Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: cơ sở thực tiễn về quản lý hoạt động đào tạo nghề Ở trung tâm bảo trợ người tàn tật thành Phố Hồ Chí Minh dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Khái quát về Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh

Từ ngày 07-8-1998, Trung tâm Bảo trợ – Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh) được thành lập theo Quyết định số 4060/QĐ-UB-VX của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Quyết định bổ sung nhiệm vụ cho Trung tâm số 1743/QĐ-UB ngày 9-5-2016 của Ủy ban nhân dân Thành phố. Theo đó, Trung tâm có chức năng, nhiệm vụ:

Một là, tổ chức dạy nghề và tư vấn hướng nghiệp cho người khuyết tật. Hai là, tổ chức lao động sản xuất gắn với công tác dạy nghề để tạo việc làm cho người khuyết tật. Phối hợp với các ban (ngành), quận (huyện), các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, các trung tâm dịch vụ việc làm trên địa bàn Thành phố để giới thiệu và giải quyết việc làm cho người khuyết tật.

Ba là, hỗ trợ các tổ nhóm, cơ sở sản xuất của người khuyết tật trong việc xin thành lập, tạo nguồn vốn, nguồn hàng gia công, nơi tiêu thụ sản phẩm theo quy định của Nhà nước.

Bốn là, hỗ trợ nơi ăn, ở cho người khuyết tật có hoàn cảnh gia đình khó khăn, neo đơn trong thời gian học nghề tại Trung tâm.

Năm là, tổ chức giảng dạy chương trình xóa mù chữ, bổ túc tiểu học, bổ túc trung học cơ sở và trung học phổ thông cho người khuyết tật theo đúng chương trình của Bộ Giáo dục – Đào tạo ban hành và sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Giáo dục – Đào tạo Thành phố.

  • Hình 2.1: Sơ đồ tổ chức Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh

Trong 03 năm gần đây (2023, 2024, 2025), Trung tâm đã thực hiện tốt kế hoạch, chương trình công tác được Thành phố và Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh giao. Kết quả đạt được về công tác đào tạo nghề cho người khuyết tật đều vượt mức so với kế hoạch đề ra, từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc. Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch năm 2023 đạt 120,4%, năm 2024 đạt 141% và năm 2025 đạt 134,4%. Qua đó, xây dựng niềm tin, tư vấn, xác định được nghề nghiệp phù hợp và tìm được việc làm ổn định cho người khuyết tật, giúp họ hòa nhập cuộc sống một cách thuận lợi nhất.

Đội ngũ cán bộ quản lý của Trung tâm tuy có nhiều biến động, nhưng cũng sớm đi vào ổn định, bắt tay vào công việc một cách nhịp nhàng, đồng bộ và đã được tăng cường về số lượng cũng như chất lượng phù hợp yêu cầu phát triển.

Đội ngũ giáo viên dạy nghề gắn bó lâu năm với đơn vị, có tâm huyết và nhiều kinh nghiệm trong dạy nghề cho người khuyết tật; song họ không đủ điều kiện để vào biên chế hoặc họ đã là biên chế của một đơn vị khác, nên toàn bộ giáo viên dạy nghề là giáo viên thỉnh giảng.

Từng bước Trung tâm đã và đang mở rộng thêm các ngành, nghề, nhằm giúp người khuyết tật có điều kiện tìm được việc làm ổn định, hòa nhập tốt với cộng đồng xã hội.

Bên cạnh những thành công, Trung tâm vẫn còn một số mặt hạn chế, như:

  • Việc triển khai các văn bản về chính sách hỗ trợ dạy nghề của Nhà nước đối với người khuyết tật chưa đồng bộ.
  • Đặc điểm của người khuyết tật về sức khỏe, dạng tật, tâm sinh lý, hoàn cảnh kinh tế gia đình có nhiều ảnh hưởng, làm hạn chế đến sự phát triển số lượng và chất lượng dạy nghề.

2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động đào tạo nghề của Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

2.2.1. Chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý

Hiệu quả quản lý hoạt động đào tạo nghề cho học viên khuyết tật của Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh trước hết được quy định bởi chất lượng của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý của Trung tâm. Bởi lẽ, họ vừa là chủ thể, vừa là khách thể quản lý.

Đội ngũ giáo viên của Trung tâm nếu có kiến thức chuyên môn sâu rộng, tay nghề cao, khả năng sư phạm tốt và có tư duy khoa học sáng tạo, sẽ giúp họ thực hiện tốt chức năng giảng dạy, tổ chức các hình thức dạy học, trực tiếp góp phần hình thành ở học viên kiến thức vững vàng, năng lực tự học và khả năng thích ứng tốt với công việc. Bên cạnh yêu cầu trình độ chuyên môn nghiệp vụ phải đạt chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định, thì giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật cần phải có thêm kiến thức cơ bản về tâm lý – giáo dục, năng lực giao tiếp đa dạng (như ngôn ngữ giao tiếp bình thường, ngôn ngữ ký hiệu, ngôn ngữ cơ thể,…), để họ có thể tiếp cận với người khuyết tật một cách dễ dàng, không bị xa cách.

Số lượng giáo viên trên tổng số học viên cũng ảnh hưởng rất lớn đến công tác đào tạo. Để quá trình đào tạo đạt chất lượng cao nhất, phải đảm bảo tỷ lệ giáo viên và học viên phù hợp; đảm bảo số giờ dạy chuẩn của giáo viên và tổ chức tốt quá trình nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ giáo viên. Một cơ sở đào tạo có đội ngũ giáo viên tốt, thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ của nghề đào tạo, có phương pháp sư phạm tốt, am hiểu tâm lý người khuyết tật, sẽ là tài sản vô giá giúp cho sự tồn tại và phát triển bền vững của đơn vị.

Bên cạnh đó, một ngôi trường hoạt động hiệu quả không thể thiếu người quản lý; vì vậy, phẩm chất, năng lực của họ đóng góp rất quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường. Người quản lý biết tổ chức xây dựng một chương trình đào tạo hợp lý, phát huy tối đa khả năng của giáo viên, có sự đầu tư về cơ sở vật chất đúng nơi, đúng lúc, nắm được thực lực của đơn vị để khắc phục những khó khăn, biết cách làm cho bộ máy hoạt động nhịp nhàng và hiệu quả, sẽ là yếu tố quyết định đến hiệu quả quản lý của Trung tâm.

2.2.2. Chương trình – giáo trình của Trung tâm Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

2.2.2.1. Chương trình

Theo Từ điển Giáo dục học, chương trình đào tạo được hiểu là: “Văn bản chính thức quy định mục đích, mục tiêu, yêu cầu, nội dung kiến thức và kỹ năng, cấu trúc tổng thể các bộ môn, kế hoạch lên lớp và thực tập theo từng năm học, tỷ lệ giữa các bộ môn, giữa lý thuyết và thực hành, quy định phương thức và phương pháp, phương tiện, cơ sở vật chất, chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp của cơ sở giáo dục và đào tạo”.

Tyler (1949) cho rằng: Chương trình đào tạo về cấu trúc phải có 4 phần cơ bản:

  1. Mục tiêu đào tạo.
  2. Nội dung đào tạo.
  3. Phương pháp hay quy trình đào tạo.
  4. Cách đánh giá kết quả đào tạo.

Như vậy, chương trình đào tạo không chỉ phản ánh nội dung đào tạo mà là một văn bản hay bản thiết kế thể hiện tổng thể các thành phần của quá trình đào tạo, điều kiện, cách thức, quy trình tổ chức, đánh giá các hoạt động đào tạo để đạt được mục tiêu đào tạo.

  • Phân loại chương trình đào tạo:

Chương trình môn học: là loại chương trình đào tạo mà cấu trúc, nội dung cơ bản được xây dựng hay thiết kế chủ yếu từ các môn học theo lĩnh vực khoa học tự nhiên, xã hội – nhân văn, khoa học công nghệ,… Thông thường, các chương trình chuyên môn sử dụng theo học chế năm học; giáo dục đại học là theo từng năm đào tạo. Chương trình môn học có thể được thiết kế theo các học phần, đơn vị học trình hoặc theo hệ thống tín chỉ với quá trình mô-đun hóa các nội dung đào tạo.

  • Ưu điểm:

Bảo đảm tính logic của hệ thống kiến thức, kỹ năng của từng phần học hoặc môn học.

Mục tiêu đào tạo toàn diện và được thực hiện thông qua từng môn học, khối môn học và mối liên hệ giữa chúng.

Dễ xây dựng và điều chỉnh chương trình do đã có nhiều kinh nghiệm dạy – học và tài liệu tham khảo.

  • Nhược điểm: Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

Thời gian học kéo dài, nặng lý thuyết và theo đơn mục tiêu (môn học) không thuận tiện cho người học cũng như nhu cầu thực tế và nhân lực ngoài xã hội.

Các kiến thức khoa học cơ bản và kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp bị tách rời theo môn học, phần học, nên không thuận lợi cho quá trình hình thành năng lực nghề nghiệp.

Khó liên thông giữa các bậc, loại hình đào tạo, gây lãng phí nhiều thời gian đào tạo.

Chương trình mô-đun: Một trong những phương hướng đáng chú ý trong quá trình nghiên cứu phát triển chương trình đào tạo là nghiên cứu thiết kế các chương trình đào tạo theo mô-đun. Đây là chương trình đào tạo được xác lập trên cơ sở lựa chọn và tổ hợp các mô-đun đào tạo. Mô-đun là một đơn vị học tập trọn vẹn, trong đó tổ hợp các kiến thức kỹ năng liên quan cùng các chỉ dẫn, quy trình cụ thể để tạo ra một trình độ nhận thức hay năng lực chuyên môn nhất định.

Mô-đun có tính độc lập tương đối và do đó tạo khả năng thiết kế các chương trình đào tạo mềm dẻo và có tính linh hoạt cao. Với quan điểm đào tạo theo năng lực thực hiện, mô-đun học tập trong chương trình đào tạo kỹ năng hành nghề (MES) có các đặc điểm sau:

Hướng vào mục tiêu thực hiện/ thực hành; tạo cho học viên khả năng, năng lực thực hiện công việc (hay năng lực hành nghề) sau khi hoàn thành mô-đun tương ứng.

Bao quát trọn vẹn một vấn đề, thể hiện tính độc lập tương đối của từng mô-đun trong chương trình đào tạo và giải quyết một vấn đề trong lao động, nghề nghiệp.

Tích hợp nội dung lý thuyết và thực hành trong một mô-đun.

Đào tạo theo nhịp độ người học. Thể hiện khả năng cá nhân hóa người học trong quá trình đào tạo. Người học có thể lựa chọn khối lượng, tốc độ học tập theo nguyện vọng và khả năng của mình.

Thực hiện đánh giá liên tục và hiệu quả. Thực hiện đánh giá trước, trong và sau khi kết thúc quá trình học tập của từng mô-đun bằng nhiều hình thức và kỹ thuật khác nhau.

Có khả năng lắp ghép đa dạng và phát triển, đáp ứng với nhu cầu thay đổi của kỹ thuật, công nghệ, tổ chức sản xuất và thị trường lao động do có khả năng lựa chọn hoặc thay đổi mô-đun thích ứng.

Nhằm đáp ứng nhu cầu tìm việc làm cho người khuyết tật, Trung tâm đã áp dụng chương trình dạy nghề theo mô-đun. Với chương trình này, tùy theo trình độ, sức khỏe và dạng tật của mình mà người khuyết tật có thể lựa chọn khối lượng mô-đun, tốc độ học cho phù hợp. Người khuyết tật có khả năng thực hiện từng động tác một cách độc lập tương ứng với khả năng lao động của từng dạng tật. Đồng thời, trong quá trình học nghề tại Trung tâm, học viên có thể tham gia lao động sản xuất, rèn luyện kỹ năng thực hành ở từng mô-đun nghề tại Xưởng lao động hòa nhập cho người khuyết tật nặng (ESAT) của Trung tâm, các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp. Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

Đào tạo theo năng lực thực hiện (Competence based Trainning):

  • Ưu điểm:

Người học được coi là hoàn thành chương trình đào tạo khi chứng tỏ là đã thông thạo tất cả các năng lực thực hiện quy định trong chương trình, không phụ thuộc vào thời lượng học tập.

Người học có thể học theo năng lực và nhịp độ riêng của từng cá nhân. Vì vậy, người học có thể nhập học và kết thúc quá trình học tập ở các thời điểm khác nhau.

Bằng cấp, chứng chỉ của người học được thể hiện đầy đủ nội dung và kết quả học tập theo chương trình tạo cơ sở để chuyển đổi, liên thông với những chương trình có liên quan ở trình độ cao hơn.

Quá trình đào tạo chú trọng hình thành năng lực thực hiện (các công việc, nhiệm vụ chuyên môn của nghề) theo các chuẩn mực, tiêu chuẩn hành nghề đặt ra.

Xu hướng của chương trình đào tạo là: hướng tới người học, liên thông, linh hoạt và mở, hình thành năng lực hành nghề cụ thể.

Tuy nhiên, đào tạo theo mô hình này cũng có một số hạn chế:

  • Người học khó thích ứng nhanh với thay đổi của công việc trong lao động nghề nghiệp, do đào tạo hướng sâu vào một hoặc vài công việc cụ thể.
  • Phải có điều kiện (trang thiết bị, vật liệu, tài liệu kỹ thuật,…) và môi trường gắn đào tạo với việc làm trực tiếp.
  • Tổ chức đào tạo phức tạp, do chương trình đào tạo linh hoạt và tính cá nhân hóa cao.

Đây cũng là loại hình đào tạo được Trung tâm áp dụng cho phù hợp với đối tượng khuyết tật; vì người khuyết tật có trình độ văn hóa, sức khỏe và dạng tật khác nhau nên sự tiếp thu kiến thức, kỹ năng và thời gian đào tạo cũng khác nhau. Do vậy, giáo viên thường phải dạy tỉ mỉ, chi tiết, sử dụng biện pháp cầm tay uốn nắn thực hiện các thao tác theo thói quen, bám sát từng học viên khuyết tật khác nhau và điều quan trọng hơn nữa là cần quan sát thể lực và tâm lý của họ để kịp thời nắm bắt tình hình sức khỏe, có biện pháp dạy phù hợp. Chính vì thế mà tỷ lệ tốt nghiệp hàng năm chỉ đạt ở mức 45,51%.

Nội dung, chương trình đào tạo là tập hợp hệ thống các kiến thức về văn hóa – xã hội, khoa học – công nghệ, các chuẩn mực thái độ – nhân cách, các kỹ năng lao động chung và chuyên biệt cần thiết để hình thành phẩm chất và năng lực nghề nghiệp phù hợp với một loại hình lao động nghề nghiệp cụ thể. Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

Đây là yếu tố rất quan trọng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động đào tạo nghề của một trường. Nội dung, chương trình đào tạo tốt phải đảm bảo được sự cân đối giữa lý thuyết và thực hành; các môn học có thời lượng phân bổ hợp lý và phải có sự hỗ trợ tương đối với nhau, kết quả cuối cùng phải hình thành được kiến thức, kỹ năng và thái độ tốt cho học viên.

Tuy nhiên, hiện nay chưa có chương trình riêng về đào tạo nghề cho đối tượng đặc thù; chính vì thế, Trung tâm phải tự thiết kế, bổ sung và phát triển hằng năm.

Mỗi mô hình có những ưu điểm và lợi thế riêng, nhưng quy trình của nó thường bắt đầu từ việc đánh giá nhu cầu và xác nhận mục tiêu (từ tổng quát đến cụ thể); kế tiếp là giai đoạn biên soạn, thực hiện, đánh giá và hiệu chỉnh môn học hay chương trình học.

Hình 2.2: Quy trình biên soạn cơ bản

2.2.2.2. Giáo trình, tài liệu giảng dạy

Đây chính là phần kiến thức, thông tin mà giáo viên cần truyền đạt; hay nói cách khác, đây chính là những chất liệu có tác dụng làm thay đổi phần “chất” của học viên. Giáo trình, tài liệu giảng dạy là điều kiện hết sức quan trọng đối với một nhà trường, góp phần tích cực cho việc tự học của học viên.

Lượng kiến thức càng dồi dào, thông tin càng phong phú, mới mẻ, thì phần “chất” của người lao động càng giá trị. Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, tri thức trở thành nguồn vốn quý giá nhất và khối lượng thông tin tăng lên nhanh chóng. Vì vậy, phải thường xuyên cập nhật kiến thức là công việc không thể thiếu của người giáo viên trong giai đoạn bùng nổ thông tin như hiện nay.

2.2.3. Cơ sở vật chất

Phương tiện giảng dạy: là những đối tượng mang nội dung dạy học, được sử dụng trực tiếp vào quá trình dạy học để chuyển biến nội dung hướng đến mục tiêu dạy học.

Dạy học là một quá trình truyền thông bao gồm sự lựa chọn, sắp xếp và phân phối thông tin trong một môi trường sư phạm thích hợp; sự tương tác giữa học viên và các thông tin. Trong bất kỳ tình huống dạy học nào cũng có một thông điệp được truyền đi; thông điệp đó thường là nội dung của chủ đề được dạy, cũng có thể là các câu hỏi về nội dung cho người học, các phản hồi từ người dạy đến người học về nhận xét, đánh giá các câu trả lời hay các thông tin khác. Trong mối quan hệ giữa các thành phần tham gia quá trình dạy học, phương tiện chở thông điệp từ giáo viên theo một phương pháp giảng dạy nào đó. Phương tiện có thể đóng nhiều vai trò trong quá trình đào tạo. Các phương tiện dạy học thay thế cho những sự vật, hiện tượng và các quá trình xảy ra trong thực tiễn mà giáo viên và học viên không thể tiếp cận trực tiếp được. Chúng giúp cho giáo viên phát huy tất cả các  giác quan của học viên trong quá trình truyền thụ kiến thức, do đó giúp cho học viên nhận biết được quan hệ giữa các hiện tượng và tái hiện được những khái niệm, quy luật, làm cơ sở cho việc đúc rút kinh nghiệm và áp dụng kiến thức đã tạo vào thực tế sản xuất. Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

  • Hình 2.3: Sơ đồ mối quan hệ giữa thông điệp và phương tiện, phương tiện chở thông điệp đi (Phương tiện dạy học, Tô Xuân Giáp)

Phương tiện dạy học đóng vai trò rất quan trọng trong giáo dục các học viên khuyết tật. Học viên bị khuyết tật cần có sự hỗ trợ các phương tiện giáo dục đặc biệt như: chữ nổi, sách nói, ngôn ngữ khiếm thính, giáo cụ trực quan,…

Ngoài những phương tiện trên, thực tế ở Trung tâm hiện nay còn cho thấy việc giảng dạy bằng giáo án điện tử sẽ giúp học viên dễ tiếp thu bài hơn (đặc biệt phù hợp với học viên khiếm thính), thuận lợi hơn trong việc học tập đối với những tật chi trên (tay bị liệt, gồng cứng, không phải ghi chép sẽ tập trung vào bài giảng nhiều hơn).

Máy móc, trang thiết bị thực hành: Trang thiết bị thực hành cũng là một trong những yếu tố rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của một cơ sở đào tạo, đặc biệt là các cơ sở đào tạo thuộc lĩnh vực kỹ thuật. Trang thiết bị lạc hậu, không đủ hoặc không phù hợp sẽ là trở ngại rất lớn cho việc giảng dạy cũng như học tập, rèn luyện kỹ năng nghề. Để đào tạo ra đội ngũ lao động có kỹ năng nghề vững chắc, thì các cơ sở đào tạo nghề phải luôn đầu tư cơ sở vật chất, cập nhật, đổi mới trang thiết bị thực hành.

Nhằm tạo điều kiện để học viên khuyết tật tiếp cận cơ sở vật chất, máy móc, trang thiết bị thực hành một cách tốt nhất, giáo viên cần phải nghiên cứu chế tạo thiết bị dạy học tự làm góp phần tạo thêm cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp với từng dạng tật.

2.3. Thực trạng quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh

2.3.1. Thực trạng hoạt động đào tạo nghề

Công tác đào tạo nghề gắn với tổ chức việc làm cho người khuyết tật là hoạt động trọng tâm của Trung tâm. Trong những năm qua, Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến công tác tư vấn – định hướng nghề nghiệp, dạy nghề gắn với giới thiệu việc làm, nhằm giúp học viên khuyết tật lựa chọn được ngành học, công việc phù hợp với sở thích, trình độ và sức khỏe của bản thân. Qua đó, giúp học viên khuyết tật có thể tiếp thu kiến thức, kỹ năng nghề một cách thành thạo. Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

Trung tâm luôn chú trọng phát triển đào tạo các ngành nghề phù hợp đặc điểm của người khuyết tật và nhu cầu việc làm của học viên sau khi mãn khoá học, như các nghề thiết kế quảng cáo, sửa chữa điện thoại di động, tin học… ; cải tạo phòng ốc, đầu tư trang thiết bị, dụng cụ dạy nghề, nên chương trình đào tạo ngày càng mở rộng và chuyên sâu. Đến nay, Trung tâm đã tự đào tạo được 16 nghề khác nhau đáp ứng nhu cầu của người học nghề, đó là: Cắt/uốn tóc nam – nữ; Trang điểm thẩm mỹ – Chải bới; Kỹ thuật làm móng; Chăm sóc da mặt – Nối mi; Cắm hoa; Thêu – Kết cườm; May dân dụng – May công nghiệp; Hội họa; Điện tử dân dụng; Điện dân dụng – Điện công nghiệp; Sửa chữa xe gắn máy; In lụa; Tin học (Tin học văn phòng, Thiết kế đồ họa); Thiết kế quảng cáo; Sửa chữa điện thoại di động; Quản trị mạng (Thiết kế website, lắp ráp cài đặt máy tính).

Đội ngũ giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, tận tâm, yêu nghề và thường xuyên được tập huấn nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, ngôn ngữ và tâm lý giao tiếp với người khuyết tật.

Qua 14 năm hoạt động (1999 – 2025), Trung tâm đã đào tạo nghề cho 10.371 lượt học viên khuyết tật. Kết quả đào tạo nghề qua các năm như sau:

Năm 1999 110 lượt học viên;
Năm 2013 230 lượt học viên;
Năm 2014 195 lượt học viên;
Năm 2015 319 lượt học viên;
Năm 2016 318 lượt học viên;
Năm 2017 636 lượt học viên;
Năm 2018 762 lượt học viên;
Năm 2019 847 lượt học viên;
Năm 2020 1.034 lượt học viên;
Năm 2021 1.040 lượt học viên;
Năm 2022 1.056 lượt học viên;
Năm 2023 1.225 lượt học viên;
Năm 2024 1.295 lượt học viên;
Năm 2025 1.304 lượt học viên.

Hoạt động đào tạo nghề của Trung tâm luôn đã chú trọng gắn lý thuyết với thực hành, gắn dạy nghề với tổ chức giải quyết việc làm cho người khuyết tật sau khi tốt nghiệp các khóa học. Tỷ lệ học viên người khuyết tật học nghề tại Trung tâm tốt nghiệp tìm được việc làm ổn định so với chỉ tiêu kế hoạch (trong thời gian: 1999 – 2017 đạt gần 53%; 2018 – 2022 đạt gần 60%; năm 2023 đạt 100,3%; năm 2024 đạt 127,5%; năm 2025 đạt 131,2%.

2.3.2. Thực trạng quản lý hoạt động đào tạo nghề Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

Một là, quản lý về mục tiêu đào tạo, chương trình, nội dung đào tạo Trong quá trình hình thành và phát triển, Trung tâm đã xác định rõ mục tiêu của đơn vị trong từng giai đoạn. Tuy nhiên, so với sự biến động nhanh chóng của xã hội hiện nay thì mục tiêu đào tạo của Trung tâm vẫn còn chậm đổi mới, nhiều mặt còn thiếu tính thống nhất giữa đáp ứng nhu cầu “chuẩn hóa” giáo viên và cán bộ quản lý với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phù hợp với đối tượng phục vụ là người khuyết tật.

Hiện nay, nội dung, chương trình khung đào tạo nghề cho người khuyết tật chưa có, Trung tâm phải bám sát mục tiêu, yêu cầu đào tạo để tự thiết kế, bổ sung và phát triển hàng năm sao cho phù hợp với đối tượng là người khuyết tật. Quản lý nội dung, chương trình được phòng Tư vấn – Quản lý dạy nghề xây dựng và được Giám đốc xem xét trình Phòng Dạy nghề thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh phê duyệt.

Tuy Trung tâm còn gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức và quản lý nội dung chương trình và kế hoạch đào tạo, nhưng với đội ngũ giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, tận tâm, yêu nghề và thường xuyên được tập huấn nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, ngôn ngữ và tâm lý giao tiếp với người khuyết tật, Ban Giám đốc đã chỉ đạo Phòng Tư vấn – Quản lý dạy nghề tích cực thường xuyên tham gia soạn thảo, chỉnh lý các chương trình đào tạo sao cho phù hợp với thị trường lao động và đưa vào giảng dạy đem lại những kết quả nhất định. Vì thế, chương trình đào tạo luôn được chỉnh lý, bổ sung, từng bước hoàn thiện về mục tiêu, cấu trúc chương trình và nội dung các môn học hợp lý, đáp ứng được yêu cầu đào tạo, đồng thời phù hợp với khả năng, sức khỏe của người khuyết tật.

Việc biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo được thực hiện thống nhất và tuân thủ theo sự chỉ đạo của Ban Giám đốc. Trong những năm qua, hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo của Trung tâm đã và đang từng bước được xây dựng, đổi mới phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ cho công tác đào tạo cho người khuyết tật của đơn vị.

Tuy nhiên, việc kiểm soát giáo trình, tài liệu tham khảo của một số môn học chưa được chặt chẽ và thống nhất; mặc dù giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc biên soạn giáo trình, tài liệu giảng dạy mới, nhưng vẫn còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới hiện nay, nhất là một số giáo trình, tài liệu giảng dạy chưa phù hợp với từng dạng tật của học viên.

Với chức năng, nhiệm vụ được giao, Ban Giám đốc chỉ đạo Phòng Tư vấn – Quản lý dạy nghề tham mưu xây dựng kế hoạch đào tạo từng mô-đun nghề cho từng học viên. Để làm được điều đó, Phòng Tư vấn – Quản lý dạy nghề luôn đề cao trách nhiệm phối hợp với đội ngũ giáo viên để xây dựng kế hoạch, trong đó có sự phân công giáo viên giảng dạy phù hợp với chuyên môn được đào tạo, cũng như phân chia, bố trí giờ giảng cho giáo viên, đảm bảo thực hiện đầy đủ số giờ tiêu chuẩn theo quy định.

Giáo viên được phân công giảng dạy tiến hành xây dựng kế hoạch và lịch giảng dạy của mình (tức là người giáo viên lên chương trình cụ thể), bao gồm:

  • Tên ngành nghề. Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.
  • Tổng số tiết của môn học; số tiết lý thuyết, số giờ thực hành.
  • Thể hiện nội dung khái quát của các đề mục giảng dạy.
  • Các yêu cầu về trang thiết bị, phương tiện dạy học, nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ,…

Sau khi kế hoạch giảng dạy môn học của giáo viên được Phòng Tư vấn – Quản lý dạy nghề thống nhất và được Ban Giám đốc phê duyệt, thì Phòng Tư vấn – Quản lý dạy nghề lên kế hoạch giảng dạy cho toàn đơn vị; cụ thể như sau:

  • Lớp, nghề đào tạo.
  • Nội dung đào tạo, thời gian và đối tượng thực hiện.
  • Số lượng các môn học; quy định các môn thi, môn kiểm tra.
  • Thời gian thực tập.
  • Thời gian ôn và thi tốt nghiệp

Kế hoạch giảng dạy này luôn đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa kiến thức nghề với rèn luyện kỹ năng nghề. Trong quá trình lập kế hoạch, Ban Giám đốc luôn chỉ đạo phải đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế cơ sở vật chất hiện có và tình hình năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên của đơn vị.

Trong những năm qua, việc quản lý công tác xây dựng kế hoạch, nội dung chương trình đào tạo nghề tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh được Ban Giám đốc triển khai chỉ đạo thực hiện khá đồng bộ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn một số tác động chủ quan và khách quan nên hiệu quả chưa cao. Tỷ lệ giữa số tiết lý thuyết và thực hành của các môn học chưa cân đối. Việc thực hiện kế hoạch giảng dạy của giáo viên chưa thực sự nghiêm túc và thường xuyên chậm về thời gian, do có sự chênh lệch về trình độ và sự tiếp thu của từng học viên khuyết tật. Do vậy, cần phải có biện pháp để hoàn thiện công tác xây dựng kế hoạch, nội dung chương trình đào tạo trong thời gian tới.

  • Hai là, quản lý hoạt động dạy, học của giáo viên và học viên

Hoạt động giảng dạy được coi là hoạt động trung tâm của công tác dạy nghề, do đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm, hết lòng trong công tác giảng dạy và đào tạo nghề cho người khuyết tật thực hiện. Công tác này đòi hỏi đầu tư nhiều thời gian và công sức của giáo viên nói riêng và của toàn đơn vị nói chung. Nói đến quản lý công tác giảng dạy là nói đến công tác chỉ đạo, điều hành, đảm bảo cho giáo viên thực hiện đúng nội quy, quy chế, quy định; thực hiện đúng và đầy đủ nội dung, chương trình cũng như kế hoạch đào tạo; đảm bảo chất lượng giảng dạy của giáo viên. Hơn nữa, công tác giảng dạy là quá trình tổ chức về nhận thức và rèn luyện tay nghề cho học viên. Vì thế, chất lượng giảng dạy là yếu tố quyết định đến chất lượng đào tạo.

  • Các giai đoạn thực hiện quá trình giảng dạy của giáo viên bao gồm:

Giai đoạn chuẩn bị bài giảng: Đây là giai đoạn mà giáo viên đầu tư cho việc soạn giảng như nghiên cứu giáo trình, viết đề cương bài giảng, soạn giáo án; chuẩn bị phương tiện và đồ dùng dạy học.

Giai đoạn thực hiện bài giảng trên lớp: Đây là giai đoạn giáo viên truyền đạt kiến thức, kỹ năng cho học viên, bằng các phương pháp giảng dạy linh hoạt nhằm đạt mục tiêu bài học đã đề ra.

Giai đoạn kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên: Đây là giai đoạn không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy, bởi lẽ đánh giá kết quả học tập nhằm xem xét công tác giảng dạy của giáo viên đạt hiệu quả đến đâu, xem xét quá trình nhận thức rèn luyện kỹ năng nghề của học viên đạt ở mức độ nào; trên cơ sở đó mà đề ra các biện pháp quản lý phù hợp, đạt được mục tiêu đề ra. Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

  • Quản lý công tác giảng dạy của giáo viên cụ thể như sau:

Ban Giám đốc chỉ đạo Phòng Tư vấn – Quản lý dạy nghề hướng dẫn cho giáo viên lập kế hoạch giảng dạy, nghiên cứu giáo trình, viết đề cương bài giảng và tiến hành soạn giáo án, trước khi được phân công lên lớp. Ngoài ra, tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên làm các mô hình thiết bị dạy nghề tự làm, chuẩn bị các trang thiết bị và phương tiện dạy học, nhằm thực hiện giảng dạy đạt kết quả cao.

Để công tác giảng dạy đạt chất lượng tốt, Phòng Tư vấn – Quản lý dạy nghề vận động đội ngũ giáo viên vận dụng và cải tiến các phương pháp giảng dạy trong học lý thuyết và thực hành.

Trong quá trình giảng dạy, Ban Giám đốc đã chỉ đạo phòng Tư vấn – Quản lý dạy nghề xây dựng các tiêu chí đánh giá; đồng thời, căn cứ vào đó để tổ chức kiểm tra định kỳ, đột xuất công tác chuẩn bị giảng dạy của giáo viên.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã làm được, công tác giảng dạy của giáo viên cũng còn một số tồn tại như: hồ sơ giảng dạy của giáo viên tương đối đầy đủ về số lượng, song chất lượng chưa đồng đều; quá trình nghiên cứu tài liệu cập nhật kiến thức mới cũng chỉ ở một số giáo viên có khả năng; đặc biệt, công tác quản lý các hoạt động giảng dạy chưa đi vào chiều sâu, còn mang nặng hình thức, đôi khi chưa đáp ứng được cho từng dạng tật theo từng ngành nghề; việc khai thác, sử dụng các phương tiện dạy học đôi khi còn chưa hiệu quả; giáo viên vẫn còn tình trạng dạy chay, sử dụng phương pháp thuyết trình là chính, học viên còn tình trạng thụ động nghe, ghi; cơ sở vật chất kỹ thuật của đơn vị còn hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tổ chức giảng dạy của giáo viên.

Nhận thức được vấn đề tổ chức quá trình học tập của học viên, nó tác động và ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình đào tạo nghề, nhất là đối với người khuyết tật. Trong những năm qua, trung tâm đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để học viên được học tập tốt, phát huy tính sáng tạo trong học tập và rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp. Ban Giám đốc chỉ đạo Phòng Tư vấn – Quản lý dạy nghề phối hợp với các phòng, ban xây dựng các nội quy, quy chế, quy định đối với học viên và tổ chức quán triệt một cách nghiêm túc, đầy đủ trước khi khoá học bắt đầu.

Tuy nhiên, quản lý hoạt động học của học viên cũng còn một số mặt hạn chế như chưa đưa ra được các tiêu chí hướng dẫn cụ thể mà còn chung chung, công tác quản lý học viên chưa chặt chẽ và linh hoạt, việc quản lý học tập trên lớp, ngoài lớp chưa kết hợp đồng bộ giữa giáo viên và cán bộ quản lý, chưa thật sự có những giải pháp hợp lý để nâng cao ý thức tự học của học viên, chưa nắm hết được các đặc điểm của đối tượng học viên đến học tại Trung tâm; cơ sở vật chất trung tâm còn hạn chế nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý các hoạt động nói chung và hoạt động học tập của học viên nói riêng.

Do vậy, đòi hỏi Trung tâm tiếp tục tìm cách thực hiện tốt hơn nữa trong công tác quản lý của mình, đưa chất lượng đào tạo ngày càng được nâng cao. Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

  • Ba là, quản lý phương pháp, hình thức đào tạo nghề

Công tác tổ chức và điều phối hoạt động đào tạo tại trung tâm bao gồm: xây dựng kế hoạch đào tạo, phương pháp đào tạo (đa số giáo viên giảng dạy theo phương pháp truyền thống: thuyết trình, giảng giải có kết hợp với minh họa bằng nhiều phương tiện,… ). Một số phương pháp dạy học mới có tác dụng tích cực hóa đối với học viên khuyết tật như dạy học theo năng lực thực hiện, dạy theo kỹ năng, kết hợp với việc sử dụng phương tiện dạy học theo mô hình, bản vẽ, giáo án điện tử nhằm tăng cường khả năng tiếp thu của học viên (nhất là đối với học viên khiếm thính). Người khuyết tật đa số có trình độ thấp, tâm lý không ổn định, mặc cảm, tự ti, ỷ lại vì thế việc kích thích khả năng tự học, tự tìm hiểu vấn đề trong học viên khuyết tật ít được giáo viên ứng dụng vì thế chưa phát huy được tính tích cực của học viên, chưa biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Đa số giáo viên dạy nghề vẫn còn sử dụng phương pháp “Phấn trắng, bảng đen”, “Thầy đọc, trò chép”.

Xác định được thực trạng trên, Ban Giám đốc Trung tâm luôn động viên đội ngũ giáo viên hưởng ứng các phong trào thi đua trong việc vận dụng và cải tiến các phương pháp giảng dạy trong học lý thuyết và thực hành phù hợp với dặc thù của người khuyết tật, đặc thù của từng bộ môn nghề. Đồng thời, tham gia một cách tích cực, sáng tạo làm đồ dùng dạy học

Tuy nhiên, trong công tác quản lý cũng còn một số tồn tại như: khai thác sử dụng cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị, phương tiện dạy học đôi khi còn chưa hiệu quả; giáo viên vẫn còn tình trạng dạy chay, sử dụng phương pháp thuyết trình là chính, học viên thụ động nghe ghi; công tác dự giờ chưa thực sự đi vào chiều sâu, còn chạy theo hình thức.

  • Bốn là, quản lý trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện dạy học và môi trường sư phạm và đời sống vật chất – tinh thần của cán bộ, giáo viên và học viên khuyết tật

Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, trong những năm gần đây, Trung tâm đã có sự đầu tư bước đầu về cơ sở vật chất, phần nào đáp ứng được yêu cầu phục vụ cho đối tượng khuyết tật. Mọi trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật đã từng bước được đưa vào sử dụng phục vụ cho mục đích giảng dạy, học tập một cách hợp lý.

Bên cạnh đó, để hỗ trợ cho người khuyết tật được thực hành thuận lợi và sử dụng các phương pháp giảng dạy một cách có hiệu quả; Ban giám đốc chỉ đạo cho phòng Tư vấn – Quản lý dạy nghề khuyến khích và tạo điều kiện cho giáo viên sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại; tổ chức phê duyệt và cấp phát kinh phí cho bộ môn để thực hiện các đề tài nghiên cứu chế tạo thiết bị dạy học tự làm góp phần tạo thêm cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp với từng dạng tật nhằm tạo điều kiện để học viên khuyết tật tiếp cận cơ sở vật chất một cách tốt nhất (Rất nhiều trang thiết bị, dụng cụ đã được các giáo viên nghiên cứu và sáng chế như: mô hình hệ thống điện các loại xe, mô hình ampli dàn trải, mô hình bộ thí nghiệm đo lường các dòng điện, mô hình đấu dây động cơ, mô hình đánh pan động cơ …); tổ chức cải tiến phương pháp giảng dạy giúp người khuyết tật được học tập trực quan, rút ngắn thời gian đào tạo đồng thời phù hợp với nhiều trình độ, nhiều dạng tật nhất là người câm điếc bằng cách thành lập Hội đồng biên soạn giáo án điện tử đối với các bộ môn nghề tại trung tâm đã và đang phát huy hiệu quả thiết thực. Ngoài ra, có kế hoạch tổ chức quản lý và cấp phát nguyên vật liệu luôn đảm bảo quá trình thực hành của học viên.

Tuy nhiên, việc xây dựng cơ bản chưa được hoàn thiện. Hiện nay, Trung tâm chỉ có 02 tủ sách tham khảo, chưa xây dựng được thư viện; còn thiếu nhiều tài liệu, chưa đủ các đầu sách; còn thiếu giáo trình của một số nghề đang đào tạo; trang thiết bị và phương tiện phục vụ giảng dạy chưa đồng bộ, cũng như chưa đầy đủ; đặc biệt, chưa khai thác hết tính năng và chưa có các cơ chế cụ thể nhằm động viên cán bộ, giáo viên ứng dụng triệt để các thiết bị công nghệ mới vào giảng dạy.

Song song với việc nâng cao chất lượng dạy nghề, lãnh đạo trung tâm luôn coi trọng đến việc chăm lo bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần, các chế độ chính sách cho giáo viên, cán bộ, viên chức, người lao động trong đơn vị theo đúng các quy định của pháp luật. Các lớp học, nhà vệ sinh, hành lang,… phục vụ cho học viên khuyết tật được đầu tư gắn tay vịn để học viên thuận tiện trong việc đi lại; thường xuyên vệ sinh sạch sẽ các hạng mục cơ sở hạ tầng, hội trường, phòng họp, phòng làm việc, phòng giáo viên, phòng học, nhà vệ sinh,… Mặt khác để bảo đảm môi trường giáo dục luôn xanh, sạch, đẹp; Trung tâm đã đầu tư, tạo dựng các công trình có giá trị về mặt thẩm mỹ như: thác nước cây cảnh sinh thải, hệ thống cây xanh bóng mát, thảm cỏ,… Các công trình này tạo sự thoải mái, dễ chịu cho học viên khuyết tật trong những giờ nghỉ giải lao.

Tuy nhiên, công tác phục vụ, giảng dạy cho người khuyết tật rất khó, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ giáo viên, cán bộ phục vụ cho đối tượng đặc thù chưa được Nhà nước quan tâm nên thu nhập của họ chưa tương xứng, nên việc giữ chân cán bộ, giáo viên là rất khó. Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

  • Năm là, công tác kiểm tra, đánh giá

Trong những năm qua, lãnh đạo trung tâm luôn quan tâm công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo. Đã tham mưu cho lãnh đạo quản lý về công tác thi, giám sát tổ chức các hoạt động về quản lý chất lượng. Phối hợp với giáo viên xây dựng ngân hàng đề thi tương đối hoàn chỉnh cho tất cả các mođun của từng ngành nghề.

Từ khi kế hoạch đào tạo được phê duyệt, Ban Giám đốc thường xuyên chỉ đạo Phòng Tư vấn – Quản lý dạy nghề phối hợp với các phòng liên quan tổ chức thực hiện. Để đánh giá chất lượng đào tạo chuẩn xác, kịp thời thì công tác kiểm tra, đánh giá phải được làm xuyên suốt từ khi lập kế hoạch, tổ chức thực hiện cho đến lúc sơ, tổng kết. Ban Giám đốc cũng đã chỉ đạo Ban thanh tra nhân dân xây dựng kế hoạch định kỳ, đột xuất thanh tra trực tiếp mọi hoạt động của đơn vị.

Ban Giám đốc xây dựng các tiêu chí đánh giá trong các hoạt động giảng dạy và học tập; Các tiêu chí đánh giá về cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác đào tạo; đặc biệt, luôn quan tâm đến công tác tổ chức thi, kiểm tra vừa đảm bảo nghiêm túc, vừa đảm bảo đánh giá chất lượng đào tạo một cách khách quan.

Để đánh giá thực trạng quản lý đào tạo nghề của trung tâm trong 03 năm 2023, 2024, 2025; tác giả đã tiến hành điều tra khảo sát bằng cách trưng cầu ý kiến của 20 giáo viên, 04 cán bộ quản lý và 40 em học viên khuyết tật có khả năng cho ý kiến đánh giá vào phiếu khảo sát, hiện đang học tại các lớp nghề Cắt/uốn tóc nam – nữ, Trang điểm thẩm mỹ – Chải bới, Kỹ thuật làm móng, Kết cườm, May dân dụng, Điện tử dân dụng, Sửa chữa xe gắn máy, In lụa, Tin học, Thiết kế quảng cáo về những vấn đề cần quan tâm trong công tác đào tạo nghề ở Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua phiếu trưng cầu ý kiến thu lại được chúng tôi tiến hành đánh giá kết quả. Sau đó tính giá trị trung bình cho mỗi nội dung rồi sắp xếp thứ bậc. Hình thức đánh giá bằng các thang điểm như sau:

  • Rất tốt: 03 điểm
  • Tốt: 02 điểm
  • Bình thường: 01 điểm
  • Chưa tốt: 00 điểm

Các kết quả khảo sát, tính toán được được tổng hợp ở các phụ lục 3 và phụ lục 4 (Đính kèm).

Các kết quả khảo sát, tính toán được được tổng hợp ở các phụ lục 3 và phụ lục 4 (Đính kèm).

  • Biểu đồ 2.1: Kết quả đánh giá của giáo viên, cán bộ quản lý về thực trạng quản lý hoạt động đào tạo nghề của Trung tâm trong 03 năm 2023, 2024, 2025
  • Biểu đồ 2.2: Kết quả đánh giá của học viên về thực trạng quản lý hoạt động đào tạo nghề của Trung tâm trong 03 năm 2023, 2024, 2025

Áp dụng công thức tính hệ số tương quan SPearman ta có: 6∑ D2 n (n2-1)

Trong đó:

  • : Hệ số tương quan thứ bậc n : Số nội dung được đánh giá
  • D   : Hiệu thứ bậc của hai đối tượng đánh giá

Theo phụ lục 5, thay số ta có:

Điều này chứng tỏ sự tương quan là thuận và chặt chẽ; nghĩa là đánh giá của giáo viên, cán bộ quản lý và học viên về công tác quản lý đào tạo nghề của trung tâm là thống nhất giữa các nội dung quản lý.

2.3.3. Nguyên nhân những vấn đề còn tồn tại của công tác quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật: Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

Công tác quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật những năm qua bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục triệt để. Những hạn chế, yếu kém đó bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:

  • Về khách quan

Sự quan tâm của cơ quan có thẩm quyền còn ít và không có sự chỉ đạo cụ thể. Nhiều năm qua, hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật vẫn chưa được đẩy mạnh nên lực lượng quản lý của cấp trên còn mỏng, do đó không đủ sức quan tâm và đi sâu sát vào tình hình thực tế của trung tâm nói riêng và của các đơn vị làm công tác đào tạo nghề cho người khuyết tật. Chủ yếu là trung tâm cũng như các đơn vị “tự thân vận động”, lấy tình hình thực tế tại cơ quan để đúc kết thành những kinh nghiệm quý báu và dần dần hoàn thiện trong công việc của mình hơn. Chẳng hạn trong công tác quản lý đào tạo nghề, từ khâu cơ bản là việc tư vấn cho học viên ngành nghề phù hợp với sức khỏe và năng lực thì cán bộ nhân viên cũng áp dụng tình hình thực tế để từ đó rút ra được những điểm chung dạng tật, ngành nghề để đưa ra các kế hoạch tuyển sinh hoặc mở ngành phù hợp…

Song song đó, kinh phí đầu tư cho giáo dục và đào tạo nghề cho đối tượng yếu thế còn nhiều hạn chế. Bởi ngân sách nhà nước có giới hạn mà những chi phí phục vụ cho người khuyết tật từ cơ sở vật chất đào tạo nghề đến sức khỏe, tinh thần của họ chiếm một khoản rất lớn. Mặt khác, số lượng người khuyết tật khá lớn, nhu cầu học nghề và giải quyết việc làm cũng như hòa nhập cộng đồng cao cho nên mọi thứ còn trong một giới hạn. Hơn nữa, nhìn vào thực tế xã hội Việt Nam nước ta, điều kiện kinh tế còn kém nên khả năng hỗ trợ toàn diện cho người khuyết tật hầu như chưa có, chỉ có ở những nước phát triển mà thôi. Ví dụ ở Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh, ban đầu cũng chỉ một số ngành nghề đáp ứng nhu cầu thị trường, nhưng không phải học viên nào cũng học được bởi dạng tật (nặng/nhẹ) và sở thích của từng học viên cũng khác nhau. Do đó, phải tiếp tục phát triển ra nhiều ngành nghề khác nhau, nhưng kinh phí hạn chế, cơ sở vật chất chưa đủ đáp ứng nên mọi thứ chỉ dừng lại ở mức có thể nhất để người khuyết tật có thể tìm việc làm, nuôi sống bản thân. Sau này, dần dần nhận được sự hỗ trợ của mạnh thường quân, các tổ chức phi chính phủ nên tình hình quản lý hoạt động đào tạo được nâng cao hơn. Do đó mới thấy, mục tiêu và yêu cầu đào tạo nghề cho người người khuyết tật đặt ra ngày càng cao hơn trong khi các yếu tố đảm bảo cho giáo dục đáp ứng lại chưa đầy đủ và còn nhiều bất cập.

  • Về chủ quan

Hệ thống văn bản pháp quy, quy chế, quy định về quản lý hoạt động đào tạo nghề tại Trung tâm chưa được kịp thời bổ sung, đổi mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn quản lý; quy chế, quy định quản lý có một số nội dung chưa phù hợp với đối tượng học viên là người khuyết tật. Như trên đã nói, tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và các đơn vị khác nói chung trong việc chăm lo đào tạo nghề cho người khuyết tật thì mỗi thứ thực hiện theo kinh nghiệm thực tế, lần dò từng bước để xây dựng nên hệ thống quy chế, quy định. Vì vậy, ban đầu còn lỏng lẻo, sau đó dần dần mới hoàn thiện tốt hơn, đáp ứng đúng tình hình hoạt động thực tế. Cho nên nhiều khi dẫn đến việc tổ chức xây dựng và thực hiện kế hoạch quản lý chưa chặt chẽ, chưa thực sự thống nhất; trong quản lý của cán bộ còn biểu hiện chồng chéo, thiếu tính thuyết phục, hiệu quả chưa cao.

Công tác phối kết hợp giữa các chủ thể trong quá trình quản lý hoạt động dạy nghề còn hạn chế, chưa gắn nhiệm vụ đào tạo nghề với cơ cấu nhân lực và cơ cấu kinh tế. Do đó có hiện tượng không khớp giữa đào tạo với nhu cầu nguồn nhân lực của các lĩnh vực kinh tế – xã hội, sự liên kết giữa Trung tâm với các đơn vị dạy nghề, giữa trung tâm với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất chưa thật chặt chẽ, các ngành nghề đào tạo chưa phù hợp với thị trường lao động, chủ yếu đào tạo ngắn hạn, ở trình độ bậc thấp. Điều này, cũng do quản lý hoạt lý đào tạo nghề còn yếu, chưa có tầm nhìn sâu rộng để đi kịp cùng xã hội.

Công tác kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động dạy nghề vẫn còn khoảng cách mà nguyên nhân là công tác quản lý điều hành, có lúc chưa kiên quyết, còn nhân nhượng và chưa đạt hiệu quả cao. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên cơ bản chưa được đào tạo, bồi dưỡng cơ bản về kiến thức, nghiệp vụ quản lý giáo dục, giáo dục đặc biệt. Thực tế, đa phần giáo viên và nhân viên mới tuyển chưa quen với việc tiếp xúc trẻ khuyết tật, đặc biệt là trẻ câm điếc, nên việc giao tiếp còn hạn chế dẫn đến giảng dạy còn yếu kém. Kinh phí và thời gian đào tạo về chuyên môn còn hạn hẹp nên chưa hoàn thiện các kiến thức cơ bản trong hoạt động giảng dạy và quản ký người khuyết tật. Vì thế, năng lực, kinh nghiệm trong công tác quản lý đào tạo nghề cho người khuyết tật còn hạn chế. Riêng cơ sở vật chất, máy móc, trang thiết bị, dụng cụ dạy nghề chưa đầy đủ. Phần lớn cơ sở vật chất dạy học chưa phù hợp với đối tượng là người khuyết tật mà phải tự chế, tự tìm tòi sáng tạo những mô hình, phương thức sao cho phù hợp với mỗi dạng tật. Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

Thực trạng quản lý quá trình đào tạo nghề ở Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy: tuy Trung tâm thực hiện công tác đào tạo nghề dựa trên kinh nghiệm từ một số thành tựu ban đầu, song cũng đã bộc lộ một số hạn chế bất cập ở các khâu trong quá trình quản lý đào tạo nghề như: năng lực và hiệu quả trong công tác quản lý hoạt động đào tạo nghề còn yếu; tính kế hoạch trong công tác đào tạo nghề chưa được thực hiện nghiêm túc; ít có sự phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng, đồng thời còn thiếu sự kết hợp thực hiện xã hội hóa và liên kết trong hoạt động đào tạo nghề của Trung tâm; chất lượng công tác quản lý kiểm tra đánh giá và đảm bảo chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu và yếu;… Thực trạng này đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải đổi mới hoạt động quản lý đào tạo nghề đối với Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh cũng như cần tăng cường hơn nữa công tác giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đào tạo nghề của Trung tâm.

Ngoài ra, Trung tâm cần phải khẩn trương có biện pháp quản lý và hoạt động tích cực mới nhằm củng cố, duy trì và phát triển hoạt động đào tạo nghề có chất lượng. Trước mắt cần tập trung chỉ đạo việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy chế, quy định, nội quy hoạt động đào tạo nghề; nâng cao tính kế hoạch; tăng cường sự phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng, kết hợp thực hiện xã hội hóa và mở rộng liên kết trong hoạt động đào tạo nghề; thường xuyên chấn chỉnh công tác kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động; đẩy mạnh công tác giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên; chú trọng tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của công tác đào tạo nghề cho người khuyết tật. Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:  

===>>> Luận văn: Biện pháp quản lý đào tạo nghề cho người khuyết tật

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0972114537