Luận văn: Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Định Hướng Và Giải pháp hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai của bộ tài nguyên và môi trường dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

3.1. ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ – PHÁP LÝ

Những năm qua, công tác xây dựng pháp luật và ban hành văn bản QPPL của các cơ quan quản lý nhà nước đã đáp ứng một phần quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước, tạo ra một hành lang pháp lý cơ bản để nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay còn thiếu ở nhiều mảng và chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Để nhanh chóng lấp đầy khoảng trống pháp luật, làm cơ sở hội nhập kinh tế quốc tế, không có cách nào khác là chúng ta phải đẩy nhanh tiến độ xây dựng văn bản QPPL. Muốn vậy, cần phải có một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp trong việc soạn thảo văn bản, tránh tình trạng kiêm nhiệm nhiều công việc như hiện nay. Do chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm, về chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật nên đội ngũ cán bộ tham gia công tác này còn ít, chưa có trách nhiệm cao trong việc soạn thảo văn bản, nhiều cơ quan quản lý nhà nước còn sa vào giải quyết các công việc sự vụ, ít quan tâm đến công tác soạn thảo, ban hành văn bản. Chính vì vậy, việc đổi mới quy trình soạn thảo, ban hành văn bản QPPL sao cho thật gọn nhẹ, chặt chẽ, với những quy định cụ thể về trách nhiệm, về thời gian và chế tài đối với các đối tượng có liên quan tới việc soạn thảo và ban hành văn bản là hết sức cần thiết. Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

Nhìn chung, trên thực tế nhiều văn bản QPPL có tính khả thi chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều bất cập trong xây dựng pháp luật nói chung và trong xây dựng, ban hành văn bản QPPL của Bộ Tài nguyên và Môi trường nói riêng. Ví dụ, các sáng kiến xây dựng luật còn mang tính trực quan, thiếu tầm nhìn xa, dẫn đến tình trạng “chỉ thấy cây mà chưa thấy rừng”; tình trạng “cát cứ” trong việc soạn thảo, xây dựng các văn bản pháp luật dẫn đến sự không đồng bộ giữa các văn bản đó. Có cơ quan soạn thảo đưa ra những sản phẩm cố gắng có lợi cho mình nhất, mà ít nghĩ đến tính thực thi, dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản, gây khó khăn cho các đối tượng thi hành. Điều đáng quan tâm hiện nay là chúng ta vẫn chưa huy động được lực lượng chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm tham gia vào soạn thảo, góp ý kiến thẩm định văn bản QPPL. Do đó, chất lượng văn bản còn có mặt hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.

Trước hết, cần thực hiện chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đây là việc làm rất cần thiết, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước; là một trong những nhân tố quan trọng chỉ đạo việc xây dựng chương trình, kế hoạch lập pháp của Quốc hội, lập quy của Chính phủ và các cấp, các ngành, đáp ứng đòi hỏi xây dựng nhà nước Pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân đang tiến hành ở nước ta. Nội dung trọng tâm là xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi, minh bạch, sao cho pháp luật thực sự phát huy vai trò và hiệu lực. Phấn đấu tới 2020, hệ thống pháp luật nước ta tương đối hoàn thiện, theo kịp các nước có hệ thống pháp luật đã xây dựng hàng trăm năm nay. Cụ thể, trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị: “Đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật từ sáng kiến lập pháp đến thông qua luật nhằm đẩy nhanh quá trình soạn thảo, ban hành luật”.

Hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL đảm bảo đồng bộ với cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, đơn giản hóa thủ tục hành chính tại Bộ.

Hoàn thiện quy trình theo hướng phát huy tính dân chủ, công khai, minh bạch trong quá trình và quy định cụ thể rõ ràng từng bước của quá trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL. Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

Hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL đảm bảo phù hợp với thực tiễn, đáp ứng các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, phát triển nên kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.

Hoàn thiện quy trình theo hướng xây dựng một quy trình thống nhất, toàn diện, đảm bảo phù hợp với Hiến pháp và với hệ thống các văn bản pháp luật quy định về quy trình ban hành văn bản QPPL (Luật, Nghị định, Thông tư) và các văn bản liên quan khác; bảo đảm sự quản lý nhà nước thống nhất từ Trung ương đến địa phương; tuân thủ những quy định của pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản.

Quy trình xây dựng và ban hành văn bản phải xác định rõ vai trò, trách nhiệm của đơn vị, cá nhân trong từng bước, từng khâu trên cơ sở phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao.

Đảm bảo phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc gia nhập. Đặc biệt, từ năm 2007 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, hệ thống văn bản QPPL của Việt Nam nói chung và của Bộ Tài nguyên và Môi trường cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ

===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI CỦA BỘ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG

3.2.1. Những giải pháp chung

Đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản QPPL về quản lý đất đai của Bộ Tài nguyên và Môi trường

Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động xây dựng văn bản QPPL là một nguyên tắc, một yêu cầu khách quan và là căn cứ để đánh giá hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động của bộ máy nhà nước, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân [12] Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

Tính hợp pháp được hiểu là văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phù hợp với pháp luật, không trái với pháp luật. Khi đó sẽ không còn tình trạng văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Tài nguyên và Môi trường nói chung, ban hành ra trái luật, thiếu thống nhất, thiếu khả thi, không những không có tác dụng mà còn gây tác hại, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân. Giải pháp đặt ra là phải nâng cao năng lực xây dựng dự thảo và chất lượng thẩm định văn bản. Cơ quan thẩm định phải có những chuyên gia đầu ngành; coi trọng tính tổng thể, khái quát để phát hiện ra mâu thuẫn với các văn bản đã ban hành trước đó; phát hiện và ngăn chặn, bãi bỏ những định chế mang tính chất cục bộ ngành và lợi ích nhóm. Mặt khác, phải tuân thủ đúng quy trình xây dựng văn bản pháp luật, trong đó có bước tham khảo, lấy ý kiến nhân dân hoặc tham vấn cộng đồng. Cuối cùng, cần thiết phải có quy định cụ thể để xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ban hành văn bản trái luật, gây dư luận không tốt.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật đất đai, đặc biệt là Luật Đất đai và những nghị định của Chính phủ hướng dẫn Luật Đất đai. Đây sẽ là cơ sở để đảm bảo những nội dung trong các thông tư, thông tư liên tịch của Bộ Tài nguyên và Môi trường về quản lý đất đai đảm bảo tính hợp lý, hiệu quả trong thực tế. Dưới đây, tác giả xin nêu một số vấn đề mà pháp Luật Đất đai cần hoàn thiện.

Thứ nhất: Giá đất

Giá đất vừa là sản phẩm tất yếu của cơ chế thị trường, là phương tiện để Nhà nước thực hiện các chính sách xã hội về đất đai. Nhưng giá đất ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hiện nay đều thấp hơn nhiều so với giá thực tế. Vì vậy, Nhà nước cần phải quy định chi tiết, cụ thể hơn về giá đất, để giá đất sát với giá thực tế nhất.

Nhà nước cần ban hành các quy định pháp lý để thành lập cơ quan định giá đất thuộc các Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc ở từng vùng thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường để tạo nền tảng pháp lý cho việc thành lập hệ thống cơ quan này. Cơ quan định giá đất được thành lập sẽ có tác dụng định giá đất kịp thời, khách quan, khoa học khi đất đai có sự biến động. Đây chính là điểm mấu chốt để việc định giá đất sát với giá thực tế ở nước ta hiện nay. Cơ quan định giá đất của Nhà nước cần phải có tính độc lập về chuyên môn và chịu sự quản lý của các cơ quan tài nguyên và môi trường như đã nêu trên

Thứ hai: Thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

Về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước nên tập trung nghiên cứu, rút kinh nghiệm, bóc tách các mối quan hệ cụ thể, để làm căn cứ ban hành các quy phạm pháp luật đất đai về bồi thường sát với thực tế. Trên cơ sở các quy định pháp lý có tính chuẩn xác thì mới bồi thường đúng được các thiệt hại của người sử dụng đất; đảm bảo sự công bằng giữa các đối tượng bị thu hồi đất và góp phần làm giảm thiểu tình trạng khiếu kiện của những người bị thu hồi đất.

Thứ ba: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Tại khoản 2 Điều 77 Nghị định số 43/NĐ-CP và tại điểm b khoản 2 Điều 10 Thông tư số 24/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về hồ sơ địa chính có quy định về thời gian niêm yết là không thống nhất, gây khó khăn cho địa phương trong thực hiện các thủ tục. Vì vậy, để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, cần sửa đổi Thông tư trên theo hướng thống nhất thời gian niêm yết thông báo việc mất giấy chứng nhận là 30 ngày; sau 30 ngày mới được thực hiện nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận.

3.2.2. Những giải pháp cho quy trình ban hành văn bản về quản lý đất đai của Bộ Tài nguyên và Môi trường

3.2.2.1. Về thể chế

Đẩy mạnh công tác xây dựng thể chế, nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL của Bộ Tài nguyên và Môi trường nói chung, trong lĩnh vực quản lý đất đai nói riêng. Nâng cao chất lượng xây dựng văn bản QPPL, đảm bảo tính hợp pháp, đồng bộ, khả thi, cải cách thủ tục hành chính, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế – xã hội chung của đất nước. Tiếp tục triển khai thực hiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Khi hệ thống thể chế được hoàn thiện, đây sẽ là cơ sở pháp lý đầy đủ cho hoạt động ban hành văn bản của Bộ Tài nguyên và Môi trường được thực hiện trong khuôn khổ và trật tự. Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

Cụ thể: Áp dụng triệt để những đổi mới trong Thông tư số 32/2016/TT-BTNMT so với Thông tư số 46/2014/TT- BTNMT ngày 01 tháng 08 năm 2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản QPPL trong lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường để hoàn thiện quy trình xây dựng văn bản QPPL tại Bộ Tài nguyên và Môi trường, cụ thể như sau:

Về lập dự kiến xây dựng chương trình: Kế hoạch hóa hoạt động ban hành văn bản là một biện pháp quan trọng cần được củng cố, tăng cường nhằm đảm bảo cho công tác xây dựng và ban hành văn bản của Bộ được thực hiện một cách có tổ chức, có mục tiêu, có cơ sở khoa học và liên tục, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và nhất quán của hệ thống văn bản mà Bộ ban hành.

Bộ cần lập dự kiến chương trình ban hành văn bản QPPL về Tài nguyên và Môi trường theo từng giai đoạn, cụ thể là giai đoạn 2011-2015, tầm nhìn 2020. Chương trình này phải thể hiện rõ nét kết cấu của hệ thống văn bản QPPL điều chỉnh các quan hệ về Tài nguyên và Môi trường, hình thức văn bản, thứ tự ưu tiên trong đó chú ý việc ban hành văn bản có hiệu lực pháp lý cao theo hướng quy định cụ thể, hạn chế các văn bản hướng dẫn. Việc xây dựng chương trình phải dựa trên cơ sở rà soát, hệ thống văn bản ban hành.

Trên cơ sở chương trình dài hạn và đòi hỏi của tình hình thực tiễn, Bộ tiến hành xây dựng kế hoạch cụ thể hàng năm trong đó xác định rõ tên, loại văn bản, lãnh đạo phụ trách, đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp, thời gian hoàn thành.

Trong chương trình dài hạn và kế hoạch hàng năm, các văn bản dự kiến soạn thảo phải nêu rõ sự cần thiết, phạm vi và đối tượng điều chỉnh, nội dung điều chỉnh, thời gian và kinh phí thực hiện, dự báo tác động của văn bản trước khi công bố thực hiện.

Việc lập dự kiến chương trình soạn thảo văn bản dài hạn và hàng năm sẽ giúp cho các đơn vị biết được nhiệm vụ của đơn vị mình và có kế hoạch thực hiện trong việc hoàn thành công việc được giao, nâng trách nhiệm của đơn vị soạn thảo cũng như cá nhân soạn thảo, có như vậy quy trình xây dựng và ban hành văn bản mới được thực hiện đầy đủ. Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

Ngay từ đầu năm 2016, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thể hiện sự đổi mới trong công tác xây dựng kế hoạch ban hành văn bản QPPL, có chương trình chính thức (các văn bản được ban hành theo từng tháng của năm 2016) và chương trình chuẩn bị (các văn bản sẽ được ban hành trong các năm tiếp theo). Việc này cho thấy vai trò của Vụ Pháp chế, không như các năm trước chỉ đơn thuần là tổng hợp đề nghị từ các đơn vị hoặc có việc đưa ra xem xét đề nghị của các đơn vị thì với những nội dung chưa được đầy đủ. Tại khoản 1 Điều 12 tại Thông tư số 46/2014/TT- BTNMT: Nội dung đề xuất nêu rõ tên văn bản, sự cần thiết ban hành, căn cứ pháp lý, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, dự kiến danh mục thủ tục hành chính (nếu có), thời gian dự kiến ban hành (theo tháng), đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp, điều kiện bảo đảm để xây dựng và thực thi văn bản. Tuy nhiên điều này đã được bổ sung đầy đủ hơn trong quy định mới tại khoản 2 Điều 18 của Thông tư số 32/2016/TT-BTNMT. Các nội dung cần xem xét đó là: sự cần thiết ban hành; Đối tượng, phạm vi điều chỉnh văn bản; tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, tính khả thi của các nội dung dự kiến xây dựng; thời gian, khả năng hoàn thành việc xây dựng văn bản; nội dung về thủ tục hành chính (nếu có). Với những bổ sung trên, các văn bản đã có sự chuẩn bị (tránh được tình trạng văn bản chưa được chuẩn bị tốt đưa vào chương trình dẫn đến tình trạng văn bản được điều chỉnh thời gian xây dựng nhiều lần). Ngược lại, các văn bản trong chương trình chuẩn bị nếu chuẩn bị tốt sẽ được điều chỉnh, bổ sung vào chương trình chính thức.

Về quy trình thành lập tổ soạn thảo: Thông tư số 32/2016/TT- BTNMT được ban hành, đã bổ sung những nội dung quan trọng còn thiếu sót trong Thông tư số 46/2014/TT- BTNMT, cụ thể đối với các văn bản có quy định về công nghệ thông tin, đơn vị được giao chủ trì soạn thảo có trách nhiệm mời công chức thuộc Cục Công nghệ thông tin tham gia thành viên Tổ soạn thảo. Đối với các văn bản có quy định về nội dung liên quan đến việc thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, đơn vị được giao chủ trì soạn thảo có trách nhiệm mời công chức thuộc Vụ Hợp tác quốc tế tham gia thành viên Tổ soạn thảo. Với sự bổ sung này, các thành viên tham gia Tổ soạn thảo phải là những công chức có trình độ về pháp luật, có sự hiểu biết về những vấn đề mà văn bản sẽ điều chỉnh, có trách nhiệm với công việc được giao.

Về quy trình thẩm định văn bản: Thẩm định là khâu bắt buộc trong quy trình ban hành văn bản QPPL của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Tất cả các văn bản QPPL trước khi trình Bộ trưởng ký đều phải qua Vụ pháp chế thẩm định. Tuy nhiên, giá trị pháp lý của văn bản thẩm định còn hạn chế, mới chỉ dừng lại ở dạng tư vấn, chưa có tính chất bắt buộc đối với đơn vị chủ trì trong việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Do đó, Bộ cần quy định giá trị pháp lý của văn bản thẩm định, phát huy vai trò của tổ chức pháp chế trong công tác thẩm định văn bản, đồng thời quy định cụ thể trách nhiệm của Vụ Pháp chế trong việc thẩm định giá trị pháp lý của văn bản với chất lượng và tính khả thi của văn bản khi được ban hành. Việc thẩm định văn bản được thực hiện tốt sẽ nâng cao hiệu lực pháp lý của văn bản và có tính khả thi trong thực tế. Có thể thấy nâng cao vai trò của hoạt động thẩm định là yêu cầu cần thiết hiện nay. Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

Cụ thể, so với Thông tư số 46/2014/TT-BTNMT, Thông tư số 32/2016/TT- BTNMT đã bổ sung thêm nội dung trong thẩm định đó là xem xét về điều kiện đảm bảo về nguồn lực, tài chính để thi hành thông tư [33]. Tuy nhiên, vẫn cần thiết quy định về thời gian, khả năng hoàn thành việc xây dựng văn bản vào nội dung thẩm định văn bản QPPL để tiến độ ban hành văn bản được đảm bảo.

Bên cạnh đó cần đẩy mạnh hoạt động lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo. Lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo là góp phần hoàn thiện dự thảo văn bản, nâng cao chất lượng cũng như tính khả thi của văn bản. Tuy các đơn vị chủ trì soạn thảo đã chú ý đến việc tốt chức lấy ý kiến nhưng việc lấy ý kiến của dự thảo mới chỉ dừng lại ở các đơn vị có liên quan trong khi đối tượng thi hành văn bản lại rất ít khi được lấy ý kiến. Do đó cần đẩy mạnh hoạt động lấy ý kiến của các đối tượng thi hành văn bản. Đối tượng thi hành văn bản tham gia càng nhiều ý kiến thì văn bản được xây dựng càng đáp ứng được yêu cầu của họ, càng có khả năng thực thi trong thực tế.

Để việc lấy ý kiến được toàn diện cần thu hút được sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực có liên quan đến tài nguyên, môi trường… Điều này sẽ giúp cho văn bản mang tính toàn diện và hoàn thiện theo hướng thiết thực nhất.

Về hình thức tổ chức lấy ý kiến: cần đa dạng hóa các hình thức lấy ý kiến. Ngoài việc tổ chức các cuộc họp, hội thảo, gửi công văn lấy ý kiến, có thể cử cán bộ trực tiếp về cơ sở để lấy ý kiến của đông đảo tầng lớp nhân dân. Làm tốt công tác này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của việc lấy ý kiến của đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản.

Để hoạt động lấy ý kiến có chất lượng thì việc lấy ý kiến phải được tiến hành trọng tâm, tránh hiện tượng lấy ý kiến tràn lan hoặc ý kiến quá hẹp.

Về cơ chế phối hợp và trách nhiệm của các đơn vị trong việc soạn thảo văn bản QPPL: nâng cao chất lượng của hoạt động xây dựng văn bản là yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay đối với các cơ quan nhà nước nói chung cũng như Bộ Tài nguyên và Môi trường nói riêng. Cần phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan có liên quan trong việc tham gia xây dựng văn bản. Bộ cần có sự phân công hợp lý cho các cơ quan về những công việc liên quan đến nội dung soạn thảo đồng thời phải có quy định rõ ràng trách nhiệm cũng như thời gian thực hiện. Như thế mới tạo được sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc xây dựng văn bản. Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

Làm rõ cơ chế phối hợp, trách nhiệm giữa Vụ pháp chế với các đơn vị trong quá trình xây dựng văn bản QPPL của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đặc biệt là các văn bản QPPL liên quan nhiều lĩnh vực cần thiết phải xin ý kiến của Thứ trưởng phụ trách lĩnh vực có liên quan, để hạn chế tình trạng văn bản ban hành chồng chéo giữa các lĩnh vực trong Bộ.

Ngoài ra, để đảm bảo chất lượng và tính khả thi của văn bản, khi ban hành văn bản cần phải chú trọng vấn đề thu hút sự tham gia đông đảo của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà chuyên môn, các đối tượng phải thi hành văn bản và công dân vào công tác xây dựng văn bản. Cần phải xác định phạm vi, phương thức thích hợp của việc tham gia lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong giai đoạn soạn thảo. Tăng cường sự tham gia, phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân vào việc tham gia xay dựng văn bản bằng cách đa dạng hóa các hình thức tham gia ý kiến. Thường việc lấy ý kiến hiện nay mới chỉ thông qua hình thức gửi công văn để lấy ý kiến và qua các cuộc họp. Trong khi việc cử cán bộ trực tiếp xuống cơ sở để lấy ý kiến hoặc đưa lên phương tiện thông tin đại chúng ít được quan tâm. Vì thế chưa tạo được sự phối hợp chặt chẽ trong việc lấy ý kiến. Cần chú ý thích đáng các hình thức lấy ý kiến này.

3.2.2.2. Về thẩm quyền ban hành

Một là, thực hiện đúng các quy định của pháp luật về ban hành văn bản. Phải kịp thời xử lý những cơ quan, cá nhân liên quan đến việc ban hành văn bản trái pháp luật. Cần có cơ chế rõ ràng khi ban hành văn bản, chỉ rõ biện pháp xử lý sai lầm, chỉ rõ trách nhiệm thuộc về ai nếu có sai lầm và phải có phản hồi cụ thể.

Hai là, loại bỏ các lực cản trong việc sửa chữa sai lầm khi ban hành văn bản, không để lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm chi phối việc ban hành và điều chỉnh văn bản. Nếu không có các biện pháp cần thiết và đủ mạnh để loại bỏ nguyên nhân này thì sẽ rất khó khăn trong việc làm chuyển biến tình trạng ban hành văn bản hướng dẫn trái với luật hoặc thiếu tính khả thi trong thực tiễn.

Ba là, cần có cách làm cụ thể để tăng cường mạnh mẽ sự phản hồi từ phía người sử dụng văn bản, tạo điều kiện để người dân thể hiện nguyện vọng của mình và cơ quan có liên quan phải có trách nhiệm giải trình cụ thể. Điều này sẽ làm cho cơ quan ban hành văn bản chịu trách nhiệm thực tế hơn trong công việc của mình trước nhân dân.

3.2.2.3. Về tổ chức thực hiện Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

Một là: thực hiện nghiêm túc các bước thực hiện của quy trình ban hành văn bản. Đối với những văn bản không tuân thủ quy trình thẩm định, gióp ý kiến văn bản, trình ký văn bản, Vụ Pháp chế phải có thái độ kiên quyết trả lại và yêu cầu các đơn vị phải tuân thủ đúng quy trình, không cả nể. Do vậy Bộ cần quy định giá trị pháp lý của các văn bản thẩm định của Vụ Pháp chế để các đơn vị soạn thảo có ý thức tiếp thu nghiêm túc.

Hai là: nâng cao nhận thức về việc tuân thủ quy trình xây dựng văn bản QPPL cho các cán bộ, công chức của bộ, đặc biệt là các Cục quản lý chuyên ngành. Khi các cán bộ, công chức của Bộ nhận thức rõ vai trò của quy trình xây dựng văn bản QPPL thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng văn bản QPPL. Văn bản ra đời đảm bảo tính khả thi, hợp pháp, hợp hiến, tránh chồng chéo.

Ba là: các đơn vị, cơ quan thuộc Bộ cần có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc lập chương trình xây dựng văn bản, soạn thảo, lấy ý kiến, thẩm định văn bản QPPL. Bộ cần quy định cụ thể về cơ chế kiểm soát việc thực hiện các chương trình cũng như việc xử lý các vi phạm trong quy trình soạn thảo, ban hành văn bản nhằm nâng cao trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân soạn thảo văn bản.

Bốn là: đối với các đề xuất cụ thể đối với từng bước trong quy trình thực hiện:

  • Lập kế hoạch, chương tình xây dựng văn bản QPPL:

Xác định công tác lập dự kiến chương trình xây dựng văn bản QPPL nhiệm vụ trọng tâm ban đầu cũng là nhiệm vụ đánh giá chất lượng, tiến độ soạn thảo văn bản QPPL.

Xây dựng kế hoạch trong đó có chương trình chính thức và chương trình chuẩn bị. Chương trình chính thức là chương trình gồm các văn bản QPPL đảm bảo chất lượng, tiến độ ban hành, có tính cấp thiết ban hành ngay.

Chương trình chuẩn bị là chương trình gồm những văn bản QPPL cần nhiều thời gian để nghiên cứu hơn và có tính cấp thiết ban hành ít hơn. Quy định như vậy để đơn vị chủ trì soạn thảo chủ động trong việc lập kế hoạch, sắp xếp theo thứ tự ưu tiên, tập trung nghiên cứu xây dựng và ban hành trước những văn bản QPPL có tính cấp thiết đối với hoạt động quản lý và đời sống xã hội. Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

  • Góp ý văn bản:
  • Hình thức góp ý: sử dụng nhiều hình thức góp ý hơn.
  • Thời gian góp ý: Tăng thời gian góp ý để các tổ chức cá nhân có điều kiện nghiên cứu kỹ và có ý kiến đầy đủ, chuẩn xác hơn.

Thẩm định văn bản: Tổ chức thẩm định nhóm tất cả các văn bản QPPL để huy động trí tuệ tập thể, đảm bảo tính khả thi của văn bản. Đặc biệt cần kiện toàn tổ chức, củng cố và nâng cao vai trò của Vụ Pháp chế. Hiện nay Vụ Pháp chế đang cùng một lúc phải kiêm nhiệm nhiều công việc, đây là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định văn bản. Do đó, cần bổ sung thêm biên chế cho Vụ Pháp chế để đáp ứng nhu cầu công việc ngày càng nhiều của Vụ. Những cán bộ này cần phải đảm bảo các yêu cầu về trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật, kiến thức về quản lý đất nước. Mặt khác, cần có chính sách để có thể nâng cao thu nhập đối với các cán bộ, công chức làm công tác pháp chế.

Năm là, phải thay đổi cơ chế thẩm định và giám sát việc ban hành văn bản. Để có hiệu quả thì việc giám sát phải có tính độc lập và công khai; tổ chức giám sát có đủ quyền hạn trong công việc, được hỗ trợ về cơ chế, ngân sách và các điều kiện cần thiết để hoạt động. Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế thẩm định nội bộ nhằm góp phần hạn chế các sai lầm khi ban hành văn bản QPPL.

Sáu là: Ứng dụng CNTT trong hệ thống đơn vị của Bộ Tài nguyên và Môi trường nhằm xây dựng môi trường làm việc trên mạng tin học giữa các Vụ, Cục chức năng và các chi nhánh, điện tử hoá các công tác phối hợp giữa các đơn vị liên quan trong việc giải quyết các vấn đề chung, trong đó có việc xây dựng và ban hành văn bản QPPL, tạo thói quen làm việc của cán bộ, công chức trên môi trường mạng và hệ thống thông tin trợ giúp, thay thế văn bản giấy.

Từng bước hoàn thiện môi trường pháp lý về quản lý ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ngành tài nguyên và môi trường nói chung, quản lý đất đai nói riêng. Thực hiện nghiêm túc Nghị định 73/2017/NĐ-CP ngày 14/6/2017 về thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng thông tin, dữ liệu tài nguyên và môi trường (thay thế Nghị định 102/2008/NĐ-CP) của Chính phủ. Đây là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng trong ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ trong ngành tài nguyên và môi trường mà tất cả các bộ, ngành, cơ quan địa phương có liên quan đến thông tin, dữ liệu tài nguyên và môi trường, đặc biệt là quản lý đất đai. Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

3.2.2.4. Về nhân sự

Tăng cường tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực phân tích, xây dựng chính sách pháp luật và kỹ năng soạn thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật cho những người làm công tác xây dựng pháp luật, bao gồm cả cán bộ, công chức pháp chế của Tổng cục Quản lý đất đai nói riêng và của các đơn vị thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường nói chung. Đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, công chức trước công việc. Hiện nay, có nhiều chương trình bồi dưỡng về lĩnh vực này, nhưng do nặng về lý thuyết nên thiếu tính thực tế, hiệu quả thấp. Chương trình bồi dưỡng về xây dựng văn bản không thể chỉ đặt ra với các cơ quan xây dựng luật, trường dạy luật, mà cần mở rộng hơn để phổ biến kiến thức này cho nhiều người. Đó là cơ sở để phát hiện các sai trái trong văn bản; những người có trách nhiệm soạn thảo văn bản và giám sát công việc này cần được bồi dưỡng thường xuyên để tránh các sai lầm không đáng có.

Công tác tổ chức các lớp tập huấn: Tăng số lượng các lớp tập huấn về nghiệp vụ xây dựng văn bản QPPL nói riêng và kỹ năng xây dựng văn bản QPPL nói chung trong thời gian tới. Bộ có thể mở 1-2 lớp tập huấn mỗi năm để bồi dưỡng, nâng cao năng lực soạn thảo văn bản ở các đơn vị thuộc Bộ, thường xuyên tổ chức tập huấn kỹ năng soạn thảo văn bản để cập nhật thông tin cho cán bộ soạn thảo văn bản, lựa chọn cán bộ có trình độ, có khả năng đi đào tạo cơ bản về lý luận và kỹ năng phân tích chính sách, kỹ năng soạn thảo văn bản ở trong và ngoài nước.

Chương trình, nội dung tập huấn: Xây dựng một chương trình tập huấn hợp lý, giáo trình với nội dung cụ thể và ví dụ cụ thể, thực tiễn về quy trình và kỹ năng, nghiệp vụ xây dựng văn bản QPPL tại các lớp tập huấn. Với mục tiêu nâng cao trình độ cho cán bộ công chức đặc biệt là cán bộ công chức làm công tác soạn thảo văn bản. Bộ cần có biện pháp tăng cường đầu tư và có kế hoạch lâu dài trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản.

Kinh phí tổ chức các lớp bồi dưỡng: Bố trí nguồn kinh phí thường xuyên, hợp lý cho công tác tập huấn về nghiệp vụ ban hành văn bản QPPL.

Bộ cần có sự quan tâm đích đáng và xử lý tốt các vấn đề về kỹ thuật soạn thảo văn bản của các nhân viên trực tiếp tham gia soạn thảo. Cần thường xuyên tổ chức tập huấn, tuyên truyền đến các cán bộ, công chức làm công tác soạn thảo các văn bản quy định về quy trình soạn thảo, thể thức và kỹ thuật trình bày, nhất là Thông tư số 25/2011/TT-BTP ngày 27/12/2011 của Bộ Tư pháp để các cán bộ công chức ngoài kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ cần nắm vững quy trình ban hành văn bản và kỹ thuật thể thức trình bày, góp phần nâng cao chất lượng ban hành văn bản QPPL

Xây dựng, tích hợp, xử lý, quản lý, khai thác hệ thống cơ sở dữ liệu về đất đai phục vụ quản lý nhà nước và cộng đồng; thực hiện lưu trữ, bảo quản thông tin tài nguyên đất; triển khai các phần mềm về xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất từ dữ liệu số, Phần mềm tổng kiểm kê đất đai TK05; xây dựng hệ thống thông tin đất đai và môi trường (ELIS); xây dựng thư viện điện tử tài nguyên và môi trường. Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

Triển khai trong toàn ngành về xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai cấp tỉnh; thực hiện việc thu thập, quản lý, khai thác, trao đổi và sử dụng dữ liệu của ngành theo hướng hiện đại, đồng bộ và đạt hiệu quả cao.

3.2.2.5. Về tài chính

Đảm bảo kinh phí cho công tác soạn thảo văn bản là một nhu cầu cấp thiết, góp phần đảm bảo tiến độ và chất lượng của văn bản ban hành. Bộ cần tiến hành xây dựng kế hoạch kinh phí hành năm phục vụ cho công tác soạn thảo.

Cụ thể, tác giả luận văn đề nghị sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 92/2014/TTLT-BTC-BTP-VPCP hướng dẫn lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản QPPL và hoàn thiện hệ thống pháp luật như sau:

  • Quy định chế độ chi cho công tác khảo sát để phục vụ cho công tác thẩm định của cơ quan thẩm định văn bản.
  • Nâng mức kinh phí cho việc soạn thảo các loại văn bản trong Thông tư, cụ thể:

Đối với dự thảo thông tư, thông tư liên tịch: Mức phân bổ kinh phí tối đa 35 triệu đồng/ dự thảo văn bản có nội dung ít phức tạp, phạm vi điều chỉnh hẹp và tối đa 45 triệu đồng/ dự thảo văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, dự thảo văn bản có nội dung phức tạp, phạm vi đối tượng thực hiện rộng trong toàn quốc, phải tổ chức họp lấy ý kiến nhiều lần.

Bên cạnh nguồn kinh phí của Bộ, cần tăng cường hơn nữa sự tham gia lồng ghép, hỗ trợ của các chương trình, các dự án trong và ngoài nước thuộc Bộ để có thêm kinh phí cho công tác xây dựng và ban hành văn bản QPPL.

Tiểu kết chương 3 Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

Trên cơ sở phân tích thực trạng quy trình ban hành văn bản QPPL về quản lý đất đai qua các yếu tố xây dựng nên quy trình ban hành cùng những kết quả và tồn tại, nguyên nhân của tồn tại ở Chương 2, tác giả luận văn đã đưa ra những định hướng về chính trị, pháp lý để hoàn thiện hơn quy trình ban hành văn bản QPPL về quản lý đất đai của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đặc biệt, đó là việc xác định nhiệm vụ chính trong xây dựng văn bản QPPL theo đúng Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị: “Đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật từ sáng kiến lập pháp đến thông qua luật nhằm đẩy nhanh quá trình soạn thảo, ban hành luật”. Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống các văn bản luật pháp. Quy trình ban hành văn bản QPPL cần được tiến hành đồng bộ với công cuộc cải cách hành chính, tư pháp để đáp ứng yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, đơn giản hóa thủ tục hành chính tại Bộ.

Trên cơ sở định hướng đó, tác giả đã đưa ra những biện pháp cụ thể trong từng yếu tố tham gia vào quá trình xây dựng ban hành văn bản QPPL về quản lý đất đai của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Trong đó, việc hoàn thiện hệ thống thể chế về ban hành văn bản QPPL, mà cụ thể là trong khâu lập dự kiến xây dựng ban hành văn bản QPPL phải được kế hoạch hóa, việc thẩm định văn bản phải được chú trọng…là một nhiệm vụ cần thiết, là cơ sở để việc ban hành văn bản QPPL của Bộ Tài nguyên và Môi trường nói riêng và hệ thống văn bản QPPL trong quản lý nhà nước nói chung được thực hiện có kế hoạch và hiệu quả. Thẩm quyền ban hành cần được xác định rõ nhiệm vụ quyền hạn, từ đó việc quy trách nhiệm sẽ rõ ràng hơn khi có vấn đề xảy ra. Nhân sự luôn là nhân tố quyết định tới chất lượng của văn bản QPPL, cần được bồi dưỡng một cách thường xuyên với phương pháp đổi mới thích hợp.

Vấn đề tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật sẽ là công cụ hỗ trợ đắc lực, động lực thúc đẩy để phát huy hết những nhân tố trên nhằm tạo ra một hệ thống văn bản QPPL hoàn chỉnh, đúng đắn và khoa học nhất.

Mỗi nhân tố đều có vai trò và tầm quan trọng nhất định, để hoàn thiện hơn nữa văn bản QPPL về quản lý đất đai, không còn cách nào khác Bộ Tài nguyên và Môi trường cần nâng cao một cách tổng hòa các yếu tố trên để chúng thực hiện tốt chức năng của mình cũng như là cơ sở hỗ trợ, thúc đẩy các yếu tố khác một cách tốt nhất.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và được thay thế từ 1.7.2015 Luật ban hành văn bản QPPL năm 2015 với quy định các bước ban hành văn bản QPPL của Chủ tịch nước, chính phủ, thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ; của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, chánh án tòa án nhân dân tối cao, viện trưởng viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước và các văn bản QPPL liên tịch. Theo đó, quy trình chung đối với các văn bản trên là:

  • Phân công cơ quan chủ trì soạn thảo và thành lập Ban soạn thảo hoặc tổ soạn thảo.
  • Dự thảo văn bản QPPL;
  • Lấy ý kiến các cơ quan, đơn vị, đối tượng có liên quan;
  • Tiếp thu, chỉnh lý dự thảo văn bản QPPL;
  • Cơ quan có thẩm quyền thẩm định văn bản QPPL;
  • Hoàn thiện dự thảo và trình ký ban hành văn bản QPPL.

Các văn bản của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ nếu giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì soạn thảo thì Bộ phải thực hiện theo đúng các quy định nêu trên.

Căn cứ Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 46/2014/TT- BTNMT quy định trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản QPPL trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường. Trước những thay đổi trong thực tế và sự ra đời của Luật ban hành văn bản QPPL năm 2015, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 32/2016/TT- BTNMT thay thế Thông tư số 46/2014/TT- BTNMT với những đổi mới nhất định. Tuy nhiên, các Thông tư của Bộ Tài nguyên và Môi trường được ban hành theo trình tự cơ bản sau:

  • Phân công đơn vị chủ trì soạn thảo và thành lập Tổ soạn thảo
  • Dự thảo thông tư; Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.
  • Lấy ý kiến các cơ quan, đơn vị, đối tượng có liên quan;
  • Tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Thông tư;
  • Vụ pháp chế thẩm định thông tư; đồng thời xin ý kiến của Phòng kiểm soát Thủ tục hành chính;
  • Đơn vị chủ trì hoàn thiện dự thảo và trình Lãnh đạo Bộ ký ban hành thông tư;

Trong giai đoạn 2012-2016, việc thực hiện Thông tư số 46/2014/TT-BTNMT và một phần đã áp dụng những điểm mới tích cực trong Thông tư số 32/2016/TT- BTNMT đã góp phần đưa công tác xây dựng ban hành văn bản QPPL của bộ dần đi vào nề nếp, tạo sự thống nhất giữa các đơn vị, đóng góp không nhỏ cho việc nâng cao chất lượng ban hành văn bản QPPL của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện hai thông tư nêu trên, đã bộc lộ những nội dung không còn phù hợp, đã điều chỉnh ở Thông tư số 32/2016/TT- BTNMT nhưng vẫn còn bất cập so với thực tế, rất cần được sửa đổi bổ sung. Đó là chưa quy định rõ trách nhiệm của các đơn vị được gửi xin ý kiến đối với dự thảo thông tư, trách nhiệm của Vụ Pháp chế trong công tác thẩm định, đặc biệt là sự phối hợp giữa các đơn vị trong quá trình xây dựng thông tư; định mức kinh phí xây dựng thông tư quá thấp.

Căn cứ Luật ban hành văn bản QPPL năm 2015 và các văn bản liên quan khác quy định về xây dựng ban hành văn bản QPPL, xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường, qua quá trình nghiên cứu, luận văn đã đưa ra một số giải pháp đối với bộ trong việc hoàn thiện quy trình ban hành văn bản QPPL thời gian tới.

Qua đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất: kiến nghị đối với Chính phủ, Quốc hội: đề nghị bỏ hình thức văn bản QPPL là thông tư liên tịch. Qua thực tiễn tại Bộ Tài nguyên và Môi trường việc ban hành thông tư liên tịch cần rất nhiều thời gian so với thông tư. Nguyên nhân khách quan, nhiều bước của quy trình phải thực hiện nhiều lần. Ví dụ Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành thông tư liên tịch với Chánh án tòa án nhân dân tối cao thì thông tư liên tịch cần lấy ý kiến các đơn vị hai cơ quan trên, phải qua quá trình thẩm định của vụ pháp chế cơ quan và nếu liên tịch nhiều hơn thì cần thời gian càng nhiều hơn. Nguyên nhân chủ quan, cơ quan chủ trì soạn thảo đã dự thảo xong, nhưng cơ quan “liên tịch” thường ít quan tâm hơn cơ quan chủ trì nên chậm cho ý kiến, chậm triển khai các quy trình. Nên thay thế thông tư liên tịch bằng Quyết định của Thủ tướng chính phủ. Về hiệu lực thi hành, Quyết định của Thủ tướng chính phủ có hiệu lực thi hành cao hơn, quá trình dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ cũng đã xin ý kiến các Bộ, ngành liên quan; có thêm ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, giúp văn bản có tính khả thi cao hơn; hơn nữa quá trình ban hành, hay khi cần sửa đổi, bổ sung thì đơn giản hơn, có thể mất ít thời gian hơn.

Thứ hai, kiến nghị đối với Bộ Tài nguyên và Môi trường:

Đề nghị quy định rõ cơ chế phối hợp giữa các đơn vị trong việc xây dựng thông tư, đặc biệt là trách nhiệm của đơn vị khi được lấy ý kiến đối với dự thảo thông tư (có thể đưa vào đánh giá thi đua cuối năm đối với những đơn vị chậm có ý kiến), trách nhiệm của Vụ Pháp chế trong việc thẩm định. Hiện nay, trong Thông tư số 32/2016/TT- BTNMT nếu đơn vị được hỏi chậm trả lời cũng không bị áp dụng chế tài xử lý gì. Luận văn:Giải pháp văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0972114537