Báo cáo thực tập tại công ty xi măng Bỉm Sơn

Đánh giá post

Báo cáo thực tập tại công ty xi măng Bỉm Sơn. Bạn đang chuẩn bị làm bài báo cáo thực tập nghề nghiệp, hay bạn đang làm đồ án tốt nghiệp, nhưng các bạn lại chưa biết lựa chọn đề tài nào cho phù hợp với trường hợp của bạn, giờ đây các bạn không còn phải lo lắng về vấn đề đó nữa, vì dưới đây Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Luận Văn sẽ chia sẻ đến các bạn sinh viên một bài Báo cáo thực tập tại công ty xi măng Bỉm Sơn các bạn có thể tham khảo thử nhé.

PHẦN II TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY XI MĂNG BỈM SƠN

Công ty xi măng Bỉm Sơn trụ sở tại thị xã Bỉm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hoá nằm trên diện tích 50ha cách quốc lộ 1A 3Km về phía tây , cách Hà Nội 120Km về phía nam, cách thành phố Thanh Hoá 34Km về phía bắc, có vị trí địa lý nằm kề bên dãy núi đá vôi được bao bọc bởi vùng đất thạch sét do vậy rất thuận lợi cho việc khai thác nguyên liệu. Với vị trí địa lý như vậy rất thuận lợi về giao thông vận tải đường bộ cũng như đường sắt, tuy nhiên lại hạn chế về giao thông đường thuỷ, hệ thống đường sắt trong công ty có tổng chiều dài là 13Km trong đó có đường sắt nối với ga Bỉm Sơn có chiều dài 4Km. Được sử dụng là nơi luân chuyển hàng hoá vật tư, nguyên nhiên liệu cho công ty, hệ thống đường bộ được làm bằng bê tông và thảm nhựa để vận chuyển đất đá, sản phẩm đi tiêu thụ.

Công ty xi măng Bỉm Sơn được khởi công xây dựng từ năm 1976 do Liên Xô (cũ) thiết kế và giúp đỡ xây dựng với dây chuyền công nghệ sản suất xi măng bằng phương pháp ướt và năm 1983 nhà máy đã đi vào hoạt động với công suất thiết kế 1.200.000T/năm. Dây chuyền sản suất được thiết kế và lắp đặt trang thiết bị hiện đại, có đội ngũ cán bộ kỹ sư và công nhân lành nghề đáp ứng được yêu cầu sản suất và kinh doanh cho ra đời những sản phẩm đạt chất lượng cao trên thị trường trong nước và quốc tế, đã tham gia xây dựng các công trình trọng điểm của nhà nước như cầu Thăng Long, thuỷ điện Hoà Bình …Hiện nay công ty xi măng Bỉm Sơn đang đầu tư cải tạo hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, chuyển sản suất xi măng từ phương pháp ướt sang phương pháp khô, bước đầu nâng sản lượng giai đoạn đầu lên 1,8Triệu Tấn/năm, kết thúc giai đoạn cải tạo sẽ đưa công suất lên 3,5 triệu tấn /năm. (Báo cáo thực tập tại công ty xi măng Bỉm Sơn)

Công ty xi măng Bỉm Sơn với mạng lưới tiêu thụ rộng rãi được nhiều người tiêu dùng tin tưởng sử dụng, được các nhà thầu quốc tế chấp nhận xây dựng các công trình lớn, trọng điểm. Ngoài trung tâm giao dịch tiêu thụ là nơi đầu não để phân phối sản phẩm, Công ty xi măng Bỉm Sơn còn có 6 chi nhánh ở các tỉnh thành để thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, bao gồm chi nhánh xi măng Bỉm Sơn ở Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá.

CHƯƠNG I: DÂY CHUYỀN CÔNG NGHỆ SẢN SUẤT XI MĂNG BỈM SƠN (Báo cáo thực tập tại công ty xi măng Bỉm Sơn)

Các Phương Pháp Sản Xuất Xi Măng: Có 2 phương pháp chính để sản xuất Xi Măng là: Phương pháp ướt và phương pháp khô. Tuỳ thuộc vào tính chất cơ lý, hoá học của nguyên liệu, điều kiện điện năng, nhiệt năng, thiết bị, từ đó ngưòi ta quyết định chọn phương pháp sản xuất và phương thức nung clinker.

* Công nghệ sản xuất xi măng bằng phương pháp ướt.

Là phương pháp chế biến hỗn hợp nghiền thành 1 thể bùn đồng nhất có độ ẩm 30-40%. Dùng phương pháp ướt khi nguyên liệu xốp mềm dễ hoà tan vào nước hoặc độ ẩm thiên nhiên lớn.

Ưu điểm:

  • Dễ nghiền, tốn ít điện năng.
  • Dễ nhào trộn đồng nhất.
  • Dễ điều chỉnh các thành phần phối liệu.
  • Dễ chuyên trở.
  • Dễ bơm, ít bay bụi sạch sẽ hơn phương pháp khô.
  • Hiệu quả kinh tế kém
  • Cồng kềnh khó lắp đặt
  • Tốn nhiều nhân công.
  • Khả năng tự động hoá kém.
  • Công nghệ sản xuất xi măng theo phương pháp khô.

Phương pháp này sử dụng cho trường hợp độ ẩm nguyên liệu thiên nhiên 8÷10%, nguyên liệu được chế biến thành hỗn hợp khô có độ ẩm từ 5÷7% và đem nung. Nguyên liệu phải qua giai đoạn sấy khô và đem nghiền, nếu độ ẩm nguyên liệu thấp thì phải dùng thiết bị vừa nghiền vừa sấy. (Báo cáo thực tập tại công ty xi măng Bỉm Sơn)

Ưu điểm chính của phương pháp khô là tiết kiệm được nhiều nhiên liệu.

Nhược điểm của phương pháp khô:

– Hỗn hợp không được đồng nhất.

  • Phải đặt thêm một số thiết bị sấy.
  • Tổn thất vì bay bụi nhiều, vệ sinh công nghiệp kém.
  • Điều kiện lao động vất vã hơn.

Do thời gian có hạn nên em mới tìm hiểu về công nghệ sản xuất xi măng theo phương pháp khô. Dây truyền sản xuất chính của công ty xi măng Bỉm Sơn gồm các mã hoá quá trình công nghệ của các thiét bị cơ khí như sau:

G21: Vào kho nguyên liệu (sét)

  • G24: nghiền liệu thô
  • G25: Đồng nhất bột liệu và chứa
  • G31: cấp bột liệu cho lò nung
  • G32: tiền nung
  • G33: nung clinker
  • G35: nghiền than và cấp than cho lò
  • G36: xử lý khí thải
  • G37: bộ phận làm mat Clinker
  • G38: vận chuyển Clinker
  • G44: nghiền xi măng

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

===>>> Viết thuê báo cáo thực tập

CÁC CÔNG ĐOẠN SẢN XUẤT CỦA DÂY CHUYỀN II NHƯ SAU:

I/Đập nguyên liệu thô. (Báo cáo thực tập tại công ty xi măng Bỉm Sơn)

  • Đá vôi được khai thác từ mỏ Yên Duyên bằng phương pháp khoan nổ mìn có kích thước không quá 1000mm được đưa qua máy đập hàm kích thước không quá 300mm được đưa qua máy đập búa kích thước không quá 60mm. Được vận chuyển vào kho chứa bằng xe Benla trọng tải 27tấn.
  • Phiến sét được khai thác tại mỏ Cổ Đam bằng phương pháp khoan nổ mìn kích thước không quá 500mm được đưa vào máy đập búa đến kích thước không quá 60mm, sau đó được bốc súc bằng máy xúc 0530, vận chuyển bằng ôtô Kmaz, có trọng tải 12tấn về kho chứa.
  • Phiến silic Hà Trung .

Dùng để làm nguyên liệu điều chỉnh modun silicat MS được chở về bằng xe KMAZ , đổ vào bãi chứa .

Phiến silic có kích thước không quá 500mm đập qua máy đập búa đến kích thước không quá 60mm đưa vào kho chứa riêng trong ngăn kho cùng phiến sét.

+  Sỉ pirit (Lâm Thao- Phú Thọ )

Sử dụng làm nguyên liệu điều chỉnh phối liệu sản suất clinke. Sỉ pirit được chở về bằng tầu hoả qua hệ thống tiếp nhận rồi đưa về kho chứa.

+  Quặng sắt Thạch Thành.

Sử dụng làm nguyên liệu điều chỉnh phối liệu sản suất clinke, quặng sắt được chở về bằng ôtô đưa vào kho chứa riêng.

+ Thạch cao.

Dùng làm phụ gia điều chỉnh tốc độ đóng rắn của xi măng. Thạch cao có kích thước không quá 500mm được đập qua máy đập búa CMD 102 đến kích thước không quá 25mm và đưa vào kho chứa. (Báo cáo thực tập tại công ty xi măng Bỉm Sơn)

  • Phụ gia cho xi măng.
  • Phụ gia hoạt tính: Đá Bazan (Phủ quỳ -Quỳnh Thắng – Nghệ an; Nông cống – Hà Trung – Thanh Hoá )
  • Phụ gia trơ: Đá đen Tam Điệp

II/ Kho chứa nguyên liệu thô

Đất sét được phân chia rại điểm tiếp liệu với kho chứa đất sét hiện có bằng van 2 ngả (21.07-2ZV211) hoạt động bằng động cơ lắp mới. Một hướng dẫn tới kho sét hiện có và một hướng dẫn tới kho sét mới. Thông thường vị trí của van 2 ngả mở về phía kho sét hiện có. Khi nhân viên vận hành trung tâm khởi động nhóm vận chuyển sét và nhóm máy đánh đống sét từ CCR, máy đánh đống và các băng tải sẽ khởi động trình tự và sau đó van 2 ngả sẽ tự động chuyển về hướng kho sét mới. Khi nhóm bị dừng bởi nhân viên vận hành trung tâm, van 2 ngả sẽ tự động chuyển về vị trí kho sét hiện có .

Một tín hiệu liên động truyền tới phòng điều khiển của trạm đập sét hiện có từ phòng điều khiển trung tâm thông qua hộp đấu dây mới của van 2 ngả. Khi van 2 ngả không trở lại vị trí kho sét hiện có và băng tải mới 21.01-1 bị dừng , băng tải sét hiện có và máy đập sẽ dừng vì tín hiệu liên động. Các tín hiệu công tắc giới hạn vị trí của van 2 ngả cũng sẽ được truyền tới phòng điều khiển máy đập hiện có .

Một máy dải sét và một máy cào sét được trang bị cho việc đồng nhất sơ bộ sét. Sét đã được đồng nhất sơ bộ sẽ được vận chuyển bằng các băng tải tới thùng chứa sét 120 tấn (24.02) tại công đoạn nghiền liệu. Tốc độ của máy cào sét (21.05) có thể hiệu chỉnh từ xa tại CCR bởi nhân viên vận hành bằng cách giám sát trọng lượng của thùng chứa sét.

Trên một hướng khác, đá vôi được đồng nhất sơ bộ tại kho chứa hiện có bằng các gầu ngoạm.

Đá vôi và phụ gia (sỉ, quặng ) được vận chuyển bằng các băng tải tới máy nghiền liệu (24.10) thông qua các phễu chứa hiện có và 5 băng cân định lượng lắp đặt mới. Các lọc bụi túi được lắp đặt tại các điểm giao nhau tại các băng tải để thu bụi .

III/ Nghiền nguyên liệu. (Báo cáo thực tập tại công ty xi măng Bỉm Sơn)

1.Máy nghiền liệu.

Máy nghiền liệu kiểu đứng (LM46.4) được lắp đặt để nghiền và sấy nguyên liệu thô. Thiết bị phân ly động (LSKS66) được trang bị để phân ly bột liệu. Các thành phần hạt quá cỡ được loại ra và quay lại bàn nghiền để nghiền lại. Hệ thống tháo liệu bao gồm:

  • Tiếp liệu rung 24.11
  • Băng tải gầu 24.12
  • Gầu nâng 24.15
  • Két chứa 24.62

2. Nguồn nhiệt dùng để sấy liệu

Khí thải tháp trao đổi nhiệt được tận dụng để sấy liệu thô trong máy nghiền sau khi gia nhiệt trong tháp điều hoà khí thải (Tháp phun nước). Bất cứ lúc nào nhiệt độ của khí thải tại đầu vào lọc bụi tĩnh điện cũng được làm lạnl xuống nhiệt độ nhỏ hơn hoặc bằng 1500C. Khi nguồn khí thải từ tháp trao đổi nhiệt không đủ nóng để sấy liệu trong máy nghiền, một nguồn khí nóng từ lò đốt khí nóng lắp đặt mới sẽ cung cấp khí nóng để sấy liệu. (Báo cáo thực tập tại công ty xi măng Bỉm Sơn)

3. Cấp liệu máy nghiền .

Để định lượng nguyên liệu cấp cho máy nghiền, Ba phễu dùng để chứa đá vôi và hai phễu chứa phụ gia hiện có được sử dụng lại. Thông thường chỉ sử dụng một phễu đá vôi nên nhân viên vận hành lựa chọn một trong ba phễu trước khi khởi động nhóm cấp liệu. Một thùng mới bằng thép được trang bị để chứa sét. Ba cân băng định lượng đá vôi, một cấp liệu tấm cùng với cân băng sét, hai cân băng phụ gia, tất cả đều lắp đạt mới để định lượng cho máy nghiền liệu.

4. Vận chuyển nguyên liệu.

Do cân băng định lượng sét đặt xa các cân băng đá vôi và cân băng phụ gia, nên thời gian trễ khởi động sẽ được cân nhắc đối với cân trọng lượng sét. Trường hợp bình thường, vào thời điểm khởi động, nguyên liệu không được để sót lại trên băng tải đá vôi, cân định lượng đá vôi, phụ gia. Sau khoảng thời gian trễ, cân băng khởi động sét sẽ vận chuyển tiếp theo. Khi dừng bình thường các cân sẽ dừng và sau khoảng thời gian trễ cân định lượng sẽ dừng, máy nghiền liệu dừng.

IV/ Đồng nhất bột liệu và chứa. (Báo cáo thực tập tại công ty xi măng Bỉm Sơn)

Bột liệu được thu nhận bằng các cyclon chất lượng cao (24.23) và được vận chuyển bằng các máng khí động tới silô bột liệu (25.03) bằng gầu nâng (24.35) hoặc (31.15). Nhân viên vận hành CCR chọn tuyến vận chuyển trước khi khởi động nhóm vận chuyển. Các thiết bị lọc bụi túi được lắp đặt cho các máng khí động và các gầu nâng. Bột liệu sẽ được phân bố đều ở trong silô bằng hệ thống cấp liệu kiểu máng khí động (25.01 và 25.02). Silô được trang bị thiết bị đồng nhất và thiết bị tháo liệu. Silô được đổ bằng bê tông cốt thép, có khả năng chứa 15.000 tấn bột liệu. Trong silô hệ thống trộn liệu liên tục hoạt động để đạt được hiệu suất trộn cao. Hệ thống trộn liệu theo nguyên lý trọng lực được dùng trong silô chính và hệ thống sục khí nén được dùng trong buồng đồng nhất trung tâm.

Ba quạt pit tông quay(25.06-1, 25.06-2, 25.06-3) dùng để sục khí trong silô đồng nhất: một cái cho vòng ngoài, một cái cho vòng trong và một cái để dự phòng chung. Hai trong ba quạt được chọn tại chỗ bằng cách thay đổi chuyển mạch trên bảng điều khiển địa phương LCP và điều chỉnh bằng các bộ chuyển hướng van đóng cắt bằng tay đặt tại đường ống ra của mỗi quạt. Khi nhân viên CCR vận hành nhóm thông gió 2 quạt sục khí được lập trình trong PLC tại bảng điều khiển địa phương LCP.

Các thiết bị lọc bụi túi (25.09 và 31.21) được lắp đặt để thu bụi ở silô (25.03) và các băng tải tháo liệu (25.04 và 24.07).

V/ Cấp liệu bột liệu.

+Tháo liệu silô: Hai thiết bị tháo (25.04) đặt dưới silô gồm một van cổng thao tác bằng tay và một cổng lưu lượng hoạt động bằng khí nén (ZCV2501 và ZCV2502). Tốc độ tháo liệu từ silô được điều chỉnh tự động sao cho trọng lượng của két cân luôn ở mức xác định bằng cách điều khiển độ mở của van cổng điều khiển lưu lượng hoạt động bằng khí nén để thay đổi lưu tốc qua cửa xả của silô. (Báo cáo thực tập tại công ty xi măng Bỉm Sơn)

+Hệ thống nạp liệu vào lò nung.

Hệ thống cân cấp liệu lò nung gồm két cân (37.07), trang bị các loadcell, hệ thống cấp liệu dùng khí nén có van cổng điều khiển lưu lượng hoạt động bằng môtơ(ZCV31.01), van cổng đóng khẩn cấp (31.09-2) và thiết bị đo lưu lượng bột liệu(31.01). Tốc độ dòng liệu cấp đến tháp tiền nung được tự động điều chỉnh theo điểm đặt về lưu tốc tại CCR và giá trị đo được ở lưu tốc kế (31.10) bằng cách điều chỉnh độ mở của cổng điều khiển lưu lượng (ZCV2101).

Một tuyến dự phòng của hệ thống cân cấp liệu lò gồm một cấp liệu khí nén với cổng điều khiển lưu lượng (ZCV3102) và một van cổng đóng khẩn cấp (31.11-2). Việc chọn tuyến tính hoặc tuyến dự phòng được nhân viên vận hành chọn trước khi khởi động nhóm cấp liệu. Khi tuyến dự phòng được chọn trong trường hợp khẩn cấp, độ mở theo phần trăm của van cổng điều khiển lưu lượng được đóng mở theo phần trăm và điều chỉnh từ CCR.

+Vận chuyển liệu đến tháp tiền nung .

Bột liệu đã được cân để dẫn tới lò nung sẽ được chuyển đến tháp tiền nung bằng băng tải gầu (31.14) và máng khí động (31.12 và 31.16). Băng tải gầu (31.15) được cung cấp làm dự phòng nhưng băng tải này cũng có thể được sử dụng để tuần hoàn bột liệu tới silô bằng van 2 ngả (31.15b/ ZV3121) đặt tại đầu ra của băng tải gầu. Việc chọn băng tải gầu và chọn tuyến tuần hoàn sẽ được nhân viên CCR thực hiện trước khi khởi động nhóm này. (Báo cáo thực tập tại công ty xi măng Bỉm Sơn)

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0972114537