ngân hàng nhất là các ngân hàng TMCP vừa và nhỏ.
4. Đảm bảo tăng trưởng và phát triển bền vững
Trước tình hình cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra ngày càng sâu rộng cùng với những khó khăn của nền kinh tế trong nước và chính sách điều tiết của chính phủ sẽ tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng trong giai đoạn tới. Cùng với đó là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong lĩnh vực ngân hàng nên để đạt được mục tiêu đảm bảo tăng trưởng và phát triển bền vững trong giai đoạn tới quả là khó khăn cho hệ thống ngân hàng TMCP nhất là các ngân hàng TMCP vừa và nhỏ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG II.
Sau khi nghiên cứu thực trạng và đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng TMCP trong giai đoạn khủng hoảng này, chúng ta đã thấy được những tồn tại trong hoạt động của các ngân hàng TMCP và những rủi ro mà các ngân hàng TMCP này đã gặp phải trong thời gian qua. Những rủi ro đó xuất phát không chỉ từ yếu tố bên ngoài mà phần lớn là do nội tại yếu kém của các ngân hàng đã làm cho các ngân hàng dễ tổn thương hơn trong giai đoạn khủng hoảng tài chính này. Do đó để tránh được rủi ro, vượt qua được những thách thức trong thời gian tới thì các ngân hàng cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh đặc biệt là các ngân hàng TMCP vừa và nhỏ. Khóa luận: Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Khóa luận: Giải pháp hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: lamluanvan24h@gmail.com