Mục lục
Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ. Các bạn đang gặp khó khăn trong việc làm bài Tiểu Luận Môn Luật tố tụng hình sự? Bạn không biết nên chọn đề tài nào cho phù hợp với mình mà lại được giáo viên duyệt đề tài và chấm điểm lại cao. Hôm nay Dịch Vụ Viết Luận Văn sẽ chia sẻ đến các bạn sinh viên một đề tài môn luật tố tụng hình sự các bạn cùng tham khảo bài tiểu luận môn tố tụng hình sự dưới đây nhé.
Ngoài ra, còn rất rất nhiều đề tài tiểu luận ngành luật khác được Dịch Vụ Viết Luận Văn cập nhập hàng ngày đến các bạn, mong là với những bài chia sẻ này sẽ được các bạn tham khảo tốt hơn, để chọn và đăng ký làm bài tiểu luận của mình nhé.
Và Dịch Vụ Viết Luận Văn còn nhận hỗ trợ làm thuê bài tiểu luận môn học hay những bài tiểu luận tốt nghiệp. Các bạn muốn tham khảo dịch vụ thì liên hệ trực tiếp với Dịch Vụ Viết Luận Văn nhé.
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ:
Công tác kiểm sát chế độ quản lý giam giữ và thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Phòng 8)
Ngày 20/6/2017, Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, trong đó có việc thi hành Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ ba thông qua có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018. Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Như vậy việc xây dựng, ban hành Luật thi hành tạm giữ, tạm giam là một bước tiến mới trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật trong lĩnh vực thi hành tạm giữ, tạm giam nói riêng góp phần bảo đảm an ninh, trật tự. Luật thi hành tạm giữ, tạm giam gồm có 11 chương, 73 điều đã tháo gỡ những khó khăn, hạn chế, bất cập trong công tác quản lý giam, giữ, cũng như quyền của người bị tạm giữ, tạm giam mà Nghị định 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998 ban hành Quy chế về tạm giữ, tạm giam; Nghị định số 98/2002/NĐ-CP ngày 07/11/2002 sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế về tạm giữ, tạm giam ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP; Nghị định số 09/NĐ-CP ngày 25/01/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung chế độ ăn và khám, chữa bệnh đối với người bị tạm giữ, tạm giam và một số văn bản khác quy định về tạm giữ, tạm giam.
Để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm sát quản lý giam giữ và thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, chúng tôi xây dựng chuyên đề này bao gồm những vấn đề chính sau đây:
1- Những quy định mới của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định mới những nội dung sau: Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
* Về phân loại quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam:
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam bổ sung mới 02 đối tượng trong 12 đối tượng được phân loại quản lý, bố trí theo khu: “người thường xuyên vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ” (quy định tại điểm l khoản 1 Điều 18) và “người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình nhưng chưa được giám định, đang chờ kết quả giám định hoặc đang chờ đưa đi cơ sở bắt buộc chữa bệnh” (quy định tại điểm m khoản 1 Điều 18).
Bên cạnh đó, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc phân loại giam giữ đối với người đồng tính, người chuyển giới, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã quy định: Người đồng tính, người chuyển giới có thể được bố trí giam giữ ở buồng riêng (quy định tại điểm a khoản 4 Điều 18). Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
* Về chế độ thăm gặp: Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Nghị định số 89/1998/NĐ-CP, Nghị định số 98/2002/NĐ-CP chỉ quy định thẩm quyền giải quyết cho thăm gặp là cơ quan thụ lý vụ án và không quy định cụ thể về số lần thăm gặp trong giai đoạn tạm giữ và tạm giam. Vì vậy, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã quy định cụ thể về số lần thăm gặp: “Người bị tạm giữ được gặp thân nhân một lần trong thời gian tạm giữ, một lần trong mỗi lần gia hạn tạm giữ. Người bị tạm giam được gặp thân nhân một lần trong một tháng…” (quy định tại khoản 1 Điều 22).
Đối với thẩm quyền giải quyết thăm gặp, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã có quy định mới: “Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định cụ thể thời điểm thăm gặp; thông báo cho cơ quan đang thụ lý vụ án về việc thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam” (quy định tại khoản 2 Điều 22) và “ trường hợp tăng thêm số lần gặp hoặc người gặp không phải là thân nhân thì phải được cơ quan đang thụ lý vụ án đồng ý” (quy định tại khoản 1 Điều 22). Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Về thủ tục thăm gặp, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam có quy định thêm nội dung mới: “… trường hợp cơ quan thụ lý vụ án có yêu cầu thì phối hợp với cơ sở giam giữ để giám sát, theo dõi việc thăm gặp” (quy định tại khoản 2 Điều 22). Đồng thời, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định cụ thể các trường hợp Thủ trưởng cơ sở giam giữ không đồng ý cho thăm gặp. Trong đó, có quy định mới về trường hợp không đồng ý cho thăm gặp đối với: “ người đến thăm gặp cố ý vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ từ hai lần trở lên” (quy định tại Điểm g khoản 4 Điều 22).
* Về kỷ luật người bị tạm giữ, người bị tạm giam vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ:
Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam quy định mới: Người bị tạm giữ vi phạm nội quy cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ thì bị kỷ luật với hình thức cách ly ở buồng kỷ luật từ 01 ngày đến 02 ngày và có thể bị gia hạn đến 02 ngày đối với người bị tạm giữ, thời gian gia hạn kỷ luật đối với người bị tạm giam đến 10 ngày đối với người bị tạm giam, giảm 02 ngày so với Quy chế tạm giữ, tạm giam (quy định tại khoản 1 Điều 23). Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam cũng quy định cụ thể về trường hợp cùm 1 chân, hoặc không áp dụng cùm 1 chân như sau: Người bị cách ly ở buồng kỷ luật nếu có hành vi chống phá quyết liệt cơ sở giam giữ, tự sát, tự gây thương tích cho bản thân, xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác thì bị cùm một chân. Thời gian bị cùm chân do thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định; trong 04 trường hợp Luật quy định không áp dụng cùm chân đối với người bị kỷ luật có 02 trường hợp quy định mới là người khuyết tật nặng trở lên và người đủ 70 tuổi trở lên (quy định tại khoản 3 Điều 23).
* Về giải quyết trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam chết: Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định mới về trường hợp: “Người bị tạm giữ, người bị tạm giam chết mà trước đó đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội hoặc đang được hưởng lương hưu thì chế độ tử tuất giải quyết theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội” (quy định tại khoản 6 Điều 26).
* Chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam (từ Điều 27 đến Điều 31)
Quy định về: Chế độ ăn, ở của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; chế độ mặc và tư trang của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; chế độ gửi, nhận thư, sách, báo và tài liệu của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; chế độ chăm sóc y tế đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; chế độ sinh hoạt tinh thần đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
Theo quy định tại Nghị định số 89/1998/NĐ-CP: Bình quân diện tích tối thiểu nơi giam, giữ đối với người bị tạm giữ, tạm giam là 2m2/1 người…; Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định mới: Chỗ nằm tối thiểu của mỗi người bị tạm giữ, người bị tạm giam là 02 mét vuông (m2)… (quy định tại khoản 4 Điều 27) Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
* Chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi (từ Điều 32 đến Điều 35)
Quy định về: Phạm vi áp dụng; chế độ ăn, ở và quản lý đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi; chế độ gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự của người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi; chế độ ăn, ở và quản lý đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Để phù hợp với quy định pháp luật liên quan, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã thay đổi cụm từ “người chưa thành niên” được sử dụng trong Nghị định số 89/1998/NĐ-CP, Nghị định số 98/2002/NĐ-CP và các văn bản khác thành cụm từ “người dưới 18 tuổi” và quy định cụ thể hơn về chế độ quản lý giam giữ, đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi. Trong đó có những nội dung mới như sau:
- – “ Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng ăn như người bị tạm giữ, người bị tạm giam đã thành niên và được tăng thêm về thịt, cá nhưng không quá 20% so với định lượng” (quy định tại khoản 1 Điều 33); “ Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi được bố trí giam giữ riêng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 18” (quy định tại khoản 2 Điều 33).
- – “Khi người bị tạm giữ, người bị tạm giam đủ 18 tuổi … thì chế độ tạm giữ, tạm giam được thực hiện theo quy định chung” (quy định tại Điều 32). Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
- – “Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi được gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự với số lần thăm gặp được tăng gấp đôi so với người bị tạm giữ, bị tạm giam là người đã thành niên” (quy định tại Điều 34).
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam xây dựng điều luật riêng (Điều 35) quy định về chế độ ăn, ở và quản lý đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Đây là những quy định mang tính nhân đạo sâu sắc, nhằm bảo đảm sức khỏe của người mẹ và bảo đảm sự phát triển bình thường của thai nhi, trẻ em. Trong đó, có những nội dung mới như sau:
- – “Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi ở cùng thì được bố trí chỗ nằm tối thiểu là 03m2 ” (quy định tại khoản 1 Điều 35).
- – “Khi người bị tạm giữ, người bị tạm giam… hoặc phụ nữ có con đủ 36 tháng tuổi trở lên thì chế độ tạm giữ, tạm giam được thực hiện theo quy định chung” (quy định tại Điều 32). Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
- – “Cơ sở giam giữ phải tổ chức việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em dưới 36 tháng tuổi. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam có con từ đủ 36 tháng tuổi trở lên thì phải gửi con về cho thân nhân nuôi dưỡng; trường hợp không có thân nhân nhận nuôi dưỡng thì thủ trưởng cơ sở giam giữ đề nghị Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi có cơ sở giam giữ chỉ định cơ sở bảo trợ xã hội tiếp nhận, nuôi dưỡng. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội chỉ định cơ sở bảo trợ xã hội tiếp nhận, nuôi dưỡng …”(quy định tại khoản 2 Điều 35).
* Kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 42 và Điều 43) Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Quy định về: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
2- Những nội dung liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện KSND: Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Do chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam được quy định tại Luật tổ chức VKSND và một số văn bản pháp lý khác như: Nghị định của Chính phủ; Thông tư liên tịch và một số văn bản có liên quan nên trong quá trình VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn còn gặp khó khăn nhất định; Vì vậy, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã pháp điển hóa đầy đủ, cụ thể và bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với Hiến pháp 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014 và các luật khác có liên quan về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
– Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã xây dựng điều luật riêng (Điều 6) quy định về chức năng kiểm sát hoạt động quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam: “Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của Luật này, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự”.
– Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã luật hóa và cụ thể đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014; các quy định có liên quan trong Bộ Luật tố tụng Hình sự; Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 06/9/1989 của Liên ngành Bộ Công an, VKSND tối cao về công tác giam, giữ, cải tạo và kiểm sát việc giam, giữ, cải tạo; Thông tư liên ngành số 01/2014/TTLT-VKSTC-BQP ngày 07/02/2014 giữa VKSND tối cao và Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện việc bắt, tạm giữ hình sự và kiểm sát việc bắt, tạm giữ hình sự tại các Đồn biên phòng.
Theo đó, khi kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn sau đây (quy định tại điều 42):
- Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
- Khi kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát nhân dân có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- a) Kiểm sát tại trại tạm giam, nhà tạm giữ, buồng tạm giữ; hỏi người bị tạm giữ, người bị tạm giam về việc tạm giữ, tạm giam; Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
- b) Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam;
- c) Yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam, Trưởng buồng tạm giữ Bộ đội Biên phòng tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành tạm giữ, tạm giam; thông báo tình hình thi hành tạm giữ, tạm giam; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam;
- d) Quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật;
- đ) Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam; đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật;
- e) Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật; Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
- g) Giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của Luật này, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự.”
– Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định cụ thể về trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (quy định tại Điều 43). Cụ thể như sau:
“ Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam, Trưởng buồng tạm giữ Bộ đội biên phòng có trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định sau đây của Viện kiểm sát nhân dân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam:
- Yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam phải được thực hiện ngay; yêu cầu thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam, yêu cầu trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam được thực hiện trong thời hạn 15 ngày (nội dung mới); yêu cầu tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện KSND được thực hiện trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu;
- Quyết định quy định tại điểm d khoản 2 Điều 42 của Luật này phải được thi hành ngay; nếu không nhất trí với quyết định đó thì vẫn phải thi hành, nhưng có quyền khiếu nại lên VKSND cấp trên có thẩm quyền. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện trưởng VKSND cấp trên phải giải quyết; Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
- Kháng nghị quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 42 của Luật này phải được giải quyết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kháng nghị; nếu không nhất trí với kháng nghị thì có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có thẩm quyền; Viện kiểm sát nhân dân cấp trên phải giải quyết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại; quyết định của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên là quyết định có hiệu lực pháp luật;
- Kiến nghị quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 42 của Luật này phải được xem xét, giải quyết, trả lời cho Viện kiểm sát nhân dân trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị (nội dung mới)” .
– Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam:
Việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam đã được quy định tại Luật tổ chức VKSND năm 2014. Tuy nhiên, thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn, thủ tục, thời hạn giải quyết… chưa được Luật cũng như văn bản dưới luật quy định rõ. Chính vì vậy, việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam đang được thực hiện theo Quy chế về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát; Quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự của ngành Kiểm sát và các quy định có liên quan trong Luật khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Việc pháp điển hóa quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đã được Luật thi hành tạm giữ, tạm giam xây dựng theo tinh thần của Hiến pháp 2013 và đồng bộ với Luật tổ chức Viện KSND năm 2014.
Trong đó, quy định Viện KSND là cơ quan duy nhất có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam xây dựng Chương riêng quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Chương IX), trong đó có 11 Điều (Điều 46, 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 59, 60 và Điều 61) liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam và 07 Điều (Điều 44, 45, 47, 48, 56, 57 và Điều 58) liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo; những trường hợp khiếu nại không được thụ lý giải quyết; trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong trong việc chuyển tố cáo cho Viện kiểm sát cùng cấp …; Các quy định cụ thể liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND như sau: Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại: “Viện trưởng VKSND cấp huyện, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSQS khu vực, Viện trưởng VKSQS quân khu và tương đương giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi trái pháp luật trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam của cơ quan, người có thẩm quyền thuộc trách nhiệm kiểm sát của mình. Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với việc giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới; quyết định giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên là quyết định có hiệu lực pháp luật” (quy định tại khoản 1 Điều 46).
Về nhiệm vụ, quyền hạn trong giải quyết khiếu nại: “(1) Tiếp nhận, giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi bị khiếu nại. (2) Yêu cầu người khiếu nại, người bị khiếu nại giải trình, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc khiếu nại. (3) Thông báo bằng văn bản về việc thụ lý khiếu nại và gửi quyết định giải quyết cho người khiếu nại và người bị khiếu nại. (4) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết khiếu nại của mình (quy định tại Điều 49).
Về thẩm quyền, thủ tục, thời hạn giải quyết tố cáo: “ (1) Thẩm quyền, thủ tục giải quyết tố cáo của Viện kiểm sát được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 23 và Điều 29 Luật tổ chức VKSND. (2) Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá 90 ngày. (3) Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm được giải quyết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (quy định tại Điều 60).Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Về trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo: (1) Tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm cho quyết định giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. (2) Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết hoặc giải quyết trái pháp luật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật (quy định tại Điều 61).
Đồng thời Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định cụ thể về: Thời hạn giải quyết; Hồ sơ giải quyết; Trình tự giải quyết và nội dung quyết định giải quyết khiếu nại tố cáo… của Viện KSND tại Điều 50, 51, 52, 53, 54, 55 và Điều 59.
3- Kỹ năng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi tiến hành kiểm sát chế độ quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Thứ nhất, kiểm sát tại trại tạm giam, nhà tạm giữ, buồng tạm giam; hỏi người bị tạm giữ, tạm giam về việc cơ quan quản lý giam giữ thực hiện trình tự, thủ tục khi đưa người bị tạm giữ, tạm giam vào cơ sở giam giữ và việc thực hiện các chế độ đối với họ. Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Khi tiến hành trực tiếp kiểm sát nhà tạm giữ, trại tạm giam, Viện kiểm sát có thể sử dụng phương thức: định kỳ kiểm sát trực tiếp và đột xuất kiểm sát. Định kỳ kiểm sát trực tiếp là kiểm sát theo kế hoạch, trong đó có sự xác định trước về thời gian kiểm sát.
- Đối với nhà tạm giữ, hàng ngày Kiểm sát viên phải nắm bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy định của BLTTHS; ba tháng kiểm sát trực tiếp một lần theo từng nội dung và sáu tháng một lần trực tiếp kiểm sát toàn diện về việc bắt tạm giữ, tạm giam.
- Đối với trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, hàng tuần kiểm sát về thủ tục trong việc tạm giữ, tạm giam theo quy định của BLTTHS ba tháng kiểm sát trực tiếp một lần theo từng nôi dung và sáu tháng một lần trực tiếp kiểm sát toàn diện về việc bắt tạm giữ, tạm giam, quản lý, giáo dục người chấp hành án phạt tù.
Như vậy, khi kiểm sát thường kỳ Nhà tạm giữ, Trại tạm giam, Viện kiểm sát có thể tiến hành những nội dung liên quan đến quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam và kiểm sát cả những nội dung liên quan đến quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù (trong trường hợp có người chấp hành án phạt tù đang chấp hành án tại Nhà tạm giữ, Trại tạm giam). Viện kiểm sát có thể kiểm sát những vấn đề thấy cần thiết hoặc kiểm tra việc thực hiện kháng nghị, kiến nghị mà Viện kiểm sát đã ban hành trước đây của Trưởng Nhà tạm giữ, Giám thị Trại tạm giam. Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Đột xuất kiểm sát là việc trực tiếp kiểm sát khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng xảy ra ở nhà tạm giữ, trại tạm giam và Viện kiểm sát nhận thấy cần thiết phải tiến hành kiểm sát. Những dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng xảy ra ở nhà tạm giữ, trại tạm giam như có vi phạm về căn cứ, về thời hạn, về thủ tục tạm giữ, tạm giam; có vi phạm về việc thực hiện chế độ quản lý, các chế độ ăn, ở, sinh hoạt, chữa bệnh…của người bị tạm giữ, tạm giam.
Trường hợp Viện kiểm sát nhận thấy cần thiết phải tiến hành kiểm sát như trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam trốn, phạm tội mới, chết do dịch bệnh, chết bất thường không rõ nguyên nhân, tự tử…Việc kiểm sát đột xuất nhà tạm giữ nhà tạm giữ, trại tạm giam có thể được tiến hành ngay khi phát hiện có vi phạm pháp luật xảy ra mà không kể đó là thời điểm nào. Việc kiểm sát đột xuất do Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được ủy quyền thuộc Viện kiểm sát cùng cấp hoặc cấp trên trực tiếp tiến hành.
Sau khi kiểm sát, Viện kiểm sát phải có kết luận bằng văn bản xác định nguyên nhân và hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật gây ra; đồng thời yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam có biện pháp chấp dứt việc làm vi phạm pháp luật và xử lý người vi phạm. Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Trong quá trình kiểm sát, Viện kiểm sát có thể gặp trực tiếp người bị tạm giữ, tạm giam để hỏi những vấn đề thuộc lĩnh vực giam, giữ như hỏi về chế độ tạm giữ, tạm giam về việc được hưởng các quyền lợi về vật chất và tinh thần, các quyền lợi không bị tước bỏ có được tôn trọng hay không…không được hỏi về các lĩnh vực khác như nôi dung vụ án, về các tình tiết mà Cơ quan điều tra đang tiến hành điều tra…
Thứ hai, kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam: Nhà tạm giữ, Trại tạm giam phải lập hồ sơ, sổ sách theo dõi người bị tạm giữ, tạm giam. Hồ sơ, sổ sách theo dõi người bị tạm giữ, tạm giam bao gồm như biên bản biên bản bắt hoặc báo cáo bắt giữ, Quyết định tạm giữ hoặc lệnh tạm giam đang còn hiệu lực; quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát (đối với trường hợp cần có sự phê chuẩn), danh chỉ bản, biên bản giao nhận người bị bắt, hồ sơ về tư trang, tài sản, tiền mang theo của người bị bắt (nếu có); hồ sơ tài liệu hoặc sức khỏe, quyết định xử lý kỷ luật giam giữ, thủ tục trích xuất và các tài liệu khác có liên quan.
Khi kiểm sát thường kỳ hoặc bất thường nhà tạm giữ, trại tạm giam thì việc kiểm ta hồ sơ, tài liệu chỉ giới hạn bao gồm những tài liệu hồ sơ, sổ sách có liên quan đến việc quản lý, giam, giữ mà Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam đang quản lý xem có phản ánh đầy đủ về hình thức, nội dung giữa lệnh, quyết định và sổ sách không…?
Kiểm tra hồ sơ của người bị tạm giữ, tạm giam để giúp cho Kiểm sát viên khái quát được tình hình chấp hành pháp luật từ việc tiếp nhận cho đến khi trả tự do người bị tạm giữ, tạm giam. Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Kiểm tra hồ sơ để giúp cho Kiểm sát viên biết rõ được quá trình thực hiện thủ tục, các chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam, qua đó thu thập các vi phạm từ việc nghiên cứu hồ sơ để lập thành biên bản, vi phạm thu thập được qua nghiên cứu hồ sơ cũng cần được phân loại thành từng dạng để phục vụ cho việc tổng hợp kết quả kiểm sát. Do đó khi kiểm sát trực tiếp bắt buộc Kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ.
Thứ ba, yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành tạm giữ, tạm giam; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc các việc làn vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam.
Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát trong trường hợp khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc đã có vi phạm xảy ra ở nơi tạm giữ, tạm giam và căn cứ tính chất, mức độ vi phạm đó mà Viện kiểm sát thấy không cần thiết hoặc chưa có điều kiện để tiến hành phương thức trực tiếp kiểm sát hoặc trong trường hợp Viện kiểm sát cần nắm rõ thông tin nào đó trong việc tạm giữ, tạm giam.
Sau khi nhận được thông báo về kết quả tự kiểm tra, Viện kiểm sát có thể yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc thi hành tạm giữ, tạm giam để kiểm tra kết quả đó đồng thời trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật. Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Việc yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát phải được Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam thực hiện ngay; yêu cầu thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam, yêu cầu trả lời về quyết định, biện pháp hoặc các việc làn vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam được thực hiện trong thời hạn 15 ngày; yêu cầu tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát được thực hiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Thứ tư, quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật: Trong quá trình kiểm sát, viện kiểm sát có trách nhiệm phát hiện và xử lý kịp thời oan, sai và vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam theo thẩm quyền, ra quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật. Ra quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật là quyền hạn của Viện kiểm sát, được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 22 Luật tổ chức VKSND năm 2014, điểm d khoản 2 Điều 42 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 và được hướng dẫn tại khoản 1, 2 Điều 36 Quy chế số 35. Theo đó, Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật trong các trường hợp sau: Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
- Trong tạm giữ: Trường hợp Viện kiểm sát không phê chuẩn việc bắt người tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp; người bị tạm giữ không có quyết định của Cơ quan và người có thẩm quyền; người đã được Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định tạm giữ, người bị tạm giữ đã có quyết định trả tự do; người mà Viện kiểm sát không phê chuẩn gia hạn tạm giữ, người đã hết thời gian tạm giữ mà không có quyết định hợp pháp nào khác.
- Trong tạm giam: Người bị tạm giam nhưng không có lệnh, lệnh không có phê chuẩn của Viện kiểm sát (đối với những trường hợp luật quy định phải có phê chuẩn của Viện kiểm sát); người đã được Viện kiểm sát không gia hạn tạm giam; người đã có quyết định hủy bỏ việc tạm giam; người đã có quyết định trả tự do hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác; người đã có quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án mà không bị giam giữ về hành vi phạm tội khác; người đã được Tòa án xét xử và trả tự do; tuyên không phạm tội, được miễn trách nhiệm hình sự; miễn hình phạt, hình phạt không phải là tù giam, thời hạn tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian đã bị tạm giam.
Đối với quyết định trả tự do của Viện kiểm sát, Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam phải thi hành ngay, nếu không nhất trí với quyết định trả tự do của Viện kiểm sát thì vẫn phải thi hành, nhưng có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên phải giải quyết.
Thứ năm, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu Cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật. Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Khi phát hiện vi phạm nghiêm trọng, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị với Cơ quan cùng cấp và cấp dưới yêu cầu đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật và yêu cầu người có hành vi vi phạm. Cụ thể trong các trường hợp sau:
- Những nội quy, quy chế, quyết định của Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam về việc tạm giữ, tạm giam có nội dung trái pháp luật.
- Lệnh tạm giam, quyết định tạm giam trái pháp luật Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong giai đoạn xét xử.
- Những việc làm trái pháp luật của Cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam.
Đối với những kháng nghị này của Viện kiểm sát phải được giải quyết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị; nếu không nhất trí với kháng nghị đó thì các cơ quan này có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền; Viện kiểm sát cấp trên phải giải quyết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định của Viện kiểm sát cấp trên là quyết định có hiệu lực pháp luật. Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Ngoài ra, khi xác định được những việc là nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật hoặc những việc nếu không có biện pháp khắc phục sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát kiến nghị đến Cơ quan có thẩm quyền và người có trách nhiệm có biện pháp tích cực để khắc phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật. Kiến nghị của Viện kiểm sát phải được xem xét, giải quyết, trả lời cho Viện kiểm sát trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị.
Thứ sáu, khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật.
Trong khi thực hiện hoạt động kiểm sát việc quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thuộc các tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp trong quản lý giam giữ thì Kiểm sát viên có trách nhiệm ghi lại đầy đủ các tình tiết có liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật, có thể chụp ảnh hiện trường nơi xảy ra vụ việc, xem xét các dấu vết, lấy lời khai hoặc ghi âm lời khai của người bị hại, những người có liên quan, báo cáo Cơ quan điều tra VKSNDTC để xem xét, kiểm tra xác minh và quyết định khởi tố vụ án hình sự. Nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm không thuộc trường hợp nêu trên thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
Thứ bảy, giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật tổ chức VKSND và Bộ luật tố tụng hình sự. Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 22 và Điều 23 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Điều 46, Điều 60 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Viện kiểm sát có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. Theo đó, cơ quan, người có thẩm quyền trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam phải chuyển cho Viện kiểm sát cùng cấp khiếu nại, tố cáo trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được khiếu nại, tố cáo.
Do đó, sau khi tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiểm sát viên làm công tác kiểm sát việc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam có trách nhiệm nghiên cứu, phân loại, nếu xét thấy cần thiết có thể gặp gỡ, đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người tố cáo, người bị tố cáo và những người có liên quan để xác minh những nội dung khiếu nại, tố cáo; trực tiếp giải quyết những khiếu nại, tố cáo có liên quan đến việc chấp hành các quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam. Tiểu luận luật tố tụng hình sự: kiểm sát chế độ quản lý giam giữ
Viện kiểm sát cũng có quyền kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu xử lý những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam, chuyển đến Cơ quan, đơn vị khác giải quyết những khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và theo dõi kết quả giải quyết của Cơ quan, đơn vị đó./.
Trên đây là tất cả bài viết Tiểu Luận Luật Tố tụng hình sự, mà Dịch vụ viết luận văn muốn chia sẻ đến các bạn sinh viên. Nếu như các bạn có thắc mắc hay gặp khó khăn gì trong việc làm bài tiểu luận thì có thể liên hệ trực tiếp đến Dịch vụ viết luận văn để được tư vấn một cách tốt nhất nhé
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: lamluanvan24h@gmail.com