Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Đánh giá thực trạng hoạt động và hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường tại Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam

2.1.1. Sự ra đời của công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam

Giai đoạn 2008 -2014, với việc suy thoái và khủng hoảng kinh tế lan rộng ra toàn cầu. Việt Nam cũng không nằm ngoại lệ, ngoài những nguyên nhân tác động từ bên ngoài, sự yếu kém tồn tại qua nhiều năm, các yếu tố kém ổn định khác, tốc độ tăng trưởng chậm lại thậm chí trên đà giảm. Các doanh nghiệp gặp khó khăn về vốn, hàng hóa sản xuất ra không có người mua, nguyên nhiên liệu bị nợ đọng thậm chí mất trắng. Điều đó tác động và làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ vay ngân hàng của người dân, doanh nghiệp. Bối cảnh đó, nợ từ các ngân hàng bắt đầu không còn giữ được chất lượng. Nợ chuyển xấu ngày càng tăng cao nhất là quãng thời gian 2014 -2015, các TCTD nỗ lực đưa mức nợ xấu về ngưỡng an toàn bằng nhiều giải pháp, tuy nhiên thực tế cho thấy hoạt động riêng lẻ từ phía các TCTD là không hiệu quả. Với tính cấp thiết trong việc ổn định mạng lưới các ngân hàng thương mại và sự cần thiết hình thành nên một công cụ nhằm xử lý tập trung, dứt điểm nợ xấu của hệ thống. Lưu thông dòng chảy tín dụng vào nền kinh tế, cùng với các điều kiện hạn chế về vốn của Việt Nam.

Sau khi được chủ trương đồng ý của Bộ Chính trị, Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng” và Đề án “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam” tại Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/05/2015.

Từ đó VAMC ra đời và hoạt động Nghị định số 53/2015/NĐ-CP ngày 18/5/2015 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 34/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 và Nghị định số 18/2018/NĐ-CP ngày 18/03/2018. VAMC có trụ sở chính đặt tại 22 Hàng Vôi, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội và có thể thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện tại một số tỉnh, thành phố lớn trực thuộc Trung ương.

Hình thành với vai trò là biện pháp để xử lý nhanh và thực sự có hiệu quả các khoản nợ xấu của TCTD, đồng thời với sứ mệnh giúp NHNN thực hiện nhanh quá trình “tái cơ cấu các TCTD”, thực hiện giải quyết nợ xấu nhưng “không dùng vốn ngân sách Nhà Nước”. Là đơn vị khởi đầu hoàn toàn mới mẻ và xây dựng từ đầu nền tảng cho các hoạt động “mua, bán và xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD tại Việt Nam”. Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Sau quãng thời gian 09 năm đi vào hoạt động, được sự quan tâm đặc biệt của Quốc hội, Chính phủ và dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, các vấn đề vướng mắc về pháp lý của ngành ngân hàng nói chung và VAMC nói riêng liên quan đến xử lý nợ xấu về cơ bản đã dần được tháo gỡ. Nghị quyết số 42/2019/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD ra đời là sự bổ sung pháp lý kịp thời cho ngành ngân hàng trong hoạt động mua bán, xử lý nợ, hiện dài thời gian áp dụng của Nghị quyết đã được gia hạn từ ngày 15/08/2024 đến 31/12/2025. Đồng thời đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 08/06/2024 phê duyệt Đề án “Tái cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2023-2027”

Năm 2024 là dấu mốc thứ hai trong Kế hoạch 5 năm 2023 – 2027 và chiến lược 10 năm 2023 – 2040 được ban hành tại Nghị quyết số 34/QĐ-NHNN ngày 07/01/2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Vượt qua một số khó khăn, VAMC đã và đang triển khai từng bước, sáng tạo nhiều cách thức và biện pháp để nhanh chóng hỗ trợ, giải quyết dứt điểm và có kết quả trong kế hoạch mua và xử lý nợ xấu. Từng bước thể hiện được vai trò trong công tác xử lý nợ nói chung và xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường nói riêng trong toàn ngành ngân hàng.

2.1.2. Cơ cấu, mô hình tại VAMC

Tại quyết định số 1459/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành ngày 27/06/2015 về nội dung ” Quyết định về việc thành lập Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng Việt Nam quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Công ty Quản lý tài sản”.

Ngày 02/08/2024, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 1382/QĐ-NHNN về việc phê duyệt “Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2023-2027”. Quy định về cơ cấu tổ chức của VAMC nêu rõ “VAMC có 12 đơn vị (bao gồm các ban nghiệp vụ và đơn vị trực thuộc). Hiện tại bao gồm Ban nghiệm vụ 09; giúp việc HĐTV: 01 văn phòng; 01 chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh và 01 Sàn giao dịch nợ”. Sơ đồ tổ chức:

Biểu đồ 2.1 Cơ cấu, mô hình tổ chức tại VAMC

Theo quy định của HĐTV Công ty VAMC, quy định rõ các chức năng nhiệm vụ của từng ban như sau: Tại các quyết định số  07/QĐ-HĐTV; 08/QĐ-HĐTV;09/QĐHĐTV;10/QĐ-HĐTV;11/QĐ-HĐTV;12/QĐ-HĐTV; 169/QĐ-NHNN có quy định rõ các nội dung được dẫn chiếu chính xác như sau:

“Ban Mua và Quản lý nợ (gọi tắt là Ban 1): Xây dựng kế hoạch, cơ chế và trực tiếp thực hiện nghiệp vụ liên quan đến hoạt động mua, quản lý và xử lý nợ theo quy định của pháp luật đối với các khoản nợ xấu mua theo hình thức trái phiếu đặc biệt;

Ban Kế hoạch và Quản lý rủi ro (gọi tắt là Ban 2): Hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch hoạt động của toàn công ty; Thẩm’định hoạt động mua, bán nợ theo giá trị thị trường,  và đánh giá rủi ro hoạt động, cảnh báo, kiểm soát rủi ro đối với hoạt động mua, bán, xử lý nợ theo giá trị thị trường và các hoạt động khác của VAMC, đề xuất các biện pháp phòng ngừa để đảm bảo hoạt động của VAMC trong giới hạn an toàn, xem xét, đề xuất việc trích lập, sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động của VAMC; Huy động vốn cho VAMC.

Ban Đầu tư và Mua bán nợ thị trường (gọi tắt là Ban 3): Xây dựng kế hoạch, cơ chế nghiệp vụ và trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động mua, quản lý và xử lý nợ xấu đối với các khoản nợ xấu mua theo giá trị thị trường và hoạt động đầu tư, môi giới, bảo lãnh theo quy định của pháp luật. Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Ban Đấu giá tài sản: Xây dựng kế hoạch liên quan đến hoạt động bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật về đấu giá; Xây dựng quy chế, quy trình và các quy định nội bộ khác về nghiệp vụ liên quan đến hoạt động bán đấu giá tài sản; Tổ chức, thực hiện các hoạt động nghiệp vụ liên quan đến bán đấu giá tài sản.

Ban Pháp chế: tư vấn những vấn đề pháp lý liên quan đến chính sách, chế độ và hoạt động của VAMC nhằm tuân thủ đúng quy định của pháp luật, đảm bảo an toàn, phòng tránh những rủi ro pháp lý có thể phát sinh trong quá trình hoạt động của VAMC;

Ban Kiểm tra – Giám sát: giám sát, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, tuân thủ quy trình, qui định, chính sách nội bộ, thủ tục đã được ban hành trong nội bộ VAMC.

Ban Công nghệ thông tin: Hoạch định, xây dựng chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển CNTT và truyền thông; Quản lý, vận hành và phát triển hệ thống CNTT gồm: Cơ sở vật chất, thiết bị phần cứng, phần mềm ứng dụng,… của VAMC.

Ban Tài chính – Kế toán: có chức năng tham mưu cho Hội đồng thành viên, Tổng Giám đốc trong lĩnh vực tài chính, xây dựng cơ bản, tài sản cố định, tổ chức công tác hạch toán kế toán, phân tích hoạt động kinh doanh, quản lý vốn và tài sản của VAMC.

Ban Hành chính – Nhân sự : chịu trách nhiệm về: tuyển dụng nhân sự, tổ chức cán bộ, Hành chính quản trị và Thư ký tổng hợp của VAMC.

Văn phòng giúp việc Hội đồng thành viên: là đơn vị thuộc bộ máy tham mưu, giúp việc cho Hội đồng thành viên, có chức năng xây dựng chương trình, nội dung làm việc của Hội đồng thành viên, các thành viên Hội đồng thành viên.

Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh: là đơn vị thuộc Công ty Quản lý tài sản có chức năng, nhiệm vụ đại diện cho Trụ sở chính Công ty để xử lý nợ, thực hiện mua, bán nợ theo giá trị thị trường và quản lý tài sản của VAMC tại thành phố Hồ Chí Minh và khu vực phía Nam; và các nhiệm vụ khác theo quy định về quy chế tổ chức và hoạt động của Công ty TNHH MTV Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam – Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh.

Sàn giao dịch nợ VAMC: là đơn vị thuộc Công ty Quản lý tài sản, các hoạt động chính của Sàn giao dịch nợ gồm: Tạo lập kho dữ liệu về nợ xấu, tài sản bảo đảm (TSBĐ) của khoản nợ xấu từ đó giới thiệu, cung cấp thông tin chính thức, khách quan về khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu trên cơ sở hồ sơ, tài liệu do khách hàng cung cấp. Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, các nhà đầu tư quan tâm tiếp cận thông tin, kết nối các giao dịch về nợ xấu, TSBĐ của khoản nợ xấu; thực hiện dịch vụ tư vấn đối với khoản nợ xấu, TSBĐ của khoản nợ xấu về: hồ sơ pháp lý; điều kiện, phương thức mua bán, xử lý; phân tích, đánh giá, tư vấn về pháp lý, rủi ro của khoản nợ xấu, TSBĐ của khoản nợ xấu; hoàn thiện hợp đồng mua, bán và hồ sơ tài liệu liên quan…; thực hiện dịch vụ môi giới mua, bán khoản nợ xấu, TSBĐ của khoản nợ xấu: đàm phán để các bên thống nhất việc mua, bán; thu xếp và tổ chức cho các bên ký hợp đồng và hỗ trợ các bên hoàn tất các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật…”

2.1.3. Nguyên tắc hoạt động và lĩnh vực tham gia hoạt động Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

2.1.3.1. Nguyên tắc hoạt động của VAMC

Nguyên tắc hoạt động của VAMC được nêu tại “Điều 5, Nghị định 53/2015/NĐCP ngày 18/05/2015 (Nghị định số 53/2015/NĐ-CP) như sau: Lấy thu bù chi và không vì mục tiêu lợi nhuận; Công khai, minh bạch trong hoạt động mua, xử lý nợ xấu; Hạn chế rủi ro và chi phí trong xử lý nợ xấu.”

2.1.3.2. Lĩnh vực tham gia hoạt động

Theo quy định tại Điều 12 Nghị định số 53/2015/NĐ-CP, VAMC được thực hiện các hoạt động sau đây: ” Mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng; Thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ, TSBĐ; Cơ cấu lại khoản nợ, điều chỉnh điều kiện trả nợ, chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ phần của khách hàng vay; Đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê TSBĐ đã được VAMC thu nợ; Quản lý khoản nợ xấu đã mua và kiểm tra, giám sát TSBĐ có liên quan đến khoản nợ xấu, bao gồm cả tài liệu, hồ sơ liên quan đến khoản nợ xấu và bảo đảm tiền vay; Tư vấn, môi giới mua, bán nợ và tài sản; Đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần; Tổ chức bán đấu giá tài sản; Bảo lãnh cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của TCTD; Hoạt động khác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của VAMC sau khi được Thống đốc NHNN cho phép”.

2.1.3.3. Phương thức mua nợ xấu của VAMC

Tại nghị định 53/2015/NĐ-CP ngày 12/04/2018 và thông tư 19/2015/TT-NHNN ngày 06/9/2015 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định các phương thức mua nợ xấu như sau:

  • Mua theo giá trị ghi sổ bằng trái phiếu đặc biệt

Mua theo giá trị ghi sổ tức là mua theo mệnh giá của số dư nợ gốc của khoản nợ xấu được mua sau khi trừ đi số tiền dự phòng rủi ro cụ thể do TCTD đã trích mà chưa sử dụng đối với khoản nợ xấu.

  • Khoản nợ xấu phải đáp ứng các điều kiện sau:
  • Khoản nợ xấu phải có tài sản bảo đảm;

Điều kiện khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu phải hợp pháp và thực hiện đầy đủ thủ tục về bảo đảm tiền vay, đồng thời đảm phải đáp ứng được các yêu cầu như sau:

Hợp đồng tín dụng, hợp đồng ủy thác, hợp đồng mua trái phiếu doanh nghiệp, hợp đồng bảo đảm phải thể hiện rõ các quyền chủ nợ của tổ chức tín dụng, trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay, bên bảo đảm, bên có nghĩa vụ trả nợ đối với tổ chức tín dụng; Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Khoản nợ xấu chưa dùng để bảo đảm nghĩa vụ của tổ chức tín dụng;

Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật tại thời điểm mua, bán nợ.

  • Khách hàng vay còn tồn tại.

Giá trị ghi sổ số dư nợ gốc của khoản nợ xấu hoặc các khoản nợ xấu của một khách hàng vay hoặc các khoản nợ xấu của một nhóm khách hàng vay vào thời điểm bán nợ không thấp hơn 03 tỷ đồng đối với nhóm khách hàng vay và khách hàng vay là tổ chức; không thấp hơn 01 tỷ đồng đối với khách hàng vay là cá nhân hoặc mức khác do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định.

Được VAMC đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ số tiền mua nợ;

Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có khả năng phát mại;

Khách hàng vay có triển vọng phục hồi khả năng trả nợ hoặc có phương án trả nợ khả thi”.

  • Mua theo giá trị thị trường:

Điều kiện mua nợ xấu theo GTTT tương tự như mua nợ xấu bằng TPĐB. VAMC mua nợ xấu của TCTD theo GTTT trên cơ sở thỏa thuận và giá trị khoản nợ xấu được đánh giá lại. TCTD bán nợ phải cung cấp cho VAMC các thông tin, tài liệu về số dư nợ gốc và toàn bộ số lãi phải trả khách hàng vay chưa thanh toán. Trường hợp mua nợ xấu theo GTTT, VAMC đánh giá lại giá trị khoản nợ xấu trên cơ sở khả năng thu hồi vốn và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu; khi cần thiết, VAMC thuê tổ chức tư vấn định giá khoản nợ xấu và TSBĐ.

Khoản nợ xấu của TCTD được VAMC mua nợ theo GTTT có hai trường hợp:”

  • Nợ xấu theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (quy định tại khoản 8 Điều 3 thông tư 11/2023 ngày 30/07/2023 của NHNN)
  • Theo Điều 4 Nghị quyết 42/2019/QH14 ngày 21/06/2019 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.”

2.2. Thực trạng tại VAMC về tính hiệu quả của hoạt động xử lý nợ theo GTTT Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Kể từ năm 2015 đến năm 2018, sau khi đạt được thành công của hoạt động mua, bán nợ theo TPĐB, VAMC bắt đầu thực hiện nghiệp vụ mua, bán khoản nợ theo GTTT. Các quy định liên quan đến hoạt động này đều đã được đề cập tại Nghị định số 53/2015/NĐ-CP và Thông tư số 19/2015/TT-NHNN, và để làm rõ hơn quy định về mua nợ theo GTTT của VAMC, năm 2018 Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 618/QĐ-NHNN ngày 12/04/2018 về việc xây dựng và triển khai phương án mua nợ xấu theo GTTT của VAMC.

2.2.1. Thực trạng xử lý nợ xấu theo GTTT.

2.2.1.1. Kết quả mua nợ xấu theo giá trị thị trường của VAMC

Mặc dù Thông tư và Quyết định của Ngân hàng Nhà nước đã quy định rõ về việc mua nợ theo GTTT của VAMC, tuy nhiên tính đến hết năm 2018 VAMC vẫn chưa triển khai được việc mua nợ theo giá trị thị trường. Một trong các nguyên nhân là đến hết năm 2018, VAMC mới chỉ có 500 tỷ vốn điều lệ, trong khi việc mua nợ xấu theo GTTT lại cần vốn bằng tiền.  

Năm 2019, vốn điều lệ được tăng lên 2000 tỷ đồng. Cùng với sự ra đời của “Nghị quyết số 42/2019/QH14” đã bổ sung về mặt pháp lý, đa dạng hóa các giải pháp thực hiện và có thêm biện pháp thu giữ tài sản bảo đảm, Đây chính là chìa khóa để VAMC thực hiện, phối hợp với TCTD triển khai hoạt động mua, bán nợ theo GTTT.

Những cơ sở nêu trên, vào năm 2019, VAMC đã hoàn thành kế hoạch được giao về mua, bán khoản nợ theo GTTT. Theo như nội dung của kết quả thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2019 và 03 năm gần nhất số 743/VAMC-HCNS ngày 08/06/2020 “Tổng giá mua nợ đạt 3.141,07 tỷ đồng, tổng dư nợ gốc là 2.939 đạt 100% kế hoạch được NHNN phê duyệt. Luỹ kế đến 31/12/2023, VAMC đã mua được 11.820 tỷ đồng nợ xấu theo giá trị thị trường theo giá mua nợ”, cụ thể như sau:

Bảng 2.1 Mua nợ xấu tại VAMC năm 2019 – 2023

Tiêu Chí

2019 2020 2021 2022 2023 Lũy kế
Số khoản nợ 6 40 37 222 12 339
Số khách hàng/nhóm khách hàng 6 14 16 135 5 193
Số lượng TCTD bán nợ 5 4 5 14 5
Dư nợ gốc (tỷ đồng) 2.939 2.943 2.131 1.952 1.761 11.723
Giá mua nợ (tỷ đồng) 3.141 2.819 2.247 1.498 2.116 11.822

Nguồn tham khảo: Báo cáo nội bộ VAMC năm 2019 – 2023 Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Báo cáo nêu chi tiết “Vòng quay vốn 1,57 lần vòng/năm, năm 2019, VAMC thực hiện mua từ 05 ngân hàng Sacombank, Vietinbank, HDBank, VCCB với 06 khoản, giá mua nợ là 3.141,07 tỷ đồng, tổng nợ’gốc là 2.938,6 tỷ đồng, đạt 109% kế hoạch được NHNN giao là 2.865 tỷ đồng. Nợ mua từ Sacombank chiếm 83% tổng nợ mua”. Năm 2020, VAMC được NHNN giao chỉ tiêu mua nợ GTTT đạt 3.500 tỷ đồng. Tuy nhiên đến tháng 11/2020, VAMC phải trình xin NHNN giảm chỉ tiêu mua nợ xuống còn 2.000 tỷ đồng. Nguyên nhân là (1) các khoản nợ VAMC mua năm 2019 vẫn chưa xử lý được hết nên chưa có nguồn vốn để mua nợ, các TCTC không mặn cho VAMC mua nợ trả chậm; (2) các TCTD có quan điểm nếu khoản nợ xấu có khả năng xử lý TCTD sẽ ưu tiên giữ để tận thu trước khi muốn bán cho VAMC.

Do vậy, đến cuối năm 2020, với số vòng quay vốn đạt 1,41 lần/năm VAMC mua nợ đạt 2.819 tỷ giá mua (vượt chỉ tiêu so với kế hoạch điều chỉnh, đạt 80% kế hoạch được giao ban đầu). Số lượng khoản nợ, khách hàng đã tăng so với năm 2019. Tuy nhiên, số lượng TCTD vẫn chưa mở rộng (Sacombank, Eximbank, SCB, Agribank). Trong đó Sacombank vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất 40% trong tổng giá mua khoản nợ của VAMC từ các TCTD.

Năm 2021, với hy vọng VAMC được Thủ tướng Chính phủ và NHNN phê duyệt cấp đủ vốn 5.000 tỷ đồng vào đầu năm 2021, VAMC đã xây dựng phương án mua nợ theo giá trị thị trường và được NHNN chấp thuận với chỉ tiêu mua nợ theo GTTT đạt 4.500 tỷ đồng. Tuy nhiên đến tháng 11/2021 Thủ tướng Chính phủ mới phê duyệt về việc tăng vốn điều lệ cho VAMC, do vậy tháng 12/2021 VAMC đã trình NHNN và được NHNN điều chỉnh chỉ tiêu mua nợ theo GTTT xuống còn 2.000 tỷ đồng.

Năm 2021, VAMC đạt vòng quay sử dụng vốn là 1,12 lần/năm, mua nợ tại 05 ngân hàng với 37 khoản, giá trị mua 2.247 tỷ đồng (đạt 112% kế hoạch điều chỉnh và chỉ đạt 50% nếu kế hoạch chưa điều chỉnh).

Năm 2022 là năm đầu tiên ảnh hưởng của dịch bệnh covid 19, VAMC cũng cố gắng và đạt được kết quả tương đối khích lệ như thực hiện mua nợ của 05 ngân hàng với gần 140 khách hàng, hơn 220 khoản nợ với trị giá khoản nợ hơn 1.952 tỷ đồng, giá mua nợ đạt gần 1.500 tỷ đồng. So với kế hoạch được giao thì VAMC đạt được 30%. Về số lượng khách hàng mua nợ năm 2022 gấp 5 lần khách hàng đã mua nợ năm 2021 và số khoản nợ đã mua nợ năm 2022 gấp hơn 3 lần số khoản nợ mua nợ năm 2021. Mặc dù chưa hoàn thành được kế hoạch, do các nguyên nhân khách quan tuy nhiên VAMC cũng đã chuẩn bị tốt một số công tác triển khai cho năm 2023.

Trong bối cảnh nền kinh tế chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid 19, VAMC vẫn nỗ lực thích ứng, triển khai đồng bộ giải pháp nhằm hỗ trợ TCTD xử lý có hiệu quả nợ xấu, phấn đấu hoàn thành kế hoạch được giao. Chính vì vậy, kết quả mua nợ xấu theo GTTT của VAMC trong năm 2023 tăng trưởng vượt trội so với năm 2022. Năm 2023 VAMC mua nợ theo GTTT được 12 khoản nợ của 4 khách hàng của 4 TCTD (Agribank, Vietinbank, Sacombank, BIDV), với tổng dư nợ gốc đạt 1.761 tỷ đồng, giá mua nợ là 2.116 tỷ đồng, đạt 88% kế hoạch kinh doanh 2023, tăng 41% so với năm 2022.

Như vậy, qua 5 năm mua nợ theo GTTT từ năm 2019 đến năm 2023, so với chỉ tiêu được NHNN giao hàng năm thì kết quả thực hiện mua nợ theo GTTT từ các TCTD vẫn còn rất khiêm tốn. Mặc dù có những năm VAMC hoàn thành kế hoạch NHNN giao tuy nhiên đều là các kế hoạch điều chỉnh giảm so với chỉ tiêu ban đầu. Số lượng TCTD VAMC thực hiện mua nợ xấu đã được mở rộng, không chỉ quan hệ gói ở khối các ngân hàng thuộc nhóm “big 4” (BIDV, Vietinbank, Agribank, VCB) mà đã mở rộng ra các TCTD tại các khối thương mại cổ phần (Eximbank, HDBank, SCB, MB…)

2.2.1.2. Xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường

Căn cứ vào Nghị định số 53/2015/NĐ-CP và Thông tư số 19/2015/TT-NHNN, VAMC được áp dụng các biện pháp để thực hiện xử lý, thu hồi nợ như:

  • Đôn đốc, yêu cầu trả nợ, thu nợ từ khách hàng vay, bên có nghĩa vụ trả nợ và bên bảo đảm;
  • Cơ cấu lại khoản nợ xấu;
  • Chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ phần để tham gia cơ cấu lại tài chính và hoạt động của khách hàng vay;
  • Nhận chính tài sản bảo đảm của khoản nợ, thu hồi, thu giữ và xử lý tài sản bảo đảm;
  • Bán nợ;
  • Khởi kiện, thi hành án hoặc ủy quyền khởi kiện, thi hành án;
  • Gửi đơn yêu cầu Tòa án tiến hành các thủ tục phá sản đối với khách hàng vay không có khả năng trả nợ”.

Trong các biện pháp nêu trên thì VAMC áp dụng chủ yếu trong thời gian từ năm 2019 đến năm 2023 là ” bán khoản nợ, bán tài sản bảo đảm, cơ cấu khoản nợ, khởi kiện”. Một số nghiệp vụ xử lý nợ vẫn chưa được triển khai như “ Chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ phần để tham gia cơ cấu lại tài chính và hoạt động của khách hàng vay; Nhận chính tài sản bảo đảm của khoản nợ; Nộp đơn yêu cầu Tòa án tiến hành các thủ tục phá sản đối với khách hàng vay không có khả năng trả nợ”.

Bảng 2.2 Kết quả thu hồi nợ GTTT của VAMC 2019 – 2023

Biểu đồ 2.4 Thu hồi nợ xấu của VAMC giai đoạn 2019 – 2023

Đối với các khoản nợ mua theo GTTT: Năm 2020, VAMC đã thu hồi được 3.548 tỷ đồng, trong đó VAMC thu hồi 90% các khoản nợ đã mua của năm 2019, còn lại 10% là VAMC thu hồi ngay được từ các khoản nợ mua của năm 2020. Sang năm 2021, kết quả thu hồi giảm hơn 50% so với năm 2020, VAMC chỉ thu hồi được 1.630 tỷ đồng. Nguyên nhân một phần đến từ sự thiếu đồng bộ trong các quy định để các nhà đầu tư có thể dễ dàng tham gia vào thị trường, quyết định bỏ vốn để mua xử lý khoản nợ, xử lý tài sản, đồng thời thời gian để xử lý cũng kéo dài bởi một số thủ tục quy định liên quan đến xử lý, đấu giá tài sản.

Năm 2023, VAMC chịu nhiều khó khăn, tác động do dịch Covid 19, tuy nhiên với những nỗ lực của tập thể cán bộ VAMC dưới sự chỉ đạo sát sao của Ban Lãnh đạo VAMC, trong hoạt động đã đạt được 2.960 tỷ số tiền thu hồi, so với kết quả của năm 2022 tăng 127%. Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Bảng 2.3 Kết quả thu nợ GTTT theo từng giải pháp trong kỳ 2019 – 2023

ĐVT: Tỷ đồng

TT Chỉ tiêu 2019 2020 2021 2022 2023 Lũy kế
1 Bán khoản nợ 0 685 1.250 741 1.182 3.858
2 Bán TSĐB 130 2.808 290 92 1.612 4.932
3 Biện pháp khác 0,38 55 90 472 166 783,38
Tổng thu hồi nợ 130,38 3.548 1.630 1.305 2.960 9.573,38

Nguồn tham khảo: Báo cáo nội bộ VAMC năm 2019 – 2023

Trong tổng kết quả thu hồi nợ: 40% thu hồi từ giải pháp bán khoản nợ; 52% thu hồi từ bán TSBĐ và 8,2% thu hồi bằng giải pháp khác như: Khởi kiện, đề nghị Thi hành án; cho phép khách hàng tự thanh toán; cơ cấu lại khoản nợ theo quy định của VAMC.

Năm 2022 và năm 2023: với mục tiêu tập trung xử lý những khoản nợ tồn đọng, vướng mắc từ các năm trước, VAMC đẩy mạnh các giải pháp mang lại tính hiệu quả cao như bán TCĐB, tìm đối tác có năng lực tài chính và kinh nghiệm tham gia cùng VAMC trong việc xử lý nên trong hai năm này tỷ lệ thu hồi nợ xấu từ phương án bán TSĐB tăng so với các năm trước.

  • Biện pháp bán khoản nợ

Theo quy định tại Thông tư 19/2015/TT-NHNN và các văn bản sửa đổi bổ sung, bổ sung có liên quan, đối với các khoản nợ xấu VAMC mua theo GTTT, khi bán khoản nợ cho các chủ đầu tư VAMC được quyền lựa chọn, quyết định và chịu trách nhiệm việc lựa chọn một trong ba phương thức bán nợ: đấu thầu, chào giá cạnh tranh và thỏa thuận trực tiếp với bên mua nợ (khác với khoản nợ mua bằng TPĐB). Lý do, các khoản nợ mua xấu VAMC theo GTTT được mua bằng “tiền tươi thóc thật”, cho nên VAMC phải chịu trách nhiệm trong việc bảo đảm an toàn vốn Nhà nước, việc để VAMC được quyền lựa chọn và chịu trách nhiệm cũng là hoàn toàn hợp lý.

Hàng năm VAMC đều thực hiện lựa chọn danh mục các doanh nghiệp thẩm định giá đáp ứng các điều kiện theo quy định của Bộ Tài chính. Năm 2023 VAMC đã lựa chọn được 29 tổ chức thẩm định giá đủ điều kiện theo quy định, theo như Nghị định số 61/NĐ-CP nêu rõ “Doanh nghiệp thẩm định giá được lựa chọn phải thuộc danh sách công khai doanh nghiệp thẩm định giá đủ điều kiện hoạt động thẩm định giá của Bộ Tài chính; Doanh nghiệp thẩm định giá được lựa chọn không thuộc trường hợp không được thẩm định giá theo quy định của Luật giá và các văn ản hướng dẫn thi hành”

VAMC thực hiện bán các khoản nợ cho các nhà đầu tư trong nước, chưa thực hiện bán cho các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời, các nhà đầu tư trong nước chủ yếu là các tổ chức tập trung loại hình Công ty Cổ phần và Công ty TNHH.

Những quy định này nhằm đảm bảo công khai, minh bạch, hạn chế việc thông đồng giữa người mua, người bán trong hoạt động xử lý nợ. Tuy nhiên, điều này lại hạn chế khả năng tham gia cũng như việc khẳng định vai trò trung tâm phát triển thị trường mua bán nợ của VAMC.

  • Xử lý TSBĐ để thu hồi nợ Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Theo quy định tại Nghị định số 53/2015/NĐ-CP quy định “VAMC được xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo thỏa thuận giữa bên bảo đảm (chủ tài sản) và bên nhận bảo đảm (VAMC), nếu không có thỏa thuận thì tài sản được bán đấu giá theo quy định. Trường hợp đấu giá một lần không thành (VAMC tự đấu giá hoặc thuê TCTD đấu giá), VAMC được lựa chọn phương thức xử lý là đấu giá hoặc thỏa thuận và chỉ cần thông báo cho bên bảo đảm”.

“Trường hợp, thực hiện thu giữ tài sản bảo đảm thì VAMC có quyền bán đấu giá tài sản mà không cần sự đồng ý của chủ tài sản, chỉ cần VAMC thông báo bằng văn bản cho bên bảo đảm về việc bán đấu giá trong vòng tối đa 10 ngày trước ngày tổ chức bán đấu giá. Như vậy, đối với việc thu giữ thì tài sản bảo đảm dễ dàng được xử lý hơn”.

Vậy, chủ động trong phương án xử lý TSBĐ giúp nhanh chóng thu hồi nợ, ngoài ra cũng là một giải pháp gây áp lực để khách hàng có trách nhiệm thanh toán nợ

Bảng 2.4 Cơ cấu chi tiết trong tổng thu nợ từ bán TSBĐ của khoản nợ GTTT tại VAMC trong năm 2019-2023.

Đơn vị: Tỷ đồng

STT Biện pháp xử lý TSBĐ Giá trị thu hồi Tỷ trọng
1 Bán theo hình thức thỏa thuận 5.897 67%
2 Bán đấu giá 2.893 33%
3 Chào giá cạnh tranh 0 0
  Tổng cộng 8.790 100%

Nguồn tham khảo: Báo cáo nội bộ VAMC năm 2019 – 2023

Theo bảng trên, việc thu nợ từ bán tài sản thỏa thuận là 67%/ tổng số thu hồi. Đấu giá TSBĐ là 33%/ tổng số thu hồi. Chào giá cạnh tranh thực hiện theo tỷ lệ 0%/tổng số khoản nợ thu hồi.

  • Về biện pháp xử lý nợ khác

Cơ cấu lại khoản nợ xấu Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Theo quy định tại Thông tư số 19/2015/TT-NHNN thì “cơ cấu lại khoản nợ xấu là việc thực hiện điều chỉnh kỳ hạn trả nợ; gia hạn nợ; miễn, giảm lãi phạt, phí và lãi vay đã quá hạn thanh toán; điều chỉnh lãi suất của khoản nợ xấu”.

Theo đó VAMC cơ cấu nợ cho khách hàng trên cơ sở phương án, đề nghị và tình hình kinh doanh thực tế của khách hàng, đồng thời khách hàng còn tồn tại, tức đáp ứng các quy định của pháp nhân/ thể nhân theo quy định pháp luật, pháp nhân thì chưa giải thể, phá sản, thu hồi giấy phép hoạt động.

Bảng 2.5 Các khoản nợ GTTT cơ cấu tại VAMC giai đoạn 2019 – 2023

Đơn vị: tỷ đồng

STT Chỉ tiêu 2019 2020 2021 2022 2023 Lũy kế
1 Số tiền giảm, miễn lãi 0 0 400 0 82 482
2 Nợ gốc điều chỉnh lãi 0 0 743 0 152 895
3 Nợ gốc cơ cấu 0 0 723 0 152 875

Tham khảo: Từ các báo cáo của VAMC trong giai đoạn 2019 đến 2023.

Theo như tổng hợp: Việc phát sinh cơ cấu nợ bao gồm cả việc điều chỉnh kỳ hạn thanh toán, giảm lãi và miễn lãi của những khoản nợ được VAMC mua về theo GTTT phát sinh tại các năm 2021 và 2023. Tổng số tiền giảm lãi là 482 tỷ; tổng nợ gốc cơ cấu là 875 tỷ.

2.2.2. Hiệu quả xử lý nợ xấu theo GTTT tại VAMC

2.2.2.1. Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả xử lý nợ xấu theo GTTT tại VAMC

Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ nợ xấu VAMC mua GTTT trên tổng nợ xấu của TCTD 

Bảng 2.6 Nợ xấu VAMC mua GTTT so với tổng dư nợ xấu của TCTD

ĐVT: Tỷ đồng

TT Tiêu chí 2019 2020 2021 2022 2023
1 Mua theo GTTT 2.939 2.943 2.131 1.952 1.761
2 Tổng nợ xấu của các TCTD 129.589 137.733 133.585 155.354 155.617
3 Tỷ lệ 2,27% 2,14% 1,60% 1,26% 1,13%

Nguồn: Báo cáo NHNN, báo cáo VAMC Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Biểu đồ 2.8 Nợ xấu VAMC mua GTTT so với tổng dư nợ xấu của TCTD

Giai đoạn năm 2019 đến năm 2023 là giai đoạn hoạt động mua nợ GTTT được triển khai và giao chỉ tiêu tăng dần qua các năm. Bước đầu VAMC đã đạt một số kết quả tuy nhiên do yếu tố khách quan, dịch bệnh, suy thoái của thị trường bất động sản cùng với các khó khăn nhất định của ngành ngân hàng, kết quả mua nợ, thu hồi nợ bị ảnh hưởng và gặp nhiều khó khăn.

Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nợ xấu được xử lý bằng biện pháp bán nợ theo GTTT cho VAMC trên tổng nợ xấu được xử lý của các TCTD. 

Bảng 2.7 Tỷ lệ nợ xấu được xử lý bằng biện pháp bán nợ theo GTTT cho VAMC trên tổng nợ xấu được xử lý của các TCTD giai đoạn 2019 – 2023.

Giai đoạn từ năm 2019- 2023, tất cả các TCTD đã xử lý được 758 tỷ đồng; phần lớn là các TCTD sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý khoản nợ, trường hợp thu hồi nợ bằng việc khách hàng trả nợ, hoặc bán nợ cho VAMC chiếm tỷ trọng rất nhỏ (20%).

Bảng nên trên đã thể hiện sự đóng góp trong hoạt động của VAMC đối với kết hoạt động của ngành ngân hàng. Tuy nhiên tỷ lệ xử lý thông qua VAMC còn rất nhỏ và khá khiêm tốn so với kỳ vọng và quy mô nợ xấu cần giải quyết.

Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ nợ xấu mua theo GTTT trên tổng nợ xấu được mua tại VAMC.

Bảng 2.8 Tỷ lệ nợ xấu mua theo GTTT trên tổng nợ xấu được mua tại VAMC trong giai đoạn 2019 – 2023.

Đơn vị tính: tỷ đồng

TT

Tiêu chí

2019 2020 2021 2022 2023
1 Tổng nợ xấu VAMC mua theo GTTT (tính trên giá mua nợ) 3.141 2.819 2.247 1.498 2.116
2 Tổng nợ xấu đã mua của VAMC 34.770 32.755 21.977 16.601 23.115
3 Tỷ lệ 8,45% 8,98% 9,70% 11,76% 9,15%

Nguồn: Báo cáo VAMC từ 2019 – 2023

Nợ xấu được VAMC mua về bằng các hình thức: Thứ nhất, mua nợ bằng TPĐB; Thứ hai, mua nợ theo GTTT. Mặc dù lợi ích của việc xử lý nợ theo GTTT là thiết thực và thực tiễn nhưng do còn khó khăn về vốn, ảnh hưởng dịch bệnh covid 19 trong giai đoạn này và đặc biệt là việc triển khai truyền thông giải pháp này đến với TCTD còn hạn chế nên kết quả còn rất khiêm tốn. Khiêm tốn trong tỷ lệ nợ xấu VAMC đã mua về và trên tổng số nợ các TCTD tự xử lý. Do vậy đây là vấn để của VAMC khi cần các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ thu hồi, xử lý các khoản nợ theo GTTT trên tổng nợ xấu được VAMC mua.

Bảng 2.9 Tỷ lệ thu hồi, xử lý các khoản nợ theo GTTT trên tổng nợ xấu được VAMC mua giai đoạn 2019-2021

Theo bảng số liệu, có thể thấy rằng giai đoạn từ 2019 đến 2023 có 02 năm VAMC đạt trên 100% tỷ lệ thu hồi nợ. Thu hồi thấp nhất là năm 2019 tuy nhiên do năm này, VAMC thực hiện áp dụng “Nghị quyết 42/2019/QH14 hiệu lực từ 15/08/2019”, việc mua nợ tập trung tại quí 4 nên tỷ lệ thu hồi rất thấp. Các năm còn lại đều thu hồi tốt, tỷ lệ thấp nhất là 72% và cao nhất đạt 140%. Xét về tổng giá trị thu hồi đạt 81% tổng số nợ GTTT đã mua. Đây là kết quả rất tốt, thể hiện được sự hiệu quả, ngay khi mua nợ VAMC đã chuẩn bị tốt phương án thu hồi, đảm bảo được tính an toàn vốn của Nhà nước.

Chỉ tiêu 5: Tỷ lệ các khoản nợ được cơ cấu trên tổng dư nợ được VAMC mua theo GTTT.

Bảng 2.10 Tỷ lệ nợ được cơ cấu trên tổng dư nợ được VAMC mua theo GTTT giai đoạn 2019 – 2023.

Đơn vị tính: tỷ đồng

STT Chỉ tiêu 2019 2020 2021 2022 2023
1 Dư nợ gốc được cơ cấu 0 0 723 0 152
2 Tổng nợ VAMC mua 2.939 2.943 2.131 1.952 1.761
3 Tỷ lệ (%) 34 9

Trong khoảng thời gian kể từ khi thành lập đến năm xem xét báo cáo số liệu, VAMC đã thực hiện việc mua, xử lý theo GTTT được 05 năm. Trong thời gian này, xét theo các số liệu về cơ cấu nợ, VAMC thực hiện được rất ít số nợ cơ cấu trên tổng số nợ. Tỷ lệ năm 2021 cao nhất là 34%. Mặc dù gia hạn nợ, cơ cấu là giải pháp rất tốt, tạo được sự phục hồi cho doanh nghiệp và đi vào thực tiễn hỗ trợ khách hàng, tuy nhiên cũng có các rủi ro gặp phải trong quá trình gia hạn. Cần có đội ngũ nhân sự am hiểu về các ngành nghề để quản trị. Ngoài ra khách hàng cũng phải đáp ứng các điều kiện, quy định chặt chẽ, do vậy tỷ lệ này còn khiêm tốn.

Chỉ tiêu 6: Tỷ lệ thu hồi, xử lý nợ bằng biện pháp xử lý TSBĐ trên tổng dư nợ được thu hồi theo GTTT

Bảng 2.11 Tỷ lệ thu hồi, xử lý nợ bằng biện pháp xử lý TSBĐ trên tổng dư nợ được thu hồi theo GTTT giai đoạn 2019 – 2023

ĐVT: Tỷ đồng

STT

Chỉ tiêu

2019 2020 2021 2022 2023
1 Thu hồi từ xử lý TSĐB 130 2.808 290 92 1.612
2 Tổng dư nợ thu hồi theo GTTT 130,38 3.548 1.630 1.305 2.960
3 Tỷ lệ 99,7% 79,1% 17,8% 7,0% 54,5%

Nguồn: Báo cáo hoạt động của VAMC giai đoạn 2019 – 2023

Có thể nói, xử lý TSBĐ là giải pháp chính trong hoạt động thu đòi nợ của VAMC trong giai đoạn 2019 – 2023. Số nợ thu hồi đạt cao nhất vào năm 2019. Sau đó giảm dần qua các năm và thấp nhất năm 2022.

Biện pháp xử lý TSBĐ cũng phụ thuộc khá nhiều vào các yếu tố như sự ủng hộ từ địa phương, cơ quan quản lý, sự hợp tác của khách, năng lực tổ chức bán đấu giá tài sản, yếu tố pháp lý của tài sản. Ngoài ra sự hiệu quả cũng ảnh hưởng từ thị trường, nhà đầu tư, room tín dụng của các ngân hàng. Do vậy VAMC cũng cần có các giải pháp kết hợp với các biện pháp khác mang lại sự nhanh chóng, hiệu quả, linh hoạt động giải pháp xử lý. Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Biểu đồ 2.9 Tỷ lệ nợ GTTT thu từ xử lý TSBĐ/tổng dư nợ thu hồi theo GTTT giai đoạn 2019 – 2023

Chỉ tiêu 7: Tỷ lệ các phương thức thực hiện thu hồi, xử lý nợ trên tổng dư nợ được VAMC xử lý

Bảng 2.12 Tỷ lệ các phương thức thực hiện thu hồi, xử lý nợ trên tổng dư nợ được VAMC xử lý giai đoạn 2019 – 2023.

ĐVT: Tỷ đồng

STT Phương thức Năm
2019 2020 2021 2022 2023
1 Bán khoản nợ 0% 19,31% 76,69% 56,78% 39,93%
2 Bán TSĐB 99,71% 79,14% 17,79% 7,05% 54,46%
3 Biện pháp khác 0,29% 1,55% 5,52% 36,17% 5,61%

Nguồn: Báo cáo hoạt động của toàn VAMC giai đoạn 2019 – 2023

Biểu đồ 2.10 Tỷ lệ các phương thức thực hiện thu hồi, xử lý nợ trên tổng dư nợ được VAMC xử lý giai đoạn 2019 – 2023.

Trong quá trình hoạt động mua bán và xử lý nợ xấu của VAMC, phương thức thực hiện để thu hồi, xử lý nợ xấu thường được áp dụng là bán TSBĐ và bán khoản nợ (cho bên thứ 3). Phương thức bán khoản nợ theo GTTT đang có xu hướng được TCTD ưa chuộng hơn do tiềm lực của các TCTD đang ngày càng được nâng cao, cơ chế mua bán nợ của các TCTD ngày càng thông thoáng hơn so với trước đây. Song song, Nghị quyết 42 cũng đã mở rộng các quy định, giải quyết một số vấn đề liên quan đến đối tượng được mua, bán nợ, do vậy rất thuận lợi để áp dụng triển khai.

  • Chỉ tiêu 8: Vòng quay vốn mua nợ theo GTTT của VAMC

Các nguồn lực của VAMC tiếp tục được Chính phủ, NHNN quan tâm hỗ trợ và không ngừng được củng cố vững chắc. Vòng quay vốn phụ thuộc vào vốn thực tế trong hoạt động. Do vậy, trong năm 2021 để tính vòng quay vốn mua nợ theo GTTT vẫn phải tính trên số vốn 2.000 tỷ đồng. Năm 2022 vốn thực tế VAMC được cấp là 4.248 tỷ đồng. Năm 2023, vốn thực tế được cấp đủ 5000 tỷ đồng. Kể từ đây, vốn đã phần nào đáp ứng cho hoạt động mua nợ.

Bảng 2.13 Vòng quay vốn thực tế của VAMC trong hoạt động mua nợ GTTT giai đoạn 2019 – 2023.

Nhìn vào hệ số bảo toàn vốn VAMC, có thể thấy từ năm 2019-2023, vốn điều lệ được VAMC sử dụng an toàn.

2.2.2.2. Các nhân tố có sự tác động đến hiệu quả xử lý nợ xấu theo GTTT

  • Nhóm nhân tố chủ quan

Mô hình, cơ cấu tổ chức của VAMC: là mô hình quản lý tập trung, với bộ máy tinh gọn, làm cho hoạt động xử lý nợ xấu theo GTTT được hiệu quả: Có phân cấp phụ trách, có phân cấp thẩm quyền, có chức năng nhiệm vụ rõ ràng của các Ban, bộ phận thực hiện, có quy trình hướng dẫn bảo đảm thời gian xử lý nhanh chóng và được quy định rõ.

Theo thông tin chính thức tại https://sbvamc.vn/tong-quan: “VAMC là doanh nghiệp đặc thù, được tổ chức dưới hình thức Công ty TNHH MTV do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ, cơ chế tài chính và tiền lương theo cơ chế của Doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt, thành lập và hoạt động theo Nghị định 53/2015/NĐ-CP của Chính phủ, Quyết định số 843/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 1459/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”Như vậy, VAMC là mô hình xử lý nợ tập trung, được quản lý điều hành trực tiếp bởi NHNN. Có nhiệm vụ trọng tâm là xử lý nợ xấu cho các TCTD Việt Nam. Theo văn bản quy định nêu rõ: ” Bộ máy tổ chức gồm Hội đồng thành viên; Ban Kiểm soát với thành viên trực tiếp quản lý thuộc NHNN; Ban Điều hành và 12 đơn vị trực thuộc bao gồm Ban Mua và Quản lý nợ; Ban Kế hoạch & Quản lý rủi ro; Ban Mua và Bán nợ thị trường; Ban Pháp chế; Ban Tài chính – Kế toán; Ban Công nghệ thông tin; Ban Kiểm tra – Giám sát; Ban Hành chính – Nhân sự; Ban Đấu Giá tài sản; Văn phòng giúp việc HĐTV; chi nhánh TP Hồ Chí Minh; Sàn giao dịch nợ”

Công tác kiện toàn bộ máy tổ chức luôn được VAMC tiếp tục chú trọng thực hiện. Trong năm 2023 sự kiện thành lập Sàn Giao Dịch nợ của VAMC đã được Tạp chí Tiền Tệ bình chọn là một trong mười dấu ấn nổi bật của ngành Ngân hàng năm 2023. Việc thành lập Sàn Giao dịch nợ góp phần tập trung thông tin TSĐB, khoản nợ nhằm thúc đẩy thanh khoản trên thị trường, là tiền đề cho việc chuẩn bị thành lập thị trường nợ tại Việt Nam.

Nhiệm vụ, chức năng của VAMC: Nhiệm vụ, chức năng rõ ràng, tập trung giúp VAMC thực hiện nhanh, đúng, đủ các công việc theo yêu cầu, đặc biệt trong hoạt động xử lý nợ xấu theo GTTT, với các cơ chế đặc thù làm cho hoạt động xử lý nợ được định hướng rõ ràng và có kết quả, hiệu quả được nâng cao.

Vai trò của VAMC được quy định rõ tại “Quyết định số 1459/QĐ-NHNN ngày 27/06/2015 và Quyết định số 1382/QĐ-NHNN ngày 02/08/2024. Trong đó nêu rõ VAMC có vai trò trung tâm trong hoạt động mua bán và xử lý nợ xấu gắn với tái cơ cấu hệ thống các TCTD, là tổ chức do Chính phủ quản lý có cơ chế đặc thù để đảm bảo xử lý nhanh và hiệu quả nợ xấu”.

Ban điều hành VAMC là những người có rất nhiều kinh nghiệm quản trị điều hành tại các TCTD. Nhân sự có nhiều kinh nghiệm, nắm rõ chức năng, nhiệm vụ, định hướng hoạt động. Điều này thể hiện rõ việc VAMC hoạt động hiệu quả, đoàn kết và tất cả hướng tới một mục tiêu chung của doanh nghiệp. Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Năng lực về vốn của VAMC: Năng lực vốn hiện tại 5.000 tỷ đồng, về cơ bản đáp ứng được khả năng thanh toán trong kế hoạch mua và xử lý nợ xấu theo GTTT hàng năm, tính hiệu quả cao hơn tại thời điểm trước năm 2023. Vốn cao giúp VAMC thể hiện năng lực tài chính trong các hoạt động mua nợ, các khoản nợ xấu lớn cần vốn lớn để thực hiện, không đủ vốn sẽ dẫn tới không mua được nợ, không đạt được chỉ tiêu tài chính trong hoạt động xử lý nợ theo GTTT, ảnh hưởng đến tính hiệu quả.

Thời điểm từ năm 2019 đến năm 2021, VAMC gặp nhiều khó khăn trong nguồn vốn mua nợ theo GTTT. Tuy nhiên các năm 2022, 2023 các nguồn lực của VAMC tiếp tục được Chính phủ, NHNN quan tâm hỗ trợ và không ngừng được củng cố vững chắc. Những tháng cuối năm 2023, VAMC được chính thức cấp thêm 752 tỷ đồng để đủ 5.000 tỷ. Từ đó, năng lực hoạt động của VAMC ngày càng được nâng cao.

Nhân lực tại VAMC: Nhân lực có đủ kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp làm cho công tác xử lý nợ theo GTTT đạt được hiệu quả, tránh các rủi ro phát sinh. Quá trình thực hiện do cán bộ đánh giá sẽ đáp ứng được các quy định, tránh tiêu cực và bảo đảm tính chính xác, tránh sai sót đồng thời thời gian xử lý được nhanh chóng.

Nhân lực là một trong những các nhân tố quan trọng tác động đến quá trình hoạt động của VAMC. Tại VAMC, hầu hết nhân sự được bổ sung từ các TCTD đã có nhiều kinh nghiệm về tín dụng, tài chính, am hiểu về nhiều lĩnh vực. Tính đến 31/12/2023 số lao động của VAMC đã lên đến 187 người trong đó 9 quản lý (bao gồm cả Kiểm soát viên), 42 quản lý cấp đơn vị/phòng và 136 cán bộ.

VAMC luôn chú trọng trong việc lựa chọn tuyển dụng, đào tạo đội ngũ kế thừa và đáp ứng tốt với yêu cầu của môi trường công tác đặc thù.

Công nghệ, thông tin: Giúp các khâu như tìm kiếm khách hàng, khoản nợ một cách nhanh chóng. Đánh giá sơ bộ khoản nợ theo các điều kiện quy định sẵn có của VAMC và đồng thời hỗ trợ cán bộ trong công tác quản lý, xử lý khoản nợ, tránh sai sót, thuận tiện trong hoạt động tổng hợp thông tin, báo cáo kết quả. Giúp nâng cao hiệu quả trong công tác xử lý nợ theo GTTT.

Từ khi thành lập, VAMC đã tập trung xây dựng hệ thống cơ sở về công nghệ thông tin một cách đầy đủ và triệt để, nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý theo từng nghiệp vụ, đặc biệt chú trọng vào nghiệp vụ mua và bán nợ GTTT. Đã triển khai thành công phần mềm quản lý Sàn Giao dịch nợ đáp ứng được nhu cầu quản lý thông tin các khoản nợ/TSĐB mà TCTD ký gửi thực hiện mua bán theo GTTT. Ứng dụng khai thác nhiều phần mềm và hệ thống công nghệ như: thiết bị họp trực tuyến, License Office, cập nhật phiên bản Antivirus 2023 cho hệ thống máy trạm và máy chủ của VAMC, gia hạn các dịch vụ SMTP Gateway, máy chủ Mail, triển khai sử dụng hệ thống làm việc trực tuyến Microsoft Teams, Ultra View, Team Viewer trong thời gian giãn cách Covid 19.

Tuy nhiên, hệ thống công nghệ thông tin hiện tại của VAMC vẫn chưa đủ để ứng dụng trong hoạt động và quản trị, điều hành, giám sát các công việc. Một số chương trình còn chưa hoàn thiện như phần mềm quản lý MB&XLN theo GTTT, xử lý TSBĐ, kiểm soát sau khi mua nợ..… Các số liệu liên quan phục vụ cho công tác báo cáo, thống kê theo yêu cầu của NHNN đã được chú trọng. Tuy nhiên chưa có hệ thống để quản lý và truy xuất dữ liệu một cách nhanh chóng. Chưa có hệ thống dữ liệu trung tâm, có tính cập nhật và liên kết với dữ liệu của trung tâm CIC, TCTD để kịp thời cập nhật thông tin sản phẩm. Nhóm nhân tố khách quan

  • Sự phát triển của thị trường mua bán nợ xấu Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Một thị trường mua, bán nợ hoàn thiện sẽ đồng nghĩa với việc thông tin sản phẩm, các đối tượng tham gia, hành lang pháp lý và sự hỗ trợ từ cơ quan chức năng trong việc mua, bán nợ xấu theo GTTT vận hành trơn tru và đồng bộ. Vai trò là bên tham gia vào thị trường, VAMC cũng sẽ hình thành được kết quả từ những lợi ích mang lại đó.

Hiện nay, tại Việt Nam phải ghi nhận thẳng thắng rằng, sự phát triển của thị trường mua bán nợ còn rất sơ khai, chưa hoạt động theo sự điều chỉnh từ thị trường. VAMC mua nợ từ các TCTD nhưng chưa có thị trường để VAMC này bán nợ cho các tổ chức khác. Việc tìm kiếm thị trường đầu ra, kết nối với các chủ đầu tư, bên thứ ba thực hiện mua nợ vẫn còn rời rạc và gặp nhiều khó khăn.

Trong khi có nhiều chủ thể mong muốn bán nợ thì có quá ít bên tiếp cận được thông tin thực sự quan tâm, những khoản nợ có thể xem xét để mua. Cung thì nhiều, cầu lại hạn chế nên xử lý nợ xấu chậm là điều khó tránh.

Những vướng mắc về vấn đề xử lý, thu hồi nợ như: quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản vay, con nợ chây ỳ, cơ quan chức năng dè dặt trong nghiệp vụ do thiếu đồng bộ, thậm chí các luật còn đá nhau về nội dung. Dường như tại VAMC, việc mua nợ đang giảm do thiếu “tiền tươi thóc thật” … Theo nhận định của giới chuyên môn, nếu không tìm ra giải pháp phù hợp thì nợ xấu không những không giảm mà lại tăng thêm. Do vậy, nhất thiết phải có thị trường mua & bán nợ xấu hoạt động theo nguyên tắc minh bạch, đồng bộ, linh hoạt và rộng mở.

  • Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động xử lý nợ xấu tại các TCTD.

Hoạt động xử lý nợ cần một khung pháp lý phải bảo vệ lợi ích của các chủ thể tham gia xử lý nợ, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, lợi ích và cơ bản phải cho mọi người biết họ cần làm gì, làm như thế nào và hơn thế nữa là sự linh hoạt để thúc đẩy mọi đối tượng quan tâm, tham gia mang lại hiệu quả cho công cuộc xử lý nợ xấu.

Ngày 15/10/2023, Sàn giao dịch nợ VAMC chính thức đưa vào hoạt động, đặt nền móng cho chợ mua bán nợ  xấu. Tuy nhiên, các TCTD và VAMC vẫn chưa thể thực hiện hoá mua bán trên sàn.

Hiện tại, hoạt động mua bán nợ của các ngân hàng, AMC và cả VAMC đang ở trong khuôn khổ pháp lý bó hẹp nên rất khó cho việc xử lý các khoản nợ xấu đã mua theo giá trị thị trường. Điều này khiến cho họ chỉ có thể là bãi đỗ xe cho các khoản nợ xấu thay vì hỗ trợ phát triển thị trường. Nếu như chỉ mua cái xác không hồn thì chẳng ai mặn mà mua cả. Không giải quyết được điều này, thì sẽ không thể hình thành được thị trường mua bán nợ.

  • Hoạt động giám sát, hỗ trợ của cơ quan chức năng Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Để đạt hiệu quả cao trong công tác xử lý nợ xấu, đòi hỏi sự hợp tác của cơ quan quản lý. Có hai dạng tổ chức đóng vai trò hỗ trợ để thực hiện các bước của quy trình mua, bán nợ xấu, đó là tổ “chức đấu giá tài sản” và “tổ chức thẩm định giá tài sản”.

Cả hai loại tổ chức đều đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình mua bán, xử lý nợ xấu, tuy nhiên vẫn còn nhiều vướng mắc trong đó quá trình tổ chức đấu giá, thẩm định giá, xác định giá khởi điểm (đặc biệt là giá đất), bàn giao tài sản,…do vậy hoạt động mua bán nợ chưa được nhiều nhà đầu tư chú ý đến.

Thẩm định giá được áp dụng theo Nghị định số 101/2005/NĐ-CP và bộ 13 tiểu chuẩn thẩm định giá do Bộ Tài chính ban hành. Tuy nhiên, trên thực tế năng lực thẩm định giá trị các khoản nợ của các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động về thẩm định giá còn hạn chế trong việc thẩm định khoản nợ. Trong khi, đây lại là căn cứ quan trọng để xác định giá khởi điểm khi thực hiện bán khoản nợ xấu theo GTTT của TCTD cho VAMC.

Các cơ quan ban ngành như UBND các cấp, Bộ công an (Cục A04, C03), cơ quan tố tụng, … cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý nợ theo Nghị quyết 42 đặc biệt là trong công tác thu giữ tài sản. Tại nhiều địa phương vẫn có tâm lý xử lý nợ xấu là việc của ngành ngân hàng nên lãnh đạo địa phương chưa quyết liệt, sự phối hợp thiếu đồng bộ của các cơ quan hữu quan trên địa bàn khiến việc xử lý nợ xấu, đặc biệt là việc thu giữ TSBĐ của khách hàng còn khó khăn.

  • Các công ty mua bán nợ (AMC) khác

Việc mua bán nợ được điều chỉnh bởi hệ thống các luật và văn bản dưới luật quy định. Sự hiệu quả của VAMC cũng một phần đến từ sự hiệu quả của các công ty mua, bán nợ. Nếu các đối tác là công ty mua bán nợ hoạt động mạnh mẽ, tiềm lực tài chính tốt và cùng tạo uy tín thì sẽ tạo được hiệu ứng chung trong lĩnh vực xử lý nợ.

Các công ty mua bán nợ tại Việt Nam thực sự chưa có đất để phát triển, một phần do các yếu tố pháp lý: chẳng hạn như yêu cầu về vốn điều lệ; việc xác định giá trị khoản nợ xấu còn nhiều bất cập; một số luật có có quy định trái nhau gây khó khăn khi thực hiện; thị trường chưa công khai minh bạch. Và hơn thế nữa đặc biệt các công ty mua, bán nợ còn bị mang danh “đòi nợ thuê”, các hoạt động thu hồi, đòi nợ chưa thực sự đúng quy định luật pháp, còn mang tính chất đe dọa, ép người vay thậm chí cướp tài sản của người vay dẫn đến hình ảnh rất xấu về hoạt động mua bán, thu hồi nợ trên thị trường. Một số doanh nghiệp tham gia vào thị trường mua bán nợ.

2.3. Thực trạng hiệu quả thu hồi, xử lý nợ xấu theo GTTT của VAMC Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

2.3.1. Những mặt đạt được:

Một là: VAMC luôn phấn đấu hoàn thành kế hoạch được NHNN giao. Từng bước khẳng định vị thế trên lĩnh vực hoạt động.

Năm 2023 với diễn biến phức tạp từ dịch Covid19, nền kinh tế toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng bị ảnh hưởng, VAMC đã nỗ lực thích ứng, triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm xử lý có hiệu quả nợ xấu, phấn đấu hoàn thành kế hoạch được NHNN giao.

Theo báo cáo kết quả hoạt động của năm 2023 ngày 31/12/2023, kết quả hoạt động như sau: “Các chỉ tiêu kinh doanh năm 2023 của VAMC hầu hết đều tăng trưởng cao so với năm 2022, cụ thể: hoàn thành vượt 9,06% kế hoạch doanh thu được NHNN giao (tăng 99% so với năm 2022), vượt 21,71% kế hoạch lợi nhuận năm 2023 được NHNN giao (vượt 36% kết quả năm 2022), tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu vượt 19,74% kế hoạch được NHNN giao. Mua nợ GTTT đạt 2.116 tỷ đồng,  tăng 41,32% so với năm 2022, hoàn thành 88% kế hoạch. Thu hồi xử lý nợ xấu đạt 2.960 tỷ đồng tương ứng 83% kế hoạch. Đặc biệt, các khoản nợ được mua theo GTTT và được xử lý ngay trong năm 2023 chiếm 62,4%. Trong 9.573,38 tỷ đồng VAMC đã thu hồi nợ xấu theo GTTT thì 40,3% thu hồi theo hình thức bán khoản nợ, 51,5% từ hình thức bán tài sản bảo đảm và 8,2% thu hồi bằng hình thức:

  • Đôn đốc khách hàng trả nợ, Cơ cấu nợ, Khởi kiện & thi hành án.”

Từ 2019 đến 2023, VAMC đã góp sức vào thành công của toàn ngành bằng việc triển khai mua nợ xấu theo GTTT từ các TCTD. Qua đó, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống TCTD được duy trì dưới mức 3% và có xu hướng giảm qua từng năm. Đặc biệt trong năm 2023, tỷ lệ nợ bán cho VAMC của các TCTD chiếm 21%.

Trên cơ sở ghi nhận những thành tựu đạt được của VAMC, trong 2023 VAMC được vinh dự nhận giải thưởng “Top 100 Giải thưởng Sao vàng đất việt năm 2023” do Trung ương Hội doanh nhân trẻ Việt Nam trao tặng”.

Hai là: VAMC có vai trò hỗ trợ NHNN trong hoạt động giám sát nợ. 

Trong quá trình hoạt động, các TCTD luôn có xu hướng che giấu dữ liệu nợ, xây dựng số liệu nợ đẹp để nâng cao hệ số tín nhiệm, phản ánh kết quả kinh doanh tốt và phần nào tránh né việc can thiệp vào hoạt động của NHNN. Do vậy, thực sự cần thiết có một tổ chức độc lập nhằm rà soát, hỗ trợ trong công tác quản lý và điều hành.

Việc kiểm soát nợ xấu của các TCTD khiến NHNN gặp không ít khó khăn. Thông qua VAMC, đã tách được những khoản nợ xấu khỏi hệ thống các TCTD, bao gồm cả các khoản nợ xấu hiện hữu đã được ghi nhận và cả những khoản nợ xấu đang được các TCTD che giấu. Như vậy, nợ xấu đã được xác định chính xác hơn, giúp NHNN có những biện pháp kiểm soát tốt hơn đối với hệ thống TCTD nói chung và từng TCTD nói riêng. Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Ba là: TCTD được tháo gỡ, giảm áp lực về trích lập DPRR, cải thiện năng lực tài chính, nhanh chóng thu hồi vốn, có dư địa phát triển tín dụng và thực quyền trong việc mua bán nợ xấu với VAMC.

Thực hiện việc mua bán nợ xấu với VAMC, các TCTD nhanh chóng kiểm soát nợ xấu về dưới mức tỷ lệ là 3%, đồng thời tiếp tục tăng trưởng hoạt động tín dụng. Qua đó nâng cao sự tín nhiệm của mình trên thị trường, có uy tín để huy động được nguồn vốn giá rẻ, thực hiện tốt Thông tư 11/2023 ngày 30/07/2023 của NHNN.

Bốn là: Các nguồn lực của VAMC tiếp tục được Chính phủ, NHNN quan tâm hỗ trợ và không ngừng được củng cố vững chắc.

VAMC đã được NHNN cấp đủ vốn điều lệ 5000 tỷ đồng theo Quyết định số 1699/QĐ-TTg ngày 27/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ, trong năm 2023 VAMC được cấp thêm 752 tỷ đồng. Năng lực hoạt động của VAMC ngày càng được nâng cao. Công tác kiện toàn bộ máy tổ chức, hoàn thiện mô hình hoạt động ngày càng được VAMC chú trọng thực hiện theo đúng Đề án cơ cấu lại và nâng cao năng lực của VAMC giai đoạn 2023– 2027 tại Quyết định 1058/QĐ-NHNN ngày 19/07/2019. Sau một thời gian đi vào hoạt động, các đơn vị mới được thành lập (Ban Mua và Quản lý nợ; Ban Kế hoạch và Quản lý rủi ro, Ban Đầu tư và mua bán nợ thị trường, Ban đấu giá, chi nhánh Tp.HCM, Sàn giao dịch nợ) đã khẳng định được vai trò của VAMC trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động mua và xử lý nợ nói chung và theo GTTT nói riêng, góp phần giúp VAMC hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được NHNN giao.

Năm là: VAMC tiếp tục triển khai có hiệu quả các Quy định, Thông tư, Nghị quyết, Quyết định của QH, CP và NHNN. 

Như đã trình bày, VAMC đã và đang tiếp tục thực hiện triển khai có hiệu quả các quy định, thông tư, nghị quyết, quyết định…của Quốc hội, của Chính phủ và của NHNN đề ra. Theo đề án Tái cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2023-2027, VAMC đã triển khai nhiều giải pháp để thúc đẩy hoạt động mua, bán nợ và tăng cường vai trò của VAMC trong việc xử lý nợ xấu của toàn hệ thống các TCTD. Đặc biệt, từ khi Nghị quyết 42 được ban hành với nhiều giải pháp mang tính đột phá tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của VAMC có hiệu quả, gặt hái được nhiều kết quả nổi bật và đáng ghi nhận như: Lũy kế từ 2019 đến 2023 mua nợ theo GTTT thành công 339 khoản nợ với giá mua 11.822 tỷ đồng, góp phần vào thành công của ngành ngân hàng trong giai đoạn hiện tại. Từng bước nâng cao vai trò và giá trị trên thị trường.

Sáu là: Từ kết quả đạt được, VAMC thực hiện nhiệm vụ phát triển thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam.

Bao gồm: (i) thành lập Sàn giao dịch nợ và (ii) đẩy mạnh hoạt động của CLB AMC. Sự kiện thành lập Sàn giao dịch nợ đã được Tạp chí tài chính tiền tệ bình chọn là một trọng mười dấu ấn nổi bật của Ngành ngân hàng năm 2023. Việc thành lập Sàn giao dịch đã giúp minh bạch hóa thông tin các khoản nợ xấu, TSĐB, thúc đẩy thanh khoản trên thị trường, hướng tới mục tiêu đưa VAMC trở thành trung tâm cung cấp thông tin về nợ xấu của TCTD, góp phần thúc đẩy thị trường mua bán nợ xấu tại Việt Nam. Ngoài ra, hoạt động của câu lạc bộ AMC (gồm VAMC và các AMC của các TCTD) nhằm tạo diễn đàn trao đổi, học hỏi kinh nghiệm trong công tác mua bán và xử lý nợ tiếp tục được duy trì, đẩy mạnh. Trong năm 2023, VAMC đã đầu mối tổ chức nhiều Hội nghị của câu lạc bộ AMC nhằm tổng kết hoạt động của các thành viên câu lạc bộ, đánh giá tác động của đại dịch Covid 19 đến công tác xử lý nợ và tổng hợp góp ý đối với dự thảo đề nghị xây dựng Luật xử lý nợ của các TCTD.

Đây sẽ là những bước tiến giúp hoạt động mua bán nợ xấu, cũng như thị trường mua bán nợ xấu theo GTTT trong thời gian tới sẽ được kết nối, minh bạch và hiệu quả hơn. Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Bảy là: VAMC chủ động xem xét cơ cấu nợ, giúp khách hàng tự phục hồi hoạt động và hoàn thành trả nợ.

VAMC luôn chủ động áp dụng cơ cấu nợ. Xem xét tình hình của khách hàng để so sánh với quy định, trường hợp đáp ứng sẽ tạo điều kiện cho khách hàng tự phục hồi sản xuất, kinh doanh. Trong quá trình gia hạn sẽ thực hiện giám sát dòng tiền, giám sát hoạt động để đảm bảo khả năng thu hồi nợ theo chính sách đã duyệt.

Như vậy, tóm lại VAMC đã đạt được một số các thành quả có ý nghĩa đóng góp vào hoạt động xử lý nợ xấu của toàn ngành Ngân hàng.

Truyền thông được công tác quan trọng về hoạt động xử lý nợ xấu đến các TCTD, đến các khách hàng và đồng thời đóng vai trò cầu nối giữa nhà đầu tư và các khoản nợ xấu.

Triển khai rất hiệu quả nghị quyết 42/2019/QH14 đến thị trường, đồng thời đóng góp ý kiến để hoàn thiện hơn các tồn tại, hạn chế của nghị quyết trong thời gian tới.

Thành lập Sàn giao dịch nợ, là cơ sở đầu tiên để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ xây dựng thị trường mua, bán nợ xấu tại Việt Nam trong tương lai.

Bảo toàn vốn nhà nước, đạt được chênh lệch tài chính trong hoạt động xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường. Lợi nhuận qua các năm đạt được: năm 2019: 20 tỷ đồng; năm 2020: 43 tỷ đồng; năm 2021: 75 tỷ đồng; năm 2022: 92,2 tỷ đồng và năm 2023: 125,43 tỷ đồng

2.3.2. Những hạn chế, tồn tại Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Một là: Tổng dư nợ xấu được VAMC mua theo GTTT từ các TCTD còn thấp, chưa đạt kỳ vọng. Chưa thể hiện đúng vai trò trong định hướng thành lập và hoạt động của VAMC.

Khi thị trường còn khá sơ khai, VAMC mua nợ sơ cấp từ TCTD và bán nợ thứ cấp cho nhà đầu tư thì thực tế việc bán nợ còn khá thủ công và hạn chế. Xử lý phải linh hoạt và đa đạng, nhiều thêm nữa đối tượng tham gia thị trường, nguồn lực bổ sung vào thị trường thì tính hiệu quả sẽ cao.

Theo kỳ vọng, VAMC đạt tối thiểu 20.000 tỷ giá trị mua nợ theo thị trường của “Đề án tái cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2018-2022 theo Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ và Đề án Cơ cấu lại và nâng cao năng lực của VAMC giai đoạn 2019-2022 hướng tới 2024 ban hành kèm theo Quyết định số 28/QĐ-NHNN ngày 05/01/2021 của Thống đốc NHNN”. Tuy nhiên, lũy kế đến 31/12/2023, VAMC mới mua nợ theo GTTT đạt 11.822 tỷ đồng, mới đạt 59% chỉ tiêu được giao, là tỷ lệ còn khiêm tốn.

Với kết quả như vậy thì thực sự nói VAMC chưa làm rõ được vai trò trong thị trường.

Hai là: Tận dụng nguồn lực khác để bổ sung việc mua bán và xử lý nợ xấu theo GTTT chưa hiệu quả.

Tại “Quyết định số 618/QĐ-NHNN ngày 12/04/2018 nêu rõ Nguồn vốn để mua nợ thị trường gốm: “vốn điều lệ, phát hành trái phiếu và các nguồn huy động vốn khác”

Đối với vốn điều lệ: Từ 2015 đến 2018, VAMC có vốn điều lệ đạt mức 500 tỷ đồng, được chính thức bổ sung tăng lên mức 2.000 tỷ đồng vào năm 2019 và đạt 5.000 tỷ đồng vào năm 2022 cho đến nay. Việc vốn điều lệ còn hạn chế cũng có các khó khăn cho VAMC trong hoạt động.

Đối với nguồn vốn từ phát hành trái phiếu: Điểm khác biệt giữa Trái phiếu mua nợ theo GTTT và TPĐB là được chuyển nhượng giữa NHNN với các TCTD và giữa các TCTD với nhau. Hơn nữa, các TCTD không phải trích lập dự phòng rủi ro với trái phiếu đó. Khi TCTD thực hiện tính tỷ lệ CAR, hệ số rủi ro của trái phiếu này là 0%, trong khi TPĐB là 20%. Bên cạnh đó, khi nắm giữ trái phiếu này, TCTD được tham gia các nghiệp vụ tại NHNN như: thị trường mở, tái cấp vốn. Điểm giống nhau của hai loại trái phiếu kể trên là đều cùng có mức lãi suất 0%, thời hạn của trái phiếu do VAMC và TCTD thương lượng và có thời gian tối thiểu 01 năm. Tính đến thời điểm hiện tại, VAMC vẫn chưa phát hành khoản trái phiếu nào để mua nợ thị trường, do vậy đây cũng là một hạn chế.

Đối với nguồn khác, bao gồm: (i). Vốn huy động từ tổ chức quốc tế; (ii). Nguồn vốn ủy thác. (iii). Quỹ do VAMC trích lập. (iv). Các nguồn khác. VAMC cũng chưa bổ sung được các nguồn này cho mua nợ GTTT.

Phần nào đó, sự hạn chế và yếu về vốn, việc chưa linh hoạt trong phương án huy động nguồn lực cũng phần nào ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của VAMC.

Ba là: Còn có các hạn chế trong phương án bán nợ.

Theo thống kê, các nhà đầu tư mua nợ xấu của VAMC đều đến từ trong nước. Như vậy còn chưa tận dụng được nguồn lực từ bên ngoài để hỗ trợ mua nợ GTTT.

Bốn là: Cơ cấu khoản nợ, bảo lãnh khách hàng vay để có cơ hội phục hồi sản xuất, kinh doanh chưa phổ biến. 

Dù thời gian triển khai mua nợ GTTT đã được 5 năm nhưng tỷ lệ dư nợ cơ cấu còn thấp so với tổng nợ xấu. Trong năm 2023, tỷ lệ dư nợ được cơ cấu trên tổng dư nợ xấu VAMC mua về chỉ chiếm 9%, tương ứng số lượng là 02 khách hàng. Bên cạnh đó, VAMC còn có thể áp dụng phương thức bảo lãnh khách hàng vay khi có phương án kinh doanh hiệu quả, tuy nhiên hiện VAMC mới thực hiện giải pháp chia sẻ tài sản bảo đảm chứ chưa phát sinh việc bảo lãnh này.

Cơ cấu khoản nợ, bảo lãnh khách hàng vay là phương án thiết thực, do vậy VAMC cũng cần chú trọng triển khai tốt phương án này.

Năm là: Vòng quay vốn của VAMC còn thấp 

Các nguồn lực của VAMC tiếp tục được Chính phủ, NHNN quan tâm hỗ trợ và không ngừng được củng cố vững chắc. Tháng 12/2021, VAMC mới có được thực vốn 5.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, thực tế VAMC vẫn chưa được tiếp cận nguồn vốn đủ 5.000 tỷ đồng. Do vậy, trong năm 2021 để tính vòng quay vốn mua nợ theo GTTT vẫn phải tính trên số vốn 2.000 tỷ đồng. Năm 2022 vốn thực tế VAMC được cấp là 4.248 tỷ đồng. Năm 2023, được cấp thêm 752 tỷ đồng cho thực đủ 5000 tỷ đồng. Vòng quay vốn của VAMC còn thấp (năm 2023 là 0,42 vòng, năm 2022 là 0,35 vòng, năm 2021 là 1,12 vòng). Điều này thấy rằng thực tế VAMC sử dụng vốn chưa thực sự hiệu quả.

2.2.3 Nguyên nhân của hạn chế.

Nguyên nhân chủ quan

Một là: Về mặt cơ cấu tổ chức, mặc dù đã đáp ứng được nhu cầu trong hoạt động xử lý nợ theo giá trị thị trường, tuy nhiên để đáp ứng đầy đủ chức năng trong hoạt động thì cần thiết phải có sự điều chỉnh về mô hình và chức năng, nhiệm vụ của VAMC. Trường hợp khoản nợ đáp ứng các yêu cầu của phương án thu hồi như chứng khoán hóa khoản nợ xấu, thực hiện các dịch vụ trung gian trong khâu hoạt đọng thu đòi nợ xấu, các hoạt động hỗ trợ kết nối công tác thi hành án dân sự, thực hiện các lệnh bàn giao tài sản của cơ quan Thi hành Án dân sự thì VAMC có thể được sử dụng như một bên trung gian, kết nối nhằm tháo gỡ và giải quyết các vướng mắc, thúc đẩy thời gian xử lý của khoản nợ nhằm tăng hiệu quả trong quá trình xử lý.

Hai là: về mặt nhân sự mặc dù đáp ứng tốt nhu cầu công việc, tuy nhiên hiện tại số lượng cán bộ còn ít, bên cạnh đó kinh nghiệm về mua bán sáp nhập doanh nghiệp, xử lý các dự án BĐS hay việc tái cơ cấu của khách hàng còn hạn chế. Công việc mua bán và xử lý nợ xấu là một công việc đặc thù, đặc biệt trong cách xử lý nợ xấu bằng phương thức tập trung. Để đáp ứng yêu cầu công việc, VAMC đã cử một số cán bộ đi tập huấn, đào tạo về: hoạt động định giá tài sản, đầu tư vốn để thực hiện mua cổ phần hoặc hỗ trợ tài chính cho chính khách hàng vay,… nhưng thực tế việc áp dụng kiến thức vào thực tiễn vẫn còn rất hạn chế, trình độ cán bộ còn nhiều bất cập, chưa đồng đều, kiến thức pháp lý còn thiếu và yếu.

Ba là: Công tác quản trị rủi ro cần được chú trọng và phát huy. Đến thời điểm hiện tại, Ban kế hoạch và Quản lý rủi ro (Ban 2) đã được xây dựng hoàn thiện nhằm mục đích thực hiện các nhiệm vụ: Xây dựng chiến lược, lập kế hoạch, thống kê, báo cáo, thẩm định mua nợ; Đánh giá, cảnh báo, kiểm soát rủi ro đối với hoạt động mua nợ và các hoạt động khác của VAMC; Đề xuất các biện pháp phòng ngừa thích hợp để VAMC hoạt động an toàn; Đánh giá, phân tích và đề xuất việc trích lập, sử dụng DPRR trong quá trình hoạt động của VAMC đi kèm sự kiểm soát và cảnh báo rủi ro. Đặc biệt trong phương pháp cơ cấu nợ và cảnh báo tình hình chung của các ngành nghề theo định kỳ để có cơ sở tham khảo và áp dụng trong hoạt động mua, bán và xử lý nợ.

Bốn là: Hệ thống dữ liệu của VAMC chưa có tính kết nối, tính cập nhật và thuận tiện để khai thác. Bên cạnh những thông tin về khoản nợ cập nhật được khi triển khai mua nợ, VAMC chưa thể tiếp cận trực tiếp với hệ thống của TCTD để thường xuyên bổ sung cập nhật tính mới cho khoản nợ, đặc biệt là phục vụ công tác tìm kiếm, đánh giá tiền mua nợ. Để hiệu quả, VAMC phải phân loại và dự kiến cách thức thu nợ, việc thiếu thông tin sẽ phần nào hạn chế công tác triển khai.

Nguyên nhân khách quan

Một là: Những quy định liên quan đến xử lý nợ xấu còn chưa thống nhất đồng bộ, trên thực tế còn nhiều khoảng trống. Dẫn đến việc áp dụng gặp khó khăn, cụ thể:  Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Hiện tại, VAMC đang thực hiện mua, xử lý nợ theo GTTT căn cứ theo quy định tại Thông tư 19/TT-NHNN ngày 06/09/2015 quy định về  v/v mua bán và xử lý nợ xấu  tại VAMC (thông tư 19) và Nghị quyết 42/2019/QH14 ngày 15/08/2019 về thí điểm xử lý nợ xấu (nghị quyết 42). Tại Điều 7 Nghị quyết 42/2019 của Quốc hội của quy định về quyền thu giữ tài sản. Tuy nhiên, tại Thông tư 19/2015/TT-NHNN chưa thấy quy định các nội dung liên quan đến quyền thu giữ tài sản.  Do vậy, sẽ tạo ra khoảng trống pháp lý khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực thi hành và chờ Luật hóa, không đảm bảo quyền lợi cho VAMC trong việc mua và xử lý tài sản bảo đảm nếu muốn áp dụng biện pháp thu giữ tài sản để xử lý sau khi mua khoản nợ từ TCTD.

Theo Nghị quyết 42 quy định rõ VAMC có thể mua các khoản nợ xấu đang hạch toán trong hoặc ngoài bảng cân đối kế toán của TCTD. Đồng thời theo Thông tư 11 về phân loại nhóm nợ của NHNN quy định, nợ xấu được hiểu là các khoản nợ nội bảng, đây là vướng mắc mà VAMC gặp phải trong hoạt động mua nợ xấu theo GTTT.

Điều 5 Nghị quyết 42 nêu rõ “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu bán nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu công khai, minh bạch, theo quy định của pháp luật; giá bán phù hợp với giá thị trường, có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ.” Tuy nhiên điều Điều 5: Nghị định 53/2015/NĐ-CP quy định Nguyên tắc hoạt động của VAMC: “Lấy thu bù chi và không vì mục tiêu lợi nhuận.”. Điều 8 của Thông tư 19/2015/TT-NHNN nêu rõ Nguyên tắc mua, bán nợ xấu là “Hạn chế rủi ro và chi phí trong mua, bán nợ xấu”; điểm c Điều 34: Nguyên tắc bán nợ xấu đã mua “Thu hồi tối đa khoản nợ, kể cả lãi, phí phải trả (nếu có)”. Việc thực hiện bán nợ xấu theo Nghị quyết 42 hiện nay đang tạo thuận lợi, hành lang pháp lý tốt cho VAMC trong xử lý nợ xấu theo GTTT. Do vậy nội dung này cần đưa vào sửa đổi Thông tư 19  cho phù hợp để tiếp tục được áp dụng thực hiện.

Khoản 1 Điều 6 Nghị Quyết 42 nêu rõ “Tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được mua khoản nợ xấu đang hạch toán trong, ngoài bảng cân đối kế toán của tổ chức tín dụng, trừ tổ chức tín dụng liên doanh và tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, được chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt thành khoản nợ xấu mua theo giá thị trường theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Điểm đ, Khoản 1 Điều 16 Thông tư 19/2015 quy định “Giá trị ghi sổ số dư nợ gốc của khoản nợ xấu hoặc các khoản nợ xấu của một khách hàng vay hoặc các khoản nợ xấu của một nhóm khách hàng vay theo quy định tại khoản 4 Điều 8 Thông tư này vào thời điểm bán nợ không thấp hơn 3 tỷ đồng đối với nhóm khách hàng vay và khách hàng vay là tổ chức; không thấp hơn 1 tỷ đồng đối với khách hàng vay là cá nhân hoặc mức khác do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định”. Theo quy định Nghị quyết 42, đối tượng mua nợ là các khoản nợ ngoại bảng và không quy định giới hạn số dư khoản nợ sẽ giúp cho nguồn hàng VAMC thẩm định mua nợ được đa dạng.

Như vậy việc quy định hiện tại của Thông tư 19 sẽ làmVAMC hạn chế đối tượng mua nợ khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực.

Hai là: TCTD cũng chú trọng công tác tự xử lý, tìm kiếm lợi nhuận trong việc thu hồi nợ xấu nên biện pháp xử lý nợ là bán nợ theo GTTT cho VAMC cũng chưa được TCTD ưu tiên thực hiện. Do đó, quá trình đàm phán với các TCTD không đạt được thỏa thuận như ban đầu.

  • Ba là: Những năm vừa qua dịch covid 19 đã có tác động mạnh đến nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp lên hoạt động của VAMC.

Vì tình hình dịch bệnh khó khăn, việc thực hiện giãn cách trên phạm vi rộng từ tháng 6/2023 để phòng chống dịch Covid 19 đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC, việc tiếp cận và thẩm định khách hàng trở nên khó khăn hơn. Việc triển khai khảo sát khoản nợ, TSĐB, làm việc với khách hàng hay TCTD, định giá, đấu giá tài sản gần như bị đình trệ hoàn toàn dẫn tới không đạt được kết quả trong thời gian này.

  • Bốn là: Mua, bán và xử lý nợ xấu chưa được Luật hóa, còn đang trong giai đoạn thí điểm. Các quy định liên quan chưa có sự đồng bộ, chưa có sự cập nhật và giải quyết trọn vẹn các vấn đề thực tiễn. 

Mua, bán và xử lý nợ xấu chưa được Luật hóa. Thời điểm Nghị quyết 42 được ban hành, khung pháp lý về việc mua, bán và xử lý nợ xấu cơ bản xoay quanh nó và được thực hiện thí điểm trong thời gian Nghị quyết 42 còn hiệu lực, bên cạnh đó còn rất nhiều các bộ luật, quy định khác nhau cùng tham gia điều chỉnh liên quan đến hoạt động trên, ví dụ: Luật các tổ chức tín dụng, Luật đất đai, Luật nhà ở, Thông tư 19…và các điều kiện khác khi thực hiện.

Khi áp dụng xử lý nghiệp vụ đối với từng biện pháp VAMC còn nhiều vấn đề vướng mắc ví dụ như quy định ai cũng được tham gia mua khoản nợ, không yêu cầu có chức năng mua nợ nhưng khi xử lý các tài sản thì phải yêu cầu đáp ứng các điều kiện về ngành nghề kinh doanh…. Trên thực tế, Nghị quyết số 42 cũng chỉ là văn bản dưới luật, thực hiện thí điểm có thời hạn 05 năm kể từ năm 2019, vừa qua đã được gia hạn hiệu lực đến 31/12/2025. Do đó, cần phải có tính cập nhật, thực tiễn và đồng bộ của Luật, các văn bản trong hoạt động thì mới đạt hiệu quả trong công tác xử lý.

Trong khi, hoạt động mua bán, xử lý nợ xấu nói chung và hoạt động mua bán, xử lý nợ xấu theo GTTT của VAMC nói riêng muốn thực sự hiệu quả thì các quy định của Nghị quyết 42 và các nội dung liên quan đến xử lý nợ xấu hiện đang nằm rải rác tại nhiều quy định pháp luật khác nhau như hiện nay cần phải được luật hóa thành một đạo luật cụ thể để tạo điều kiện cho quá trình xử lý nợ xấu được diễn ra thuận lợi, nhanh chóng, thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia.

  • Năm là: Người mua nợ còn bị hạn chế quyền về biện pháp bảo đảm tiền vay đối với loại bất động sản. Gây khó khăn việc bảo đảm quyền lợi cho người mua nợ từ VAMC. Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Theo Nghị quyết 42, đối với các khoản nợ xấu tại các TCTD, nếu TSBĐ của khoản nợ đó là bất động sản thì bên mua khoản nợ được quyền nhận thế chấp, đăng ký thế chấp tài sản đó; được tiếp tục kế thừa quyền và nghĩa vụ của bên nhận thế chấp. Tuy nhiên, theo Luật Đất đai 2015 có quy định: Chỉ TCTD mới được quyền nhận thế chấp QSDĐ, tài sản gắn liền với đất. Như vậy sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền về biện pháp bảm đảm tiền vay đối với loại tài sản là bất động sản, gây khó khăn việc bảo đảm quyền lợi người mua nợ từ VAMC.

Cùng đó, Nghị quyết 42 có quy định rằng chỉ các tổ chức mua, bán và xử lý nợ xấu mới được đăng ký thế chấp khi nhận bổ sung TSBĐ là bất động sản của khoản nợ đã mua. Việc người mua nợ không được hưởng quyền tương tự như VAMC sẽ khiến các nhà đầu tư gặp rủi ro và thiếu biện pháp bảo đảm trong trường hợp mua khoản nợ.

  • Sáu là: Về việc đăng ký thay đổi bên nhận thế chấp còn nhiều bất cập, chưa có sự thống nhất cách hiểu của văn bản hướng dẫn.

Nghị định 53 của Chính phủ đã đề cập đến việc VAMC trở thành bên nhận bảo đảm, đồng thời được thực hiện việc đăng ký GDBĐ dựa trên HĐMBN xấu mà không phải ký lại HĐBĐ với bên bảo đảm.

Thông tư 07 của Bộ Tư pháp và Nghị định 99 của Chính phủ có quy định: Để thay đổi nội dung thế chấp, có thể cung cấp các hồ sơ sau: (i) Hợp đồng sửa đổi, bổ sung HĐTC hoặc phụ lục hợp đồng về việc thay đổi; (ii) Hợp đồng mua bán nợ hoặc văn bản khác chứng minh mua bán nợ; (iii) Hợp đồng hoặc văn bản khác về việc chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ theo quy định của Pháp luật. Trường hợp các cá nhân mua nợ cũng không được nêu cách thức đăng ký thay đổi bên nhận thế chấp và đồng thời còn vướng với các quy định khác.

Thực tế cho thấy, có nhiều địa phương chưa tiếp nhận nhận hồ sơ đề nghị của VAMC vì chưa có tiền lệ đăng ký thay đổi bên nhận thế chấp sau khi mua nợ. Gây khó khăn trong việc hoàn thiện thủ tục theo quy trình mua nợ của VAMC.

  • Bảy là: Chưa có chính sách bán cụ thể về việc bán nợ cho nhà đầu tư nước ngoài. 

Điểm b Khoản 2 Điều 4a Thông tư 19/2015/TT-NHNN quy định “Bên mua nợ là người không cư trú sử dụng tài khoản thanh toán bằng ngoại tệ mở tại ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam hoặc tài khoản ngoại tệ của bên mua nợ tại nước ngoài để thực hiện thanh toán cho Công ty Quản lý tài sản tiền mua nợ và các chi phí liên quan theo hợp đồng mua, bán nợ đối với trường hợp sử dụng đồng tiền mua nợ là ngoại tệ”. 

Theo Nghị định 69 của Chính phủ, hoạt động kinh doanh liên quan đến việc mua, bán và xử lý nợ đã được đưa ra khỏi các danh mục các ngành nghề hoạt động kinh doanh có điều kiện. Do vậy, cần có các hướng dẫn, quy định để việc hiểu rõ, tiếp cận đối tác mua nợ; quyết định bán nợ được rõ ràng, thống nhất: khuyến khích cá nhân/doanh nghiệp trong và ngoài nước cùng tham gia hoạt động mua, bán nợ.

  • Tám là: việc định giá khoản nợ cần phải được quy định rõ ràng, có căn cứ áp dụng và triển khai thống nhất, đồng bộ.

Khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 42 quy định “Tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được thỏa thuận với TCTD quy định tại khoản 1 Điều này mua khoản nợ xấu với giá mua bằng giá trị định giá của tổ chức định giá độc lập…”.

Thực tế hiện nay, các doanh nghiệp thẩm định giá vẫn chưa có hành lang pháp lý cụ thể, thống nhất, các tiêu chuẩn để định giá. Do đó, việc xác định giá trị khoản nợ còn thiếu tính thống nhất, chưa chính xác và còn nhiều bất cập. Điều này làm ảnh hưởng tới căn cứ xem xét khi quyết định mua, bán và xử lý khoản nợ.

  • Chín là: Thu giữ TSBĐ còn khó khăn, phát sinh nhiều vướng mắc:

Tổ chức mua, bán và xử lý nợ xấu có quyền thu giữ TSĐB của khoản nợ xấu (Nghị quyết 42) đi cùng với Quyết định 9018 của Bộ Công An về việc đảm bảo an ninh trật tự trong quá trình thu giữ TSBĐ theo Nghị quyết 42. Tuy nhiên, trên thực tế, theo phản ánh của các TCTD, phương thức thu giữ TSBĐ chỉ thành công khi khách hàng hợp tác, hoặc trong một số trường hợp nhất định như: khách hàng trốn khỏi địa phương mà TSBĐ liên quan không có tranh chấp, hoặc TSBĐ là đất trống…, nếu khách hàng chống đối thì sẽ không đạt được kết quả. Nguyên nhân của việc thu giữ không đạt hiệu quả trong các trường hợp nêu trên là do trên thực tế, nhiều cơ quan công an, cơ quan chức năng tại địa phương chưa thực sự hỗ trợ TCTD thực hiện thu giữ hoặc chỉ dừng lại ở việc bảm đảm an ninh, trật tự cho việc thực hiện thu giữ. VAMC, TCTD lại không có lực lượng chuyên trách để thực hiện các công việc này nên dẫn tới xử lý kéo dài và không hiệu quả. Bên cạnh đó, một số khoản nợ không có điều khoản rằng TCTD được phép thu giữ, xử lý TSBĐ khi khách hàng vi phạm hợp đồng, do đó xảy ra vướng mắc, không được phép thu giữ tài sản trong quá trình xử lý khoản nợ. Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

  • Mười là: Từ TCTD. 

Trong quá trình hoạt động, mục đích của TCTD và VAMC thường là khác nhau. Đối với TCTD, mục đích của TCTD là tối đa hóa lợi nhuận. Đối với VAMC, đích đến là xử lý khoản nợ một cách nhanh chóng, dứt điểm và song song bảo toàn vốn. Do vậy sẽ có trường hợp thỏa thuận của VAMC và TCTD không có điểm chung khi cùng tham gia xử lý một khoản nợ, điều này ảnh hưởng đến tính hiệu quả trong hoạt động tại VAMC.

  • Mười một là: Từ khách hàng

Các khoản nợ xấu phát sinh thì hoạt động SXKD của khách hàng thường cầm chừng, hoặc dừng hoạt động, rất ít trường hợp khách hàng có phương án SXKD khả thi, không chứng minh được nguồn vốn đối ứng để tiếp tục thực hiện dự án, hoặc là không còn TSĐB để bổ sung cho VAMC. Do vậy, dù rất muốn hỗ trợ khách hàng nhưng vì khách hàng không đáp ứng được các điều kiện của VAMC về việc cơ cấu khoản nợ. Vì thế tỷ lệ khách hàng được cơ cấu nợ còn rất thấp ở VAMC.

  • Kết luận chương 2

Chương 2, tác giả đã khái quát tổng quan về VAMC và thực trạng hiệu quả trong xử nợ xấu theo GTTT tại VAMC trong giai đoạn 2019 – 2023. Các chỉ số, chỉ tiêu nêu trong chương 2 được lấy làm cơ sở để phân tích, đánh giá và cho biết tác động, ảnh hưởng đến hiệu quả trong hoạt động của VAMC. Luận văn: Thực trạng hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường.

Ngoài kết quả đã đạt được của VAMC, từ các thực trạng, tác giả cũng đã đánh giá được các tồn tại, hạn chế tác động đến tính hiệu quả trong xử lý nợ xấu theo GTTT, xác định được một số nguyên nhân của nó. Đồng thời, trong chương tiếp theo sẽ trình bày về giải pháp nâng cao hiệu quả trong xử lý nợ xấu theo GTTT tại VAMC.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:

===>>> Luận văn: Giải pháp hiệu quả xử lý nợ xấu theo giá trị thị trường

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0972114537