Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Giải pháp của bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Một Số Giải pháp hoàn thiện các quy định của bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý và nâng cao hiệu quả áp dụng dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
4.1. Các giải pháp hoàn thiện một số quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý
4.1.1. Sự cần thiết và những yêu cầu của việc hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý
4.1.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý
Cùng với sự phát triển về mọi mặt của đất nước và những yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự trong tình hình mới, BLHS hiện hành đã và đang bộc lộ những hạn chế nhất định. Vì vậy, việc hoàn thiện BLHS nói chung và các quy định liên quan đến lỗi vô ý nói riêng là rất cần thiết và tất yếu, bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, sự thay đổi của tình hình kinh tế – xã hội làm cho các quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng.
Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế xã hội thì toàn cầu hóa đang là một trong những xu thế phát triển tất yếu của lịch sử khách quan bắt nguồn từ việc mở rộng các quan hệ quốc tế hiện đại. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia do toàn cầu hóa đem lại có tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước, từ đó ra đời các tổ chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA,… và nhiều tam giác phát triển khác. Toàn cầu hóa không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức lớn, không chỉ có tác động tích cực mà còn có tác động tiêu cực đến nền kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của đất nước. Ở những nước chậm phát triển thì thách thức này lại càng lớn, bao gồm cả tư tưởng, đạo đức, lối sống của người dân. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng hợp tác với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, chính những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế như: lối sống thực dụng, sa đọa làm xói mòn các chuẩn mực đạo đức xã hội; tư tưởng coi trọng việc phát triển kinh tế, xem nhẹ hoặc buông lỏng quản lý xã hội;… làm cho tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, tình hình người chưa thành niên phạm tội và các hành vi phạm tội liên quan đến công nghệ cao ngày càng gia tăng. Ngoài ra, trong lĩnh vực tư pháp hình sự, chúng ta đã ký nhiều hiệp định hợp tác phòng chống tội phạm, hiệp định tương trợ tư pháp,… (ví dụ: Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Mông Cổ, hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ hội nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga, v.v…), do đó, BLHS phải được điều chỉnh phù hợp với pháp luật hình sự các nước là thành viên khác nhưng luôn phải kiên định với nguyên tắc định hướng xã hội chủ nghĩa. Luận văn: Giải pháp của bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý.
Mặt khác, thị trường kinh tế trong nước đang trên đà phát triển mạnh như thị trường chứng khoán, tiền tệ, bất động sản, công nghệ thông tin, sở hữu trí tuệ, v.v.. làm cho an ninh trật tự xã hội trở nên khó kiểm soát. Sự can thiệp kịp thời của Nhà nước đã đảm bảo cho sự vận động của thị trường được ổn định, cũng như kìm hãm sự phát sinh vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến trật tự trị an của xã hội. Nhưng trên thực tế có nhiều lĩnh vực chưa được pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng điều chỉnh một cách thỏa đáng.
Thứ hai, yêu cầu chung của công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung BLHS hiện hành.
Điều 4 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội”. Một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng là đề ra đường lối, chủ trương thích hợp cho từng thời kỳ cách mạng. Bởi vậy, khi xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự chúng ta phải thấm nhuần các quan điểm thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để thể chế hóa thành hệ thống các quy phạm phù hợp và tổ chức thực hiện chúng một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, BLHS Việt Nam hiện hành được ban hành từ năm 1999 nên chưa thể chế hóa được toàn bộ quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp thể hiện trong các Nghị quyết ban hành sau ngày BLHS có hiệu lực. Chẳng hạn: trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 có nêu:
Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế…
Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, trọng tâm là hoạt động xét xử của tòa án theo nội dung Chiến lược cải cách tư pháp [19 ],
Hay trong Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã đề cập: Luận văn: Giải pháp của bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý.
Coi trọng việc hoàn chỉnh chính sách hình sự và thủ tục tố tụng hình sự, giảm bớt đến mức tối đa các hình phạt tù trong giai đoạn hiện nay, tăng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm nhất là các tội phạm kinh tế. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm…
Chính sách hình sự… còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung trong khi tình hình tội phạm diễn biến phức tạp với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng [21].
Do đó phải: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự… phù hợp với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa…, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội” [21]. Ngoài ra chủ trương, chính sách của Đảng còn được thể hiện trong một số văn bản khác như: Chỉ thị số 53 năm 2000 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bắt, giam, giữ, xử lý;…
Thứ ba, từ thực tiễn xét xử cho thấy BLHS hiện hành còn nhiều bất cập trong việc quy định các quy phạm liên quan đến lỗi vô ý.
Ngay trong quá trình áp dụng, BLHS đã bộc lộ rất nhiều hạn chế, như: không quy định các quy phạm cần thiết liên quan đến lỗi vô ý; các quy định về lỗi vô ý chưa được cụ thể, rõ ràng; giữa các quy định về lỗi vô ý trong BLHS với nhau và với các quy định trong văn bản dưới luật bị mâu thuẫn, chồng chéo;… trong khi đó số lượng các vụ án mà ngành Tòa án phải thụ lý, giải quyết hàng năm là rất lớn, số lượng và chất lượng văn bản pháp luật hình sự hiện nay không thể đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Mặt khác, trong những năm qua, một loạt các luật chuyên ngành đã được ban hành, như: Luật đất đai, Bộ luật dân sự, Luật giao thông đường bộ,… đấy chính là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự, từ đó xác định đường lối xử lý đúng đắn, làm cơ sở để tội phạm hóa và phi tội phạm hóa.
Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử những năm qua cho thấy rằng việc áp dụng các quy định của BLHS về các tội do lỗi vô ý gặp không ít những khó khăn. Nhiều hành vi phạm tội được thực hiện nhưng không bị truy cứu TNHS, cũng có những tội hầu như không được áp dụng. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của BLHS về lỗi vô ý là rất cần thiết để kịp thời đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm đang là yêu cầu rất cấp bách hiện nay.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
4.1.1.2. Những yêu cầu của việc hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý Luận văn: Giải pháp của bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý.
Thứ nhất, chỉ nên sửa đổi, bổ sung những nội dung cấp thiết, không còn phù hợp với sự phát triển của tình hình kinh tế – xã hội, bảo đảm tính khả thi và sự thống nhất của BLHS với các văn bản khác trong hệ thống pháp luật của Nhà nước.
Thứ hai, các quy định của BLHS liên quan đến lỗi vô ý phải được quán triệt và thể chế hóa được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Đó là: BLHS phải thể hiện được tính nhân đạo đồng thời trong quá trình xử lý tội phạm cần có sự phân hóa về TNHS hơn nữa; tội phạm hóa đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế; coi án lệ là nguồn của Luật hình sự;…
Thứ ba, các quy định của BLHS liên quan đến lỗi vô ý phải đảm bảo được tính hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Muốn đáp ứng được yêu cầu này, nhà làm luật phải xây dựng được hệ thống quy phạm pháp luật hình sự thỏa mãn điều kiện:
Các quy định này phải phản ánh được tình hình trong giai đoạn hiện nay và mang tính dự báo diễn biến thời kỳ tới. Vì trong những thời kỳ phát triển kinh tế – xã hội khác nhau thì xã hội cần có sự điều chỉnh khác nhau của pháp luật hình sự. Chúng ta phải xác định rõ ràng những hành vi nào ở giai đoạn nào thì cần tội phạm hóa, cần phi tội phạm hóa hay chỉ đơn giản là tăng hoặc giảm hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội,… để pháp luật hình sự có thể áp dụng kịp thời, mang lại hiệu quả giáo dục pháp luật cao cho người dân. Luận văn: Giải pháp của bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý.
Các quy định này phải đảm bảo được tính minh bạch, rõ ràng. Giữa các quy định trong BLHS với nhau và với văn bản dưới luật không được mâu thuẫn, chồng chéo. Đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được dễ dàng, không gây hiểu nhầm, tranh cãi. Những CTTP mang tính chất chung chung sẽ làm cho người đọc khó hiểu, dẫn đến tình trạng không tuân thủ pháp luật, còn chủ thể áp dụng pháp luật khó vận dụng chính xác từng quy phạm, dẫn đến hậu quả tạo ra sự tùy tiện trong áp dụng, pháp luật khó đi vào cuộc sống, cản trở sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Các quy định này phải phù hợp với hệ thống pháp luật chuyên ngành trong trường hợp có quy định viện dẫn. Khi đó, người làm luật nên tham khảo, cân nhắc các quy định của pháp luật trong lĩnh vực đó. Cần xác định rõ ràng là trong các vi phạm pháp luật chuyên ngành đó vi phạm nào cần tội phạm hóa, các khái niệm pháp lý được sử dụng trong luật hình sự phải thống nhất với khái niệm trong luật chuyên ngành, v.v…
Các quy định này sau khi được sửa đổi, bổ sung phải đảm bảo được những nguyên tắc chung của BLHS đồng thời phải thể hiện sự công bằng, tính nhân đạo đối với người phạm tội. Đường lối xử lý đối với các tội do lỗi vô ý phải được xây dựng trên cơ sở tôn trọng mục đích trừng trị và mục đích giáo dục phòng ngừa tội phạm.
Đáp ứng được các yêu cầu cần phải sửa đổi trên đây, BLHS hiện hành sẽ trở thành một văn bản hoàn chỉnh cả về kỹ thuật lập pháp lẫn tính khả thi trong thực tiễn áp dụng, xứng đáng là nguồn chủ yếu, lớn nhất trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam.
4.1.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý
Xuất phát từ sự phân tích những nhược điểm cơ bản về dấu hiệu lỗi vô đã nêu trên của BLHS hiện hành, cùng với sự cần thiết của việc hoàn thiện chúng trong hệ thống pháp luật hình sự, theo quan điểm của chúng tôi thì BLHS hiện hành nên được sửa đổi các quy định liên quan đến lỗi vô ý như sau:
Đối với hạn chế về khái niệm lỗi vô ý và quy định có được áp dụng điều luật tương tự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do lỗi vô ý hay không, thì nhà làm luật nên sửa đổi Điều 10 BLHS theo hướng như sau:
“Điều 10: Vô ý phạm tội Luận văn: Giải pháp của bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý.
Vô ý phạm tội là thái độ tâm lý của người phạm tội khi lựa chọn và thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do không nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong khi có đủ điều kiện để nhận thức được.
Vô ý phạm tội bao gồm các trường hợp: vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả.
Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện do lỗi vô ý mà điều luật tương ứng tại Phần các tội phạm của Bộ luật này có quy định trực tiếp hình thức lỗi này thì mới bị coi là tội phạm”.
Đối với hạn chế của BLHS khi một số tội danh không được quy định hình thức lỗi vô ý trong điều luật nhưng thực tiễn xét xử vẫn đang áp dụng nó như là tội do lỗi vô ý thì chúng tôi kiến nghị cần phải quy định rõ ngay trong tên gọi và trong CTTP cơ bản của tội đó để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng BLHS trên thực tế.
Ví dụ: – Tội vi phạm quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 229 BLHS) có thể được sửa đổi thành:
“Điều 229. Tội vô ý vi phạm quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng
Người nào vô ý vi phạm quy định về xây dựng trong các lĩnh vực khảo sát, thiết kế, thi công,…” .
Tội vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ (Điều 237 BLHS) có thể được sửa đổi thành:
“Điều 237. Tội vô ý vi phạm quy định về quản lý chất phóng xạ
Người nào vô ý vi phạm quy định về quản lý việc sản xuất, trang bị, sử dụng, bảo quản, lưu giữ, vận chuyển, mua bán chất phóng xạ,…”. Luận văn: Giải pháp của bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý.
Trường hợp một số điều luật trong BLHS quy định hai dấu hiệu lỗi khác nhau vào cùng một CTTP cơ bản thì nhà làm luật nên tách thành hai tội độc lập, mỗi tội tương ứng với một dấu hiệu lỗi, đồng thời quy định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng hành vi phạm tội. Ví dụ: Tội đưa và sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính (Điều 226 BLHS) nên tách thành hai tội sau: Tội cố ý đưa và sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính và Tội vô ý đưa và sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính. Từ đó xây dựng CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng, đặc biệt tăng nặng, mức hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung của từng tội cho phù hợp.
Còn đối với những tội danh quy định chung chung, trừu tượng, không cụ thể dấu hiệu lỗi vô ý trong CTTP hoặc giữa các CTTP chưa có sự thống nhất về cách mô tả dấu hiệu lỗi này của hành vi khách quan thì nhà làm luật nên quy định thật rõ ràng, thống nhất các hình thức lỗi trong từng điều luật. Ví dụ: Phải quy định rõ tính chất của loại tội được phản ánh là tội do cố ý hay do vô ý của một số tội, như tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97 BLHS); tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107 BLHS); tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật (Điều 187 BLHS);… Và quy định thống nhất về cách mô tả dấu hiệu lỗi của hành vi khách quan giữa các CTTP với nhau, như với hành vi “cản trở…” ở các tội danh thuộc Điều 203, 306, 318,… thì BLHS nên thống nhất đó là chỉ hành vi do lỗi cố ý hay vô ý, hoặc khi hành vi đó có thể do lỗi cố ý mà cũng có thể do lỗi vô ý thì nên thống nhất quy định thêm dấu hiệu lỗi vào tên tội danh hoặc trong hành vi khách quan, như: hành vi cố ý cản trở…, hành vi vô ý cản trở… Như vậy, chủ thể ADPL sẽ không bị nhầm lẫn trong việc định tội.
Về hạn chế khi hậu quả của tội do cố ý lại lớn hơn hậu quả của tội do vô ý, chúng tôi kiến nghị rằng nên thay đổi mức thiệt hại của một trong hai loại tội sao cho hành vi nào có tính chất nguy hiểm hơn thì phải quy định mức độ thiệt hại thấp hơn.
Ví dụ: Hậu quả của Điều 144 BLHS lớn hơn hậu quả của Điều 165 BLHS thì nhà làm luật có thể giảm mức thiệt hại của tội tại Điều 165 BLHS xuống còn “từ năm mươi triệu đồng trở lên…” và tăng mức thiệt hại của tội tại Điều 144 BLHS “lớn hơn năm mươi triệu đồng” thì mới bị coi là tội phạm.
Trường hợp hạn chế về “hỗn hợp lỗi” thì nhà làm luật nên chăng xây dựng thêm một điều luật như sau:
“Điều…: Hỗn hợp lỗi Luận văn: Giải pháp của bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý.
- Hỗn hợp lỗi là trường hợp người phạm tội cố ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm nhưng lại vô ý đối với hậụ quả do hành vi đó gây ra.
- Về nguyên tắc, người thực hiện hành vi phạm tội do hỗn hợp lỗi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội do lỗi cố ý. Và họ phải chịu mức hình phạt cao hơn theo quy định tại các Điều luật tương ứng của Phần các tội phạm của Bộ luật này”.
Về việc một số tội trong BLHS chỉ được quy định với hình thức lỗi cố mà không quy định hình thức lỗi vô ý. Chúng tôi kiến nghị rằng nên bổ sung quy định hành vi này được thực hiện do lỗi vô ý cũng phải chịu TNHS. Ví dụ: Hành vi vô ý truyền HIV cho người khác thì có thể phạm “tội vô ý truyền HIV cho người khác”, hành vi vô ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể phạm “tội vô ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, hành vi vô ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ cũng có thể phải chịu TNHS về “tội vô ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ”,…
Bằng việc ghi nhận các sửa đổi trên đây không chỉ sẽ loại trừ được một số nhược điểm cơ bản đang tồn tại trong BLHS hiện hành mà còn đảm bảo cho các chủ thể ADPL một nhận thức thống nhất, đầy đủ về lỗi vô ý. Hy vọng những kiến nghị sửa đổi này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp dụng nguyên tắc TNHS trên cơ sở có lỗi và nguyên trách phân hóa TNHS trong thực tiễn, đồng thời hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.
4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý
Thứ nhất, thực tế hiện nay của BLHS cho thấy, ngay trong bản thân BLHS đã không có một cách quy định chung nhất đối với tội do lỗi vô ý, mặt khác, các văn bản hướng dẫn lại không giải thích đủ tất cả các điều luật này. Dẫn đến việc mỗi chủ thể ADPL có một cách hiểu khác nhau, áp dụng khác nhau. Vì vậy, nếu các điều luật trong BLHS chưa thể thống nhất được hình thức quy định cho từng loại tội thì trong văn bản hướng dẫn phải giải thích rõ tội nào được thực hiện do lỗi vô ý.
Thứ hai, cần nêu trong các văn bản dưới luật định nghĩa về các hành phạm tội do lỗi vô ý được quy định trong BLHS. Ví dụ: Định nghĩa hành vi phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202 BLHS) chưa được định nghĩa trong bất kỳ văn bản pháp luật nào. Do đó, chủ thể ADPL thường vướng mắc khi xác định những hành vi vi phạm về quy định an toàn giao thông đường bộ là hành vi phạm tội. Không có những tiêu chí cụ thể để xác định hành vi phạm tội như: giới hạn tốc độ, đi không đúng làn đường, vượt trái phép,… Đây là quy định viện dẫn, đòi hỏi chủ thể có thẩm quyền phải nắm rõ luật chuyên ngành thì mới có thể chứng minh chính xác hành vi phạm tội.
Thứ ba, các văn bản hướng dẫn luật cần giải thích chính xác, đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm trong từng điều luật liên quan đến lỗi vô ý. Việc giải thích một cách chung chung làm cho chủ thể ADPL hiểu nhầm dẫn đến áp dụng sai. Ví dụ: Theo Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/7/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS thì: “Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì…”. Nghị quyết này quy định về cách xác định mức thiệt hại của một hành vi gây thiệt hại. Nhưng trong trường hợp hai hành vi cùng gây ra thiệt hại hoặc thiệt hại này là do lỗi của người bị hại thì xác định thiệt hại, TNHS như thế nào, cho đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn.
KẾT LUẬN Luận văn: Giải pháp của bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý.
Trải qua gần 12 năm áp dụng, BLHS hiện hành đã dần đi vào cuộc sống của nhân dân và thực sự phát huy tác dụng, thể hiện là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Để thực sự là cán cân pháp lý, phân định rõ ràng giữa tội phạm và phi tội phạm, từ đó đưa ra những chính sách pháp luật hình sự một cách đúng đắn nhất thì BLHS đã và đang được xây dựng, hoàn thiện dựa trên những nguyên tắc tiến bộ nhất mà pháp luật thế giới công nhận. Một trong những nguyên tắc cơ bản đó là nguyên tắc TNHS trên cơ sở có lỗi. Thừa nhận nguyên tắc này chính là thừa nhận, tôn trọng quyền tự do của con người. Ở mức độ đáng kể, lỗi cho thấy tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, đồng thời nó góp phần cá thể hóa TNHS. Do đó, việc phân loại lỗi thành lỗi cố ý và lỗi vô ý là cần thiết để làm cơ sở pháp lý cho việc định tội danh, quyết định hình phạt một cách chính xác, công bằng và hợp lý. Ngoài ra, việc xác định chính xác lỗi vô ý vì quá tự tin hay vô ý do cẩu thả có vai trò quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Bởi vì, trong những điều kiện, hoàn cảnh như nhau, phạm tội do lỗi vô ý vì quá tự tin phải được đánh giá là nguy hiểm hơn so với phạm tội với lỗi vô ý do cẩu thả.
Với 272 điều luật trong Phần các tội phạm, thì BLHS đã có 51 điều luật quy định về tội do lỗi vô ý và rất nhiều điều luật quy định CTTP tăng nặng, đặc biệt tăng nặng liên quan đến dấu hiệu lỗi vô ý. Mặc dù được quy định bằng rất nhiều cách thức khác nhau nhưng các điều luật này đã phần nào thể hiện được mục đích, nhiệm vụ của BLHS, góp phần không nhỏ vào việc giữ vững an ninh trật tự xã hội nói chung.
Thực tiễn xét xử trong vòng sáu năm trở lại đây (2005-2010) cho ta thấy, tội phạm do lỗi vô ý được phát hiện và đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số vụ án được đưa ra xét xử (chỉ chiếm khoảng 9,53%) và có xu hướng giảm dần. Trong đó, chiếm đại đa số là các tội do lỗi vô ý thuộc chương Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (khoảng 95% trên tổng các tội do lỗi vô ý). Theo bản báo cáo tổng kết công tác xét xử hàng năm của ngành Tòa án thì nhìn chung Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Luận văn: Giải pháp của bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý.
Tuy nhiên, dưới tác động của nền kinh tế, văn hóa và xã hội và qua thực tiễn áp dụng, BLHS đã và đang bộc lộ những hạn chế nhất định. Mặt khác, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đã làm cho hiệu quả áp dụng của BLHS chưa được cao. Do vậy, chúng ta cần phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức đạo đức trong việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự, đồng thời, phải nhanh chóng hoàn thiện BLHS nói chung và các quy định của Bộ luật về lỗi vô ý nói riêng. Xóa bỏ tình trạng áp dụng, xét xử oan, sai hoặc không công bằng đối với người phạm tội.
Xuất phát từ những yêu cầu trên đây, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải quan tâm hơn nữa tới công tác bảo vệ pháp luật hình sự. Có những chính sách hợp lý nhằm kiện toàn bộ máy của cơ quan tiến hành tố tụng, nâng cao cơ sở vật chất, tạo điều kiện làm việc tốt nhất cho các cơ quan này. Đảm bảo các vụ án hình sự nói chung và các vụ án hình sự có tội phạm do lỗi vô ý nói riêng được giải quyết một cách triệt để, góp phần giữ gìn an ninh trật tự xã hội, tạo điều kiện cho đất nước phát triển ngày càng vững mạnh, phồn vinh. Luận văn: Giải pháp của bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo tại Nam Định
Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: lamluanvan24h@gmail.com