Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Đất nước ta sau hơn 20 năm đổi mới, chúng ta đã và đang thu được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều phương diện khác nhau. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, mặt trái của cơ chế thị trường phần nào đã có ảnh hưởng, tác hại đến những quan hệ, những giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội của chúng ta; những tiêu cực, tệ nạn cũng từ đó nảy sinh và có chiều hướng gia tăng, nhất là trong đời sống đạo đức. Những năm qua, giáo dục truyền thống đạo đức, giáo dục giá trị đạo đức phần nào bị xem nhẹ, vì vậy đã nảy sinh những thái độ, hành vi không lành mạnh trong quan hệ xã hội.

Trong sinh viên đã xuất hiện những lệch lạc về nhận thức đạo đức, lối sống như: thờ ơ với chính trị, giảm sút niềm tin, xuất hiện biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, buông thả, suy giảm đạo đức. Những biểu hiện tiêu cực đó đã cản trở công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường đại học nói chung, Trường đại học Bạc Liêu nói riêng.

Trường đại học Bạc Liêu Liêu là cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, những trí thức tương lai có trình độ đại học, cao đẳng cho khu vực bán đảo Cà Mau. Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức là chức năng và nhiệm vụ trọng tâm của bậc giáo dục đại học.

Trường đại học đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao không chỉ thông qua hoạt động dạy và học mà còn bằng nhiều dạng hoạt động khác. Vì vậy, ngay trong quá trình đào tạo tại trường cần phải tăng cường các hoạt động quản lý giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên, nhằm hoàn thiện nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Nhìn chung, đa số sinh viên của Trường đại học Bạc Liêu có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, có ý thức thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Song bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận sinh viên có lối sống vô cảm, hưởng thụ, lãng phí thời gian học tập, có tư tưởng trung bình chủ nghĩa trong học tập, rèn luyện; vi phạm nội quy, quy chế của nhà trường, cá biệt có những trường hợp mắc vào tệ nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm…

Một trong những nguyên nhân dẫn đến những yếu kém nêu trên là do trong công tác tổ chức và quản lý quá trình giáo dục, đặc biệt là quản lý giáo dục đạo đức, rèn luyện thói quen hành vi đạo đức vẫn còn biểu hiện chưa thường xuyên và chưa được quan tâm đúng mức. Công tác quản lý giáo dục còn biểu hiện những hạn chế như: nhận thức về quản lý giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên ở một bộ phận giảng viên, cán bộ quản lý và sinh viên còn chưa sâu sắc; chưa phát huy cao độ được vai trò, trách nhiệm của các chủ thể quản lý, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng giáo dục; kế hoạch quản lý còn chung chung, chưa sát thực tế; môi trường giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập…

Nhìn lại thực tế, cũng đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về giáo dục nhân cách, giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên. Song đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên ở một nhà trường đại học cụ thể, như Trường đaị học Bạc Liêu. Để nâng cao hiệu quả giáo dục, hình thành phẩm chất nhân cách toàn diện của của sinh viên, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giáo dục – đào tạo của Trường đại học Bạc Liêu, tôi chọn đề tài “Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu” để nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong lịch sử nhân loại, giáo dục đạo đức và vấn đề quản lý giáo dục đạo đức luôn được quan tâm và bàn luận. Bởi vì đạo đức là một yếu tố cơ bản, có vai trò tích cực trong đời sống xã hội và trong giáo dục con người hội nhập đời sống xã hội; đạo đức vừa là động lực vừa là mục tiêu trong sự phát triển, tiến bộ của xã hội loài người.

  • Trên thế giới

Khổng Tử (551 – 479 tr.CN), ông là nhà giáo dục lớn trong lịch sử cổ – trung đại, được người đời tôn vinh là “Vạn thế sư biểu’’ (người thầy của muôn đời ). Ông đã chủ trương quản lý xã hội bằng đức trị, người trên nêu gương, kẻ dưới noi theo, các quan cai trị phải lấy nhân làm đức tính cơ bản. Bàn về giáo dục và quản lý giáo dục, ông cho rằng giáo dục là một quá trình và đề cao việc quản lý phải sát đối tượng, đánh giá người theo phẩm chất, chứ không phải từ thành phần xuất thân và số tài sản mà họ có. Đây là những kiến giải và tư tưởng tiến bộ, khoa học về quản lý giáo dục còn có giá trị cho tới ngày nay.

Mạnh Tử (372 – 289 tr.CN), theo ông, mục đích giáo dục nhằm đào tạo người “hiền lương” (người tài đức) để làm quan trong bộ máy cai trị, bồi dưỡng cho quảng đại nhân dân đức tính phục tùng. Ông cho rằng, con người phải được giáo dục mới trở thành “người”, mới giữ được bản tính thiện. Theo đó có năm cách dạy người, có cách như mưa xuống mà hoá đi, có cách làm cho thành cái đức, có cách làm cho đạt được cái tài, có cách trả lời cho câu hỏi, có cách học riêng mà tự trau dồi.

Arixtôt (384 – 322, tr.CN), ông đánh giá rất cao vai trò của giáo dục, ông cho rằng, giáo dục là cứu cánh của nhân loại, nhờ giáo dục mà tạo nên cộng đồng xã hội lành mạnh, hạnh phúc; không có giáo dục, con người sẽ sống theo bản năng; nhờ giáo dục con người có đức hạnh, có hạnh phúc; do đó giáo dục không hạn chế bất kỳ ai, không hạn chế thời gian học tập.

Ông chủ trương đào tạo ra những con người phát triển toàn diện; ông cho rằng con người có ba bộ phận, xương thịt, ý chí và lý trí; giáo dục phải hướng vào phát triển ba bộ phận ấy. Để đào tạo ra những con người phát triển toàn diện, nội dung giáo dục phải có các môn như: thể dục, đức dục và trí dục. Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Thomas More (1478 – 1535), sống vào thời kỳ Văn hóa Phục hưng, ông đã lý giải các vấn đề giáo dục một cách mới mẻ, theo khuynh hướng khoa học, không bị ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến và triết lý của nhà thờ. Tư tưởng giáo dục của ông đã góp phần đặt tiền đề cho thời kỳ giáo dục mới – giáo dục cận đại.

Ông quan tâm đến giáo dục nhằm phát triển nhiều mặt ở trẻ em như thể chất, đạo đức, trí tuệ, kỹ năng lao động, trong đó ông nhấn mạnh đến giáo dục nhân cách, đạo đức cho học sinh. Đây chính là tư tưởng tiến bộ của nhân loại về giáo dục trong thời kỳ Văn hoá Phục hưng.

J.A. Kômenxki (1592 – 1670), nhà giáo dục được người đời tôn vinh là ông tổ của nền giáo dục cận đại. Ông cho rằng, giáo dục trẻ em tốt nhất là phải thông qua việc xây dựng môi trường lành mạnh và phải được giáo dục thông qua tấm gương của mọi người xung quanh. Nhà trường là “xưởng rèn nhân cách”, theo đó quản lý quá trình giáo dục phải tuân theo quy luật phát triển tự nhiên, quy luật về nhận thức và đặc điểm tâm, sinh lý học sinh.

Mác (1818 – 1883) và Ph. Ăngghen (1820 – 1895), các ông là những người vạch ra tư tưởng cho một thời đại mới, các ông đã chỉ ra sự tất yếu phải xây dựng của một kiểu đạo đức mới trong lịch sử, đó là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân. Theo Ph. Ăngghen, đây là nền đạo đức “đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của tương lai, tức là đạo đức vô sản, là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài”.

V.I. Lênin (1870 – 1924), là người thầy của giai cấp vô sản thế giới đồng thời là nhà tổ chức thực tiễn về quản lý xã hội. Ông chỉ rõ, nhiệm vụ quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là phải quản lý nền kinh tế, phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao đời sống các tầng lớp nhân dân. Trong quá trình đấu tranh chống lại các học thuyết đạo đức cũ, lạc hậu của phong kiến, tư sản, V.I. Lênin đã khẳng định sự tất yếu ra đời của đạo đức mới – đạo dức cộng sản chủ nghĩa. V.I. Lênin đã chỉ rõ, nội dung của đạo đức mới đó là “Những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản”.

  • Ở Việt Nam

Nguyễn Trãi (1380 – 1442), là một nhà giáo dục lớn của dân tộc ta ở thế kỷ XV. Những tư tưởng giáo dục của ông có ảnh hưởng to lớn đến việc giáo dục, đào tạo con người lúc đương thời. Tư tưởng giáo dục của Nguyễn Trãi bao hàm nhiều vấn đề, được đề cập trên nhiều bình diện, từ quan điểm của ông về vai trò của giáo dục cho đến những nội dung giáo dục, mối quan hệ đức – tài, phương pháp giáo dục, chính sách trọng dụng hiền tài…

Theo ông, đức và tài là hai thành tố không thể thiếu được trong một con người, đó là hai phần cơ bản cấu trúc nên nhân cách. Nguyễn Trãi không tuyệt đối hoá riêng mặt nào, mà ông coi trọng cả hai mặt đức và tài. Tuy nhiên, trong nhiều tác phẩm của ông, ông đều luận giải, nhấn mạnh phần “đức”, ông viết: “Phàm mưu việc lớn, lấy nhân nghĩa làm gốc. Nên công lớn lấy nhân nghĩa làm đầu”. Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Hồ Chí Minh (1890 – 1969), danh nhân văn hóa thế giới, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Sinh thời, Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức và giáo dục, rèn luyện đạo đức cho những người cách mạng.

Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức mới – đạo đức cách mạng, ở đó có sự hội tụ các phẩm chất: trung với nước, hiếu với dân; lòng nhân ái; nếp sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và tinh thần quốc tế trong sáng. Theo Hồ Chí Minh, “nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng là điều chủ chốt nhất”.

Người coi trọng cả đức và tài, nhưng trong đó đức phải là gốc; Người chỉ rõ “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” .

Trong những thập niên gần đây, vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức và quản lý giáo dục, rèn luyện đạo đức cho lớp trẻ, học sinh, sinh viên đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà sư phạm, nhà quản lý giáo dục. Trên thực tế, đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố như:

Trần Đăng Sinh – Nguyễn Thị Thọ (2024), trong công trình nghiên cứu về “Đạo đức học”, các tác giả đã luận giải làm sáng tỏ nguồn gốc, bản chất và chức năng của đạo đức; các kiểu đạo đức trong lịch sử, quan hệ giữa đạo đức với các hình thái ý thức xã hội khác. Đồng thời, các tác giả cũng phân tích làm rõ những nguyên tắc của đạo đức mới và những vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức trong điều kiện xã hội hiện đại hóa . Các tác giả cũng nhấn mạnh việc học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là vô cùng cần thiết đối với mọi người, nhất là lớp trẻ ở nước ta hiện nay.

Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Thạc, Mạc Văn Trang ( 1995) trong công trình nghiên cứu về “Giá trị, định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị”, các tác giả đã đề cập một hệ thống các phạm trù, khái niệm như: giá trị, thang giá trị, định hướng giá trị, giáo dục giá trị. Trên cơ sở đó, các tác giả đã phân tích làm rõ các giá trị mang tính phổ biến của nhân loại, các giá trị truyền thống Việt Nam, các giá trị cốt lõi hiện nay, các giá trị mới của thời đại. Đặc biệt, các tác giả đã đầu tư nghiên cứu, xác định rõ việc định hướng giá trị, giáo dục giá trị cho thế hệ trẻ ở Việt Nam trong giai đoạn mới hiện nay.

Nguyễn Thế Kiệt (1996), với công trình: “ Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”. Ông cho rằng, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước vẫn không được xa rời những giá trị đạo đức truyền thống. Mặt khác, phải kịp thời bổ sung những giá trị đạo đức mới, phù hợp với thời đại, đặc biệt là đi đôi với xây dựng đạo đức cho lớp trẻ phải kiên quyết chống các tệ nạn xã hội mới nảy sinh.

Đặng Quốc Bảo (1996) trong bài: “Một số ý kiến về nhân cách thế hệ trẻ, thanh niên, sinh viên và phương pháp giáo dục”, theo tác giả, trong tình hình hiện nay, cần phải coi trọng việc giáo dục nhân cách cho sinh viên, trước hết họ phải được trang bị tri thức, định hướng giá trị, có khả năng đương đầu với mọi thử thách; phương pháp giáo dục phải chuyển từ kiểu “sư phạm quyền uy” sang kiểu “sư phạm dân chủ”. Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Phạm Khắc Chương (1997), với công trình nghiên cứu: “Vấn đề giáo dục đạo đức và những tệ nạn xã hội trong sinh viên”, tác giả rất đề cao vai trò của nhà trường đại học trong việc giáo dục đạo đức và thói quen hành vi đạo đức cho sinh viên. Ông coi đó là môi trường bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức mang tính hoàn hảo đối với sinh viên. Ông cho rằng, điều quan trọng là phải nhận diện kịp thời những tệ nạn xã hội, những hậu quả tai hại nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường. Do đó, nhà trường phải luôn kết hợp chặt chẽ với gia đình và cộng đồng xã hội để rèn luyện đạo đức cho sinh viên.

Nghiêm Đình Vì (1997), tác giả đã đi sâu nghiên cứu “Thực trạng của đạo đức sinh viên nhà trường và kiến nghị giải pháp quản lý”. Ông phân tích, đánh giá cao vai trò của thanh niên, sinh viên đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ông nhận thấy bên cạnh những mặt tốt, mặt tích cực về đạo đức, lối sống của đại bộ phận sinh viên hiện nay thì vẫn còn một bộ phận sinh viên vi phạm pháp luật, suy thoái về đạo đức, lối sống, sa vào các tệ nạn xã hội… rất đáng lo ngại. Theo tác giả, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng để giáo dục đạo đức, thói quen hành vi đạo đức cho sinh viên. Song, cũng cần vận dụng các phương pháp giáo dục cho phù hợp, cần tạo dư luận xã hội mạnh mẽ, phát huy sức mạnh của các tấm gương, cần tạo môi trường lành mạnh, rèn luyện các hành vi đạo đức cho sinh viên thành thói quen đẹp, nếp sống đẹp. Vấn đề này đòi hỏi rất cao ở tấm gương đạo đức và trình độ, năng lực của các nhà quản lý.

Lê Đức Phúc (1997), ông đã đi sâu nghiên cứu và đề xuất “Một số yêu cầu và phương cách giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên”, tác giả cho rằng, hình thành đạo đức, lối sống cho sinh viên phải biết kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống, phải thấm nhuần những giá trị chuẩn mực đạo đức hiện nay trong xã hội ta, đồng thời phải dự báo, tiên liệu trước những vấn đề và hành vi đạo đức của lớp trẻ trong những thập niên tới, nhất là thói quen, lối sống của đô thị trong tương lai.

Nguyễn Anh Tuấn (1997), qua nghiên cứu đã làm rõ “Những ảnh hưởng của kinh tế thị trường tới đạo đức sinh viên sư phạm”, tác giả đã có quá trình khảo sát, phân tích số liệu, đánh giá những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường tới đạo đức sinh viên sư phạm. Từ thực trạng mà tác giả đưa ra sẽ giúp các cơ quan quản lý giáo dục, nhà trường, cán bộ quản lý giáo dục đề xuất và áp dụng những biện pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên nói chung, sinh viên sư phạm nói riêng trong điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta.

Nguyễn Thị Thanh Thương (1998), trong công trình nghiên cứu “ Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay”, với những kiến giải có tính lý luận và thực tiễn, tác giả đã đưa ra yêu cầu phải đổi mới nội dung và hình thức giáo dục đạo đức cho sinh viên. Gia đình, nhà trường và xã hội cùng kết hợp với nhau trong giáo dục đạo đức cho sinh viên; phát huy vai trò tích cực của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên trong công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên. Tác giả cho rằng, giáo dục đạo đức cho sinh viên là quá trình lâu dài và phức tạp, đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực của nhà quản lý, các lực lượng giáo dục, đặc biệt là chính bản thân sinh viên. Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Đặng Xuân Sơn (2024), trong bài “Suy nghĩ về giáo dục giá trị sống và giáo dục kỹ năng cho sinh viên ở các nhà trường hiện nay”, tác giả nêu lên và luận bàn về những giá trị mới trong cuộc sống ở thế kỷ XXI, bao gồm những giá trị mang tính dân tộc và những giá trị mang tính nhân loại. Theo tác giả, giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho sinh viên phải gắn liền với những chuẩn mực đạo đức xã hội. Đồng thời, trong quá trình giáo dục phải tôn trọng nhân cách sinh viên và cần có sự quan tâm chỉ đạo, tổ chức, phối hợp, sự tác động từ nhiều lực lượng ở nhà trường.

Nguyễn Minh Kỳ (2024), tác giả đi sâu nghiên cứu về phương pháp “Nêu gương trong giáo dục học sinh, sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Tác giả đã luận giải làm rõ vai trò, tác dụng của phương pháp nêu gương trong giáo dục học sinh, sinh viên, và Bác Hồ là một mẫu mực trong sử dụng phương pháp nêu gương để giáo dục mọi người, nhất là giáo dục lớp trẻ. Theo tác giả, trong nhà trường, trước kết các thầy cô giáo phải là những tấm gương sáng về đạo đức, phải tạo ra môi trường mà trong đó mỗi học sinh, sinh viên được noi gương, được rèn luyện về hành vi, nếp sống đạo đức theo các tấm gương.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên, đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình giáo dục, hình thành và phát triển các thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu, góp phần thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của nhà trường.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu.

Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các biện pháp quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu.

4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Khách thể nghiên cứu: Quản lý quá trình giáo dục nhân cách sinh viên Trường đại học Bạc Liêu.

Đối tượng nghiên cứu: Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu.

Phạm vi nghiên cứu: Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu. Số liệu điều tra, khảo sát được khai thác, sử dụng từ năm 2022 – 2025.

5. Giả thuyết khoa học

Thói quen hành vi đạo đức của sinh viên chỉ có thể hình thành vững chắc trên cơ sở của sự nhận thức, thái độ, niềm tin và được tổ chức rèn luyện một cách đúng hướng, kiên trì và khoa học. Nếu các chủ thể quản lý giáo dục trong nhà trường tổ chức thực hiện tốt quá trình giáo dục nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, niềm tin và rèn luyện thói quen hành vi đạo đức của sinh viên; phối hợp các lực lượng trong quản lý, giáo dục; xây dựng môi trường giáo dục kết hợp với việc phát huy ý thức tự rèn luyện của sinh viên và thực hiện tốt việc kiểm tra, đánh giá thì hiệu quả quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên sẽ được nâng cao.

6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

6.1 Phương pháp luận

Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và quản lý giáo dục. Đồng thời, đề tài luận văn còn được thực hiện trên cơ sở quan điểm tiếp cận hệ thống – cấu trúc, quan điểm lịch sử – lôgíc, quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học.

6.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể

  • Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết

Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, hệ thống hoá, khái quát hóa các nội dung, tư tưởng trong các sách, tài liệu có liên quan đến đề tài luận văn.

  • Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Sử dụng phương pháp quan sát đối với hoạt động học tập, ứng xử, rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức ở các môi trường khác nhau, tình huống khác nhau của sinh viên; các nội dung và cách thức tổ chức quản lý, tổ chức rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức cho sinh viên của các lực lượng quản lý giáo dục Trường đại học Bạc Liêu.

Sử dụng phương pháp điều tra đối với sinh viên, các lực lượng quản lý giáo dục để làm cơ sở đánh giá thực trạng và đề ra biện pháp quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên.

Sử dụng phương pháp chuyên gia trong quá trình nghiên cứu, xin ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý có kinh nghiệm về những vấn đề có liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn.

Sử dụng phương pháp thống kê toán học để tính toán, xử lý các số liệu phục vụ cho đề tài luận văn.

7. Ý nghĩa của luận văn

Đề tài xây dựng một số khái niệm như: Thói quen hành vi đạo đức, quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên; quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu.

Đề xuất hệ thống các biện pháp quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu.

8. Kết cấu của đề tài Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Luận văn được kết cấu gồm: Phần mở đầu, 2 chương (7 tiết), kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC THÓI QUEN HÀNH VI ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU

1.1 Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Thói quen hành vi đạo đức của sinh viên

Theo từ điển Tiếng Việt, Đạo đức “là những tiêu chuẩn, những nguyên tắc quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội. Đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của con người theo những tiêu chuẩn đạo đức của một giai cấp nhất định” [47, tr.211].

Dưới góc độ giáo dục học, tác giả Phạm Minh Hạc coi đó là những quy định, những chuẩn mực ứng xử của con người với con người, với công việc và với bản thân, kể cả với thiên nhiên và môi trường sống.

Trong lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội đều có những chuẩn mực đạo đức; tuy nhiên, đạo đức cũng thường xuyên biến đổi theo tiến trình phát triển của nhân loại. Đạo đức mang tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại sâu sắc, do đó quá trình giáo dục đạo đức nói chung, thói quen hành vi đạo đức nói riêng của sinh viên các trường đại học cũng phải được thực hiện và tuân theo quy luật khách quan; được thực hiện theo các khâu, các bước, thông qua các hoạt động đa dạng trong đời sống xã hội gắn với vai trò của chủ thể, đồng thời chịu sự tác động của các yếu tố khách quan.

Thói quen, theo Từ điển Tiếng Việt, là “lối, cách sống hay hoạt động lặp đi lặp lại lâu ngày thành quen, khó thay đổi”. [47, tr.948]

Dưới góc độ tâm lý học, thói quen được hiểu là “những hoạt động tự động hoá, ổn định ở con người, trở thành nhu cầu của con người. Nếu nhu cầu đó không được thỏa mãn, con người cảm thấy khó chịu”. [5, tr.201]

Có hai loại thói quen: Thói quen tốt và thói quen xấu. Thói quen tốt hay xấu không tự nhiên sinh ra mà nó là hệ quả tất yếu của việc sinh hoạt, học tập, rèn luyện và tu dưỡng của mỗi người trong cuộc sống hàng ngày.

Khái niệm hành vi đạo đức, hành vi đạo đức là một hành động tự giác, được thúc đẩy bởi động cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức, hành vi đạo đức được biểu hiện trong cách ứng xử, trong lối sống, trong giao tiếp, trong lời ăn tiếng nói hàng ngày.

Trong giáo dục đạo đức cần giáo dục hành vi đạo đức, hành vi đạo đức phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Giá trị đạo đức của một hành vi được xét theo những tiêu chuẩn như: Tính tự giác, tính có ích và tính không vụ lợi của hành vi.

Theo đó, thói quen phải mang tính đạo đức và ăn sâu vào nếp sống con người, thói quen được hình thành từ nhiều con đường khác nhau như: luyện tập, tự phát, rèn luyện…

Thói quen đạo đức là những hành vi đạo đức ổn định của con người, nó trở thành những nhu cầu đạo đức của người đó. Nếu như nhu cầu này được thỏa mãn thì con người cảm thấy dễ chịu và ngược lại.

Bàn về thói quen hành vi đạo đức, một số nhà nghiên cứu cho rằng: Thói quen hành vi đạo đức là các hành vi đã được tự động hoá, ăn sâu vào nếp sinh hoạt của sinh viên mang tính chất của một nhu cầu.

Từ các cách định nghĩa và quan niệm trên, có thể hiểu: Thói quen hành vi đạo đức của sinh viên là các hành vi phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội đã được tự động hoá, trở thành nếp sống, sinh hoạt, thành nhu cầu bên trong của nhân cách sinh viên.

1.1.2. Quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Giáo dục, được hiểu một cách khái quát là quá trình chuyển giao hệ thống tri thức, các giá trị, thái độ và kinh nghiệm hoạt động của thế hệ trước cho thế hệ sau nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách cá nhân – xã hội đảm bảo sự tồn tại và phát triển xã hội. Mặt khác, trong lý luận giáo dục hiện đại cũng chỉ ra rằng: giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất nhân cách, năng lực như yêu cầu đề ra.

Xét theo quan điểm của các nhà giáo dục học, thì giáo dục là một quá trình tổng thể của các hoạt động dạy học, giáo dục, phát triển nhân cách và là quá trình chuẩn bị tâm lý cho sinh viên được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch, dựa trên những cơ sở của khoa học giáo dục nhằm hình thành phẩm chất nhân cách và năng lực theo yêu cầu của xã hội.

Giáo dục đạo đức là nhằm hình thành và phát triển ý thức đạo đức và thói quen hành vi đạo đức của con người. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về cái thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng; về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.

Thói quen hành vi đạo đức thuộc hoạt động của con người, chịu ảnh hưởng của niềm tin, ý thức đạo đức, là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức. Sự hình thành thói quen hành vi đạo đức phải thông qua quá trình giáo dục nâng cao nhận thức về đạo đức, có thái độ, niềm tin đạo đức và đặc biệt là phải thông qua quá trình kiên trì rèn luyện để các hành vi đạo đức trở thành thói quen, trở thành phẩm chất bền vững.

Ý thức, niềm tin đạo đức và hành vi đạo đức luôn có quan hệ biện chứng, tạo nên bản chất đạo đức của con người. Ý thức, niềm tin đạo đức là điều kiện, là cơ sở tâm lí cho việc thực hiện hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức là sự thể hiện ý thức, niềm tin đạo đức trong thực tiễn, là thước đo sự phát triển ý thức đạo đức và nhân cách đạo đức nói chung. Nếu không có hành vi đạo đức và thói quen hành vi đạo đức thì ý thức đạo đức không đem lại cho xã hội những giá trị, những lợi ích, những tiến bộ và như vậy ý thức đạo đức sẽ không mang tính thực tiễn.

Thói quen hành vi đạo đức của sinh viên là kết quả của cả một quá trình rèn luyện lâu dài của mỗi cá nhân, đồng thời cũng là kết quả của hệ thống các tác động giáo dục lên các thành tố của quá trình giáo dục (như mục tiêu giáo dục; nhà giáo dục; đối tượng giáo dục; nội dung giáo dục; phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục, phương tiện giáo dục; kết quả giáo dục).

Các thành tố của quá trình giáo dục có mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau, hướng vào việc không ngừng nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, ý chí và hình thành thói quen hành vi đạo đức của sinh viên.

Từ cơ sở lý luận như trên, có thể hiểu: Quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu là hoạt động có mục đích, có tổ chức, thông qua hệ thống các tác động liên tục của nhà giáo dục đến đối tượng giáo dục, hướng vào việc nâng cao nhận thức, tạo lập niềm tin đạo đức, nhằm hình thành thói quen hành vi đạo đức, góp phần xây dựng phẩm chất nhân cách toàn diện cho sinh viên, đáp ứng mục tiêu giáo dục của Nhà trường.

1.1.3. Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu

Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu là một bộ phận của quản lý giáo dục – đào tạo, một khâu quan trọng trong quy trình quản lý giáo dục – đào tạo, là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý, nhằm điều khiển, hướng dẫn, rèn luyện những thói quen hành vi đạo đức phù hợp với quy luật khách quan và đạt được mục tiêu theo yêu cầu giáo dục, đào tạo. Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Về thuật ngữ “quản lý”, theo từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là trông coi, giữ gìn theo những yêu cầu nhất định”, “quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [47, tr.772].

Khi bàn về thuật ngữ trên, tác giả Trần kiểm đã đưa ra khái niệm tổng quát, dùng cho cả quá trình quản lý xã hội, quản lý giới vô sinh. Một số tác giả khác lại phân chia quản lý giáo dục thành hai cấp độ là vĩ mô và vi mô.

cấp độ vĩ mô, quản lý giáo dục có thể hiểu là những tác động tự giác, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống của chủ thể quản lý đến tất cả các khâu của hệ thống từ cấp cao nhất đến tất cả các cơ sở giáo dục, nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ.

cấp độ vi mô, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, nhân viên, học sinh, phụ huynh học sinh, nhằm thực hiện có hiệu quả, đạt tới mục tiêu giáo dục của nhà trường.

Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu là quản lý ở cấp độ trường học, quản lý giáo dục ở cấp vi mô, thuộc phạm trù quản lý nguồn nhân lực giáo dục ở nhà trường. Quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên được tổ chức một cách chặt chẽ, vừa theo Luật Giáo dục, vừa theo Điều lệ, quy chế của Nhà trường. Công tác quản lý đó càng không thể tách rời quản lý các nội dung học tập khác như văn hoá, chính trị, thể chất, thẩm mĩ; giữa chúng có sự đan xen với nhau, quy định lẫn nhau, bổ sung cho nhau nhằm giáo dục phẩm chất nhân cách toàn diện cho sinh viên.

Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên không chỉ bó hẹp trong phạm vi duy trì công tác hành chính, quản lý một số bài học về đạo đức công dân mà điều cơ bản là phải thông qua các hoạt động đa dạng trong Nhà trường, nhằm nâng cao nhận thức, xây dựng niềm tin và rèn luyện để hình thành các thói quen hành vi đạo đức của mỗi sinh viên. Sinh viên ở đây không chỉ đơn thuần là đối tượng chịu sự tác động của chủ thể quản lý mà còn là chủ thể tự quản lý thông qua các hoạt động tự giáo dục nâng cao nhận thức về đạo đức và tự rèn luyện, tự kiểm tra, đánh giá kết quả rèn luyện thói quen hành vi đạo đức của bản thân.

Từ những quan niệm như trên, chúng ta có thể hiểu: Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu là sự tổ chức, điều khiển của chủ thể quản lý đối với sự vận hành của quá trình giáo dục, rèn luyện nhằm hình thành các thói quen hành vi đạo đức của sinh viên, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục của nhà trường.

Như vậy, quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên là những tác động quản lý có kế hoạch, có chỉ đạo, tổ chức và kiểm soát của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý, nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác lĩnh hội tri thức và rèn luyện các thói quen hành vi đạo đức để hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách cho sinh viên theo mục tiêu yêu cầu đào tạo của Nhà trường.

Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên không tách rời quá trình tự quản lý, tự giáo dục, tự rèn luyện của sinh viên; trong đó sinh viên không chỉ là đối tượng chịu sự tác động của chủ thể quản lý mà sinh viên còn là chủ thể tự quản lý hoạt động rèn luyện thói quen hành vi đạo đức.

Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên là những tác động có tính hướng đích, có mục tiêu cụ thể, song không tách rời quản lý các nội dung rèn luyện thói quen hành vi về văn hóa, pháp luật, kỷ luật, thẩm mĩ …

1.2. Nội dung quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên diễn ra với tư cách là một quá trình, nên trong đó bao gồm các thành tố cơ bản hợp thành như: nhà giáo dục, đối tượng giáo dục, mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục và kết quả giáo dục.

Quản lý mục tiêu giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên: đó là việc xây dựng mục tiêu, quán triệt mục tiêu đối với các lực lượng giáo dục trong nhà trường, trên cơ sở đó tổ chức một cách khoa học quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức cho sinh viên nhằm đạt tới mục tiêu đã xác định. Mục tiêu được xem là trạng thái mong muốn, được hình dung trước, mang tính khả thi trong tương lai. Với hoạt động quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên, việc xác định mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu, bởi nó định hướng, chi phối tới nội dung giáo dục, phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục và kết quả giáo dục.

Quản lý nhà giáo dục: nhà giáo dục chính là các lực lượng giáo dục của nhà trường, các Phòng, Khoa, Tổ bộ môn, chủ nhiệm lớp. Các Phòng, Khoa, Tổ có nhiệm vụ quản lý, tham mưu cho Đảng ủy, ban Giám hiệu nhà trường để quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên diễn ra theo đúng kế hoạch. Người trực tiếp quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên là giáo viên chủ nhiệm, giảng viên và ban cán sự lớp. Đặc biệt, giáo viên chủ nhiệm và ban cán sự lớp là lực lượng trực tiếp tổ chức quá trình giáo dục và kiểm tra ý thức, hành vi của sinh viên.

Ngoài ra, các tổ chức đoàn thể, quần chúng cũng giữ vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên như: Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên, Hội Liên hiệp thanh niên… Quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, các lực lượng giáo dục trong nhà trường để quản lý, giáo dục và rèn luyện thói quen hành vi đạo đức cho sinh viên.

Quản lý đối tượng giáo dục: đối tượng giáo dục thói quen hành vi đạo đức là sinh viên trong nhà trường. Thông qua quá trình học tập và tham gia phong trào do các tổ chức đoàn thể phát động, sinh viên được trau dồi và rèn luyện thói quen hành vi đạo đức. Yêu cầu đặt ra là, các lực lượng giáo dục phải nắm được số lượng, chất lượng học tập, rèn luyện, đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi, điều kiện kinh tế của gia đình sinh viên để phân loại và có những hình thức, biện pháp quản lý, giáo dục phù hợp. Đặc biệt, phải nắm chắc các mặt hoạt động, đồng thời chỉ đạo, tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động chặt chẽ. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, động viên, khích lệ những nhân tố tích cực; uốn nắn kịp thời những biểu hiện không lành mạnh trong ý thức và hành vi đạo đức của sinh viên. Vấn đề đặt ra là, các lực lượng giáo dục phải phát huy được ý thức tự giác rèn luyện các thói quen hành vi đạo đức của sinh viên, hướng vào việc phát triển nhân cách toàn diện cho sinh viên.

Quản lý nội dung giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên: là quản lý hệ thống tri thức, các giá trị, chuẩn mực đạo đức, các thói quen hành vi cần rèn luyện cho sinh viên. Điều đó được thực hiện từ khâu xây dựng chương trình, nội dung giáo dục đến khâu triển khai kế hoạch, phân công, phân cấp tổ chức thực hiện. Các lực lượng giáo dục phải quán triệt sâu sắc mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục để tổ chức thực hiện đầy đủ và hiệu quả. Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Nội dung giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên phải mang tính khoa học và có tính định hướng chính trị, tư tưởng. Nội dung giáo dục thói quen hành vi đạo đức cho sinh viên cần tập trung vào những nội dung đạo đức sau: những giá trị chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc; những giá trị và chuẩn mực đạo đức con người mới theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; những giá trị và chuẩn mực đạo đức theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin; những giá trị chuẩn mực đạo đức của con người hiện đại trên cơ sở tiếp thu tinh hoa đạo đức của nhân loại để sinh viên có thể hội nhập với văn hóa thế giới trong xu thế toàn cầu hóa. Các nội dung trên phải luôn bám sát mục tiêu giáo dục nói chung và mục tiêu giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên. Nội dung giáo dục phải được phân bổ hợp lý, được thực hiện từ dễ đến khó, từ tiếp thu những kiến thức để hình thành ý thức cho đến hành vi, trở thành thói quen trong sinh hoạt, học tập của sinh viên.

Quản lý phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện giáo dục: phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên bao gồm những cách thức tác động, cách thức tổ chức sắp xếp, qua đó nhà giáo dục điều khiển đối tượng giáo dục bằng những công cụ, phương tiện để đạt được mục tiêu quản lý. Vấn đề đặt ra là, đòi hỏi các lực lượng giáo dục phải tìm ra các hình thức, phương pháp giáo dục thích hợp, nhất là cần đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục theo hướng hiện đại và sử dụng các phương tiện giáo dục tiên tiến để tác động một cách hiệu quả vào nhận thức, tình cảm, ý chí và hành vi của sinh viên nhằm hình thành các thói quen hành vi đạo đức cho họ.

Quản lý kết quả giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên: kết quả giáo dục thói quen hành vi đạo đức là mức đạt được về độ vững chắc của các thói quen hành vi đạo đức của sinh viên đáp ứng mục tiêu đề ra. Đó chính là thước đo, đánh giá kết quả của quá trình giáo dục; đó cũng là sự kết tinh thành quả lao động sư phạm của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục.

Kết quả giáo dục cần phải được nắm chắc thông qua báo cáo của ban cán sự lớp, giáo viên chủ nhiệm, Ban chấp hành chi đoàn về xếp loại sinh viên, xếp loại đoàn viên; báo cáo sơ kết, tổng kết của khoa chuyên môn, đoàn khoa; báo cáo tổng kết của phòng Công tác chính trị và quản lý sinh viên, phòng Đào tạo, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp Thanh niên, Hội Sinh viên trong nhà trường. Trên cơ sở kết quả giáo dục, cần nhìn nhận đánh giá, đối chiếu với mục tiêu đặt ra để có sự điều chỉnh, rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện, đưa quá trình giáo dục phát triển đúng hướng, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của nhà trường. Đối với người quản lý, cần có quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục thói quen hành vi đạo đức để quá trình này phải được tiến hành một cách công bằng, khách quan, nghiêm túc, đúng quy trình, đúng thực chất, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nhà trường.

1.3. Những nhân tố cơ bản tác động đến quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

1.3.1. Sự tác động từ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội

Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, kinh tế – xã hội phát triển, chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được củng cố, tăng cường; vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế; đời sống vật chất và tinh thần của đa số tầng lớp nhân dân được cải thiện. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã làm cho con người trở nên năng động, sáng tạo và nhạy bén, tích cực hơn trong lao động sản xuất, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đứng trước những yêu cầu mới đặt ra cho đất nước, Đảng đã chủ trương đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tiêu cực về đạo đức, lối sống.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân” [9, tr.257].

Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có tác động mạnh mẽ đến đến nhận thức, tình cảm, trách nhiệm, hành vi của mọi người, trong đó có lớp trẻ sinh viên. Vì vậy, trong quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên, cần quán triệt và thực hiện tốt các nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thực hiện lời dạy của Người: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật; sống nhân ái, đoàn kết, mình vì mọi người, gần gũi, chân tình với nhau, học tập lẫn nhau, có trách nhiệm với nhau trong quá trình học tập, rèn luyện; thẳng thắn trong tự phê bình và phê bình theo gương Bác.

Những vấn đề trên tác động không nhỏ đến nguyện vọng, động cơ học tập, ý thức đạo đức, lối sống của sinh viên; đòi hỏi phải tăng cường giáo dục lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy chế, quy định của Bộ giáo dục và Nhà trường cho sinh viên.

1.3.2. Sự tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước, phù hợp với thực tiễn đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước ta.

Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động tiêu cực, kéo theo các tệ nạn xã hội, gây nên những hậu quả, làm nảy sinh lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, làm giàu bằng mọi giá, làm tha hoá những chuẩn mực, giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, của con người Việt Nam và xâm hại đến lối sống xã hội chủ nghĩa. Chỉ vì lợi ích cá nhân, tiền tài, địa vị đã làm cho không ít người xa rời mục tiêu lý tưởng, sa đọa về đạo đức; chỉ biết bon chen, lo cho bản thân, đi ngược lại lợi ích cộng đồng… Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá XI đã chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… ” [10, tr.22].

Thực tế đó đã tác động từng ngày từng giờ đến thế lớp trẻ, trong đó có sinh viên ở các nhà trường nói chung, Trường đại học Bạc Liêu nói riêng. Vấn đề đó đặt ra cho công tác quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức cho sinh viên: Làm thế nào để phát huy những điều kiện thuận lợi, đồng thời phải có những phương thức thích hợp để hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường.

1.3.3 Sự tác động từ mục tiêu, yêu cầu giáo dục toàn diện cho sinh viên

Đảng ta coi phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ là yếu tố cơ bản cho phát triển của đất nước, là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đường lối này hoàn toàn phù hợp khi mà ngày nay sức mạnh cạnh tranh của các quốc gia phụ thuộc phần lớn vào tiềm năng trí tuệ mà quốc gia đó có được. Đối với nước ta, việc đào tạo một đội ngũ trí thức đông đảo, có trình độ cao là nhiệm vụ vô cùng quan trọng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển lâu bền của đất nước.

Trong bối cảnh hội nhập, việc tăng tốc để rút ngắn khoảng cách giữa nước ta và các nước phát triển khiến những đòi hỏi về chất lượng giáo dục càng bức xúc hơn bao giờ hết, đặc biệt là đối với giáo dục đại học. Luật giáo dục 2018 đã xác định: Mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Từ mục tiêu trên, rõ ràng giáo dục đại học có sứ mạng hết sức quan trọng. Giáo dục đại học phải tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Ngoài kiến thức chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp thì những yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức cần phải có như: yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức về độc lập chủ quyền của đất nước, nhân ái, vị tha, khoan dung, có lương tâm, trách nhiệm với nghề nghiệp, với gia đình và xã hội… bởi đây là những yếu tố hết sức cần thiết ở một con người, bất kể là làm nghề gì, ở vị thế nào trong xã hội. Xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam là nhiệm vụ của toàn xã hội, nhưng nhà trường phải đóng vai trò tiên phong và nền tảng.

Mục tiêu, yêu cầu giáo dục toàn diện đối với sinh viên đòi hỏi phải có sự thay đổi trong xây dựng nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo ở bậc đại học mà trong đó có những yêu cầu đối với giáo dục đại học nói chung, thói quen hành vi đạo đức của sinh viên nói riêng. Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Trong quá trình đào tạo, sinh viên không chỉ được giáo dục ở thời gian chính khóa mà còn được Nhà trường tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa, nghe báo cáo chuyên đề, tham quan thực tế; tổ chức các câu lạc bộ, diễn dàn và các hoạt động xã hội khác. Từ đó, ngoài thời gian học tập sinh viên còn được tham gia vào sân chơi bổ ích, lành mạnh, tránh bị tiêm nhiễm bởi những thói hư tật xấu ở bên ngoài truyền vào; có cơ hội để rèn luyện, chủ động trong học tập, nâng cao đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng mềm… cho sinh viên. Qua đó, nêu cao vai trò ý thức công dân của sinh viên đối với sự phát triển địa phương, đất nước cũng như đối với chính bản thân mình.

1.4. Thực trạng quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu

1.4.1. Đặc điểm quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên

Trường đại học Bạc Liêu được thành lập từ tháng 11/2019 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2020. Đến nay, Trường đã cơ bản hoàn thiện về bộ máy tổ chức, từng bước phát triển vững chắc về các lĩnh vực: Tuyển sinh đào tạo trình độ đại học, cao đẳng; liên kết với các trường và học viện đào tạo đại học, sau đại học; bồi dưỡng, cấp chứng chỉ tin học, ngoại ngữ.

Trường hiện có 6 phòng , 4 khoa, 4 tổ bộ môn và 2 trung tâm trực thuộc với 287 cán bộ, giảng viên và nhân viên. Trong đó có 215 người có trình độ đại học trở lên (4 tiến sĩ; 10 nghiên cứu sinh; 118 thạc sĩ và 33 giảng viên đang học cao học).

Trường có 4.904 sinh viên đang học ở 11 ngành đại học, 6 ngành cao đẳng. Trường còn liên kết với các trường đại học trong khu vực và Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội để đào tạo 11 ngành đại học, cao học mà trường chưa đủ điều kiện đào tạo.

Hoạt động phong trào của các đoàn thể được Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường quan tâm, góp phần giáo dục lý tưởng, đạo đức lối sống cho sinh viên, tạo điều kiện cho họ tham gia các hoạt động cộng đồng nhằm xây dựng môi trường thân thiện giữa nhà trường và xã hội. Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Qua hơn 5 năm hoạt động, trường đại học Bạc Liêu đã phát triển ổn định về mọi mặt và tạo được các tiền đề phát triển bền vững để sớm trở thành một nơi vừa đào tạo nguồn nhân lực có trình độ đại học, sau đại học vừa là trung tâm văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ của khu vực bán đảo Cà Mau.

Về đối tượng đào tạo: là những học sinh tốt nghiệp phổ thông, tuổi đời từ 18 đến 22, xuất thân từ các thành phần khác nhau trong xã hội, chịu ảnh hưởng lớn của phong tục, tập quán, lối sống, cách sống, thói quen sinh hoạt của địa phương, vùng miền. Hầu hết tuổi đời còn trẻ, đây là lứa tuổi năng động, nhạy bén, có khả năng tiếp thu nhanh, khả năng tư duy linh hoạt, có thể thích ứng với những khó khăn thử thách. Sinh viên là lớp người đã và đang đang trưởng thành về mặt nhân cách; đã có sự phát triển khá hoàn thiện về mặt thể chất. Tuy nhiên một số nét tính cách chưa ổn định, vốn sống, kinh nghiệm còn ít, kỹ năng sống còn thiếu; năng lực chuyên môn đang từng bước hình thành. Nhìn chung, sinh viên chưa được rèn luyện nhiều; còn có biểu hiện tính nông nổi, thiếu kiềm chế, bồng bột, thậm chí manh động. Về khả năng chọn lọc tiếp thu, lĩnh hội các giá trị và định hướng giá trị còn nhiều hạn chế, nhất là những giá trị, chuẩn mực đạo đức.

Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên ở Trường đại học Bạc Liêu luôn chịu sự tác động từ các yếu tố kinh tế, chính trị, tinh thần, phong tục, tập quán địa phương ( nhất là đặc điểm của miền Tây Nam bộ); đặc biệt là sự tác động từ mục tiêu giáo dục và môi trường giáo dục của Nhà trường.

Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên, diễn ra trong môi trường giáo dục của Nhà trường, gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ, nội dung giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống, thẩm mỹ, thể chất, pháp luật, quy định, nội quy nhà trường. Đây là quá trình khó khăn, phức tạp, lâu dài đòi hỏi sự kiên trì nhẫn nại, tâm huyết, ý chí, nỗ lực và trách nhiệm cao của nhà giáo dục, các chủ thể quản lý.

Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên không tách rời với quá trình giáo dục đạo đức con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Do đó, nội dung giáo dục thói quen hành vi đạo đức cho sinh viên phải luôn bám sát theo những định hướng giá trị truyền thống dân tộc, những chuẩn mực đạo đức mới xã hội chủ nghĩa, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa, đạo đức của nhân loại.

Nhận diện được các đặc điểm trên đây đòi hỏi các nhà giáo dục, các chủ thể quản lý giáo dục trong nhà trường cần có phương hướng, cách thức phát huy cao nhất những ưu thế, những điều kiện thuận lợi. Mặt khác, cần có biện pháp hữu hiệu, khắc phục những khó khăn, cản trở, không thuận chiều, nhằm điều khiển, hướng dẫn, rèn luyện những thói quen hành vi đạo đức của sinh viên, đáp ứng tốt nhất mục tiêu, yêu cầu giáo dục của Nhà trường.

1.4.2. Thực trạng quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu hiện nay Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

  • Một là, Thực trạng tổ chức quá trình giáo dục nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, niềm tin đạo đức cho sinh viên.

Đánh giá nhận thức của sinh viên về các giá trị, chuẩn mực đạo đức là cơ sở để cán bộ, quản lý, các lực lượng giáo dục xây dựng kế hoạch tổ chức, giáo dục nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, niềm tin đạo đức cho sinh viên. Trả lời câu hỏi về mức độ cần thiết của những giá trị, chuẩn mực đạo đức (phụ lục 3, bảng 4b) thì giảng viên, cán bộ quản lý và phần đông sinh viên đều cho rằng rất cần và cần. Như vậy, chủ thể quản lý và đối tượng quản lý đều có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của đạo đức trong đời sống xã hội.

Tuy nhiên, cùng với những ưu điểm nhận thức sự cần thiết về các giá trị, chuẩn mực đạo đức thì vẫn còn một bộ phận sinh viên cho rằng những giá trị, chuẩn mực đạo đức được nêu ra là không cần thiết.

Điều đó cho thấy, những tiêu cực của xã hội phần nào đã ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên, ở họ đã xuất hiện những dấu hiệu coi trọng vật chất, chạy theo đồng tiền, coi nhẹ giá trị tinh thần, cá nhân chủ nghĩa, thiếu sự tôn trọng lợi ích tập thể, ngại khó, ngại khổ trong học tập và rèn luyện. Những biểu hiện tiêu cực này, tuy chưa nhiều nhưng nó đã ảnh hưởng đến môi trường đạo đức của nhà trường, nếu không kịp thời khắc phục ngay từ trong nhận thức thì sẽ gây nên những tác hại đến việc bồi dưỡng tình cảm, niềm tin đạo đức của sinh viên, ảnh hưởng đến công tác giáo dục của Nhà trường.

Từ thực tế trên, tổ chức giáo dục nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, niềm tin đạo đức của sinh viên là công việc hết sức cần thiết. Trong các Nghị quyết của Đảng ủy, báo cáo của Ban Giám hiệu và các Phòng, Khoa, Tổ đều nhấn mạnh đến vai trò và sự cần thiết phải tăng cường nâng cao nhận thức bồi dưỡng tình cảm, niềm tin đạo đức vào các giá trị, chuẩn mực đạo đức của xã hội, xác định rõ đạo đức là một thành tố quan trọng cấu thành phẩm chất nhân cách và là nội dung không thể thiếu trong quá trình đào tạo của nhà trường. Trả lời câu hỏi về vai trò của giáo dục nâng cao nhận thức bồi dưỡng tình cảm, niềm tin đạo đức cho sinh viên đối với quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên. Có 80,0% cán bộ, giảng viên cho rằng rất quan trọng, 20,0% cho rằng quan trọng; cùng câu hỏi này có 29,0% sinh viên cho là rất quan trọng, 69,0% cho rằng quan trọng và 2,0% sinh viên cho là bình thường.

Như vậy, cán bộ quản lý các cấp, giảng viên, sinh viên đã có nhận thức đúng đắn và trách nhiệm cao đối với việc nâng cao nhận thức cho sinh viên về tình cảm, niềm tin vào các giá trị, chuẩn mực đạo đức.

Tuy nhiên, trong tổ chức tiến hành, nhà trường có lúc chưa thực sự coi trọng giáo dục nâng cao nhận thức cho sinh viên về các giá trị, chuẩn mực đạo đức để bồi dưỡng tình cảm, niềm tin đạo đức ở họ. Bên cạnh đó, năng lực của một số giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên chưa cao, chưa cập nhật kịp thời các thông tin thực tiễn, nhất là những vấn đề chính trị xã hội phức tạp. Việc giáo dục nâng cao nhận thức cho sinh viên về các giá trị, chuẩn mực đạo đức chủ yếu qua môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh và thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; việc giáo dục nhận thức cho sinh viên về các giá trị, chuẩn mực đạo đức khác thì mức độ không thường xuyên là chủ yếu (phụ lục 3:bảng 4a, 4b), số ít giảng viên và sinh viên cho rằng một số giá trị, chuẩn mực đạo đức không được thực hiện trong quá trình giáo dục.

  • Hai là, thực trạng tổ chức, rèn luyện các thói quen hình vi đạo đức của sinh viên. Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Trước yêu cầu ngày một cao của sự nghiệp đổi mới đất nước, phần đông sinh viên đều thể hiện tinh thần xung kích, nêu cao ý thức học tập, rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, phẩm chất đạo đức, đáp ứng đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ mới. Tổng hợp thăm dò ý kiến đối với giảng viên khi đánh giá tình hình rèn luyện thói quen hành vi đạo đức của sinh viên thì nhận được kết quả tốt và tương đối tốt ở một số nội dung (phụ lục 3: bảng 6). Tuy nhiên, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi, nhân cách và hoàn cảnh sống của sinh viên nên ý thức giữ gìn của công, chấp hành các quy định, quy chế chưa thật tốt. Một bộ phận không nhỏ sinh viên thiếu ý chí phấn đấu, nỗ lực vượt khó trong học tập, rèn luyện. Nguyên nhân ảnh hưởng nhiều đến quá trình giáo dục, rèn luyện thói quen hành vi đạo đức của sinh viên chủ yếu là: do nhận thức không đầy đủ về vai trò của đạo đức; do không được học tập, rèn luyện một cách đầy đủ, thường xuyên và các nguyên nhân khác (phụ lục 3: bảng 2b).

Vì vậy, thời gian qua, nhà trường đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực tạo điều kiện để sinh viên học tập và rèn luyện như: đưa ra quy định “Mười điều sinh viên không được làm”, phát động phong trào xây dựng văn hóa học đường; tổ chức, phát động các phong trào thi đua học tập trong sinh viên, biểu dương những tấm gương vượt khó trong học tập; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, những hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao…

Tuy nhiên, việc tổ chức các hoạt động chưa mang tính liên tục, chỉ tập trung tổ chức vào những tháng cao điểm, những ngày lễ lớn, còn thời gian khác thì không được quan tâm thực hiện. Nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức chưa được đổi mới, chưa sát với nhu cầu học tập, rèn luyện, vui chơi giải trí của sinh viên, còn nặng nề về giáo dục tập thể, chuyên đề có tính gò ép, chưa kết hợp được với các hình thức bổ trợ, thông tin một chiều mang tính áp đặt. Qua khảo sát cho thấy, 90% ý kiến cán bộ giảng viên cho rằng thường xuyên tổ chức rèn luyện thói quen hành vi đạo đức thông qua hoạt động dạy học trên lớp (phụ lục 3, bảng 3a), còn với những hoạt động khác được tổ chức không thường xuyên nên hiệu quả giáo dục, rèn luyện đối với sinh viên chưa cao.

Như vậy, nhà trường chưa thực sự quan tâm đến việc thực hiện các nội dung, hình thức giáo dục thói quen hành vi đạo đức cho sinh viên. Việc vận dụng các hình thức, phương pháp giáo dục còn lúng túng, thiếu linh hoạt, hiệu quả không cao, công tác giáo dục nâng cao nhận thức chính trị, phổ biến, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các giá trị, chuẩn mực đạo đức cho sinh viên mới chỉ ở dạng lên lớp của giảng viên, báo cáo viên mà chưa có sự kết hợp với việc tổ chức các hoạt động thực tiễn cho sinh viên nhằm vận dụng kiến thức đã học vào việc giải quyết những vấn đề chính trị xã hội đang diễn ra.

Từ những hạn chế, tồn tại trong công tác tổ chức giáo dục, rèn luyện thói quen hành vi đạo đức của sinh viên, một bộ phận sinh viên đã có những biểu hiện dao động, chưa nỗ lực vượt khó vươn lên trong học tập và rèn luyện, có những trường hợp sinh viên vi phạm nội quy, quy chế phải xử lý kỷ luật. Tổng hợp kết quả thăm dò ý kiến cho thấy có 1,0% sinh viên vi phạm quy chế thi thường xuyên và 7,5% không thường xuyên ; có 12,5% sinh viên đến lớp muộn, bỏ giờ, nghỉ học không lý do, không xin phép một cách thường xuyên và 27,5% không thường xuyên; có 10% sinh viên ăn mặc không đúng quy định đồng phục một cách thường xuyên và 32,5% là không thường xuyên; có 36,5% sinh viên thường xuyên có tư tưởng trung bình chủ nghĩa trong học tập và rèn luyện, 45,5% là không thường xuyên; có 6,0% sinh viên thường xuyên có tư tưởng cá nhân chủ nghĩa và 46,0% không thường xuyên; có 2,5% sinh viên có biểu hiện mất đoàn kết thường xuyên và 32,5% không thường xuyên; có 40,0% sinh viên còn lãng phí thời gian học tập thường xuyên và 41% không thường xuyên, có 7,5% sinh viên lãng phí khi sử dụng tài sản công thường xuyên và 30,0% không thường xuyên; có 2,0% sinh viên có biểu hiện bất nhã trong giao tiếp thường xuyên và 12,5% không thường xuyên; có 3,5% sinh viên có lối sống buông thả, thực dụng một cách thường xuyên và 17,5% là không thường xuyên; có 3,0% sinh viên thờ ơ với thời cuộc, vô cảm một cách thường xuyên và 21,0% là không thường xuyên; có 1,0% sinh viên có tham gia tệ nạn xã hội thường xuyên và 5,0% là không thường xuyên.

  • Ba là, thực trạng xây dựng môi trường giáo dục của nhà trường Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Thời gian qua, nhà trường rất quan tâm xây dựng môi trường giáo dục một cách toàn diện: chính trị, đạo đức lối sống, nghề nghiệp, đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa…và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Cán bộ, giảng viên luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới sẽ đi đến thắng lợi, yên tâm công tác, nỗ lực phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; có ý thức tu dưỡng rèn luyện về đạo đức lối sống trở thành tấm gương để sinh viên noi theo; đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và giảng viên đã được cải thiện và nâng lên đáng kể tạo nên tâm lý phấn khởi ở cán bộ, giảng viên trong nhà trường. Bên cạnh đó, nhà trường luôn quan tâm xây dựng môi trường lành mạnh trong nhà trường, khuyến khích mọi người sống đẹp, sống có văn hóa, xây dựng văn hóa học đường, xây dựng trường là đơn vị đạt chuẩn văn hóa, hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực, tệ nạn xã hội tác động đến quá trình giáo dục – đào tạo của nhà trường. Đồng thời, được sự quan tâm của Bộ Giáo dục – Đào tạo, Uỷ ban nhân dân Tỉnh Bạc Liêu, nhà trường đã triển khai thi công các công trình xây dựng như phòng học, ký túc xá sinh viên; sửa chữa, nâng cấp nơi làm việc, phòng học cũ; trang bị cơ sở vật chất, phương tiện dạy học hiện đại; vệ sinh, cảnh quan môi trường có nhiều chuyển biến tích cực.

Tuy nhiên, việc xây dựng môi trường giáo dục còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém. Quan hệ giữa các Phòng, Khoa, Tổ, các bộ phận trong nhà trường chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong công việc, quan hệ cấp trên – cấp dưới; cán bộ giảng viên với giảng viên; quan hệ giảng viên với sinh viên đôi lúc chưa đúng mực, chưa có tính mô phạm cao. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng như: thiếu giảng đường, phòng học, thiếu máy chiếu, thiết bị âm thanh; thiếu sách báo chuyên ngành để phục vụ dạy học. Điều kiện công tác, học tập của cán bộ, giảng viên và sinh viên còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, giảng viên và sinh viên chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của môi trường giáo dục đối với sự phát triển nhân cách của con người nên chưa tích cực trong xây dựng môi trường giáo dục trong sạch, lành mạnh. Những biểu hiện lệch lạc, tiêu cực vẫn còn tồn tại trong tập thể cán bộ, giảng viên và sinh viên, ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng môi trường giáo dục của nhà trường.

  • Bốn là, thực trạng của việc tổ chức, phối hợp giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội trong quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên.

Nhận thức được vai trò quan trọng của các lực lượng giáo dục (nhà trường, gia đình, xã hội) trong giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên, thời gian qua nhà trường luôn phát huy vai trò trung tâm trong phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường. Nhà trường đã xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, sâu sát với địa phương nơi trường đặt trụ sở giáo dục, nơi sinh viên trọ học, vì vậy luôn nắm bắt kịp thời những thông tin liên quan đến giáo dục sinh viên. Nhà trường đã đưa nội dung, mục tiêu giáo dục trong nhà trường đến các tổ chức xã hội trong địa phương. Bên cạnh đó, nhà trường tích cực, mạnh dạn trong việc vận động các tổ chức đoàn thể xã hội, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài địa phương hỗ trợ cho các hoạt động giáo dục để tăng cường cơ sở vật chất của trường; phối hợp với địa phương tổ chức cho sinh viên tham gia các hoạt động văn hóa – xã hội: đền ơn đáp nghĩa, mùa hè tình nguyện, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội…..Thông qua ban cán sự lớp, giáo viên chủ nhiệm, nhà trường đã có sự phối hợp tốt trong giải quyết, xử lý những vấn đề liên quan đến tình trạng sinh viên vi phạm nội quy nhà trường, nghỉ học, bỏ học vì nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân liên quan đến gia đình.

Tuy nhiên, những hoạt động phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội cũng chưa đạt hiệu quả cao. Nhà trường chưa có chiến lược, kế hoạch phối hợp hoặc nếu có thì chưa đạt được mục đích và mục tiêu đề ra. Mối quan hệ giữa nhà trường – gia đình – xã hội còn nhiều hạn chế, các hoạt động phối hợp chỉ mang tính “mùa vụ” hướng vào các ngày lễ, các sự kiện…. mà chưa có sự phối hợp thường xuyên, đồng bộ trong quá trình giáo dục nhận thức và thói quen hành vi đạo đức cho sinh viên.

1.4.3. Nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế trong quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên trường Đại học Bạc Liêu Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

  • Nguyên nhân của những ưu điểm

Thứ nhất, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục – đào tạo, nhà trường được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, có hiệu quả từ Bộ Giáo dục – Đào tạo, Uỷ ban nhân dân Tỉnh Bạc Liêu. Trên cơ sở đó, nhà trường đã quán triệt về mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục – đào tạo đến cán bộ, giảng viên và sinh viên để xây dựng động cơ, ý thức trách nhiệm trong quản lý, giảng dạy, học tập. Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ đối với nhiệm vụ giáo dục – đào tạo của nhà trường.

Thứ hai, các Phòng, Khoa, Tổ chủ động, sáng tạo trong góp ý, đề xuất, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ trong tổ chức thực hiện giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên phù hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên và điều kiện của nhà trường.

Thứ ba, nhà trường đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng giáo dục, nêu cao được tinh thần trách nhiệm, ý thức đoàn kết của cán bộ, giảng viên nhà trường, cùng nhau nỗ lực khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ trong tổ chức, quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên.

  • Nguyên nhân của những hạn chế:

Thứ nhất, chủ nghĩa Đế quốc và các thế lực thù địch đang dùng mọi âm mưu, thủ đoạn hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thông qua nhũng phương tiện thông tin đại chúng, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, nhồi nhét tư tưởng, đạo đức, lối sống thiếu lành mạnh; đưa ra các chiêu bài “dân chủ”, “tự do”, “nhân quyền” kiểu Phương Tây, hòng truyền bá lối sống thực dụng, đề cao chủ nghĩa cá nhân,…. Bên cạnh đó, mặt trái của kinh tế thị trường cùng với sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên đã tác động đến nhận thức, tâm tư, tình cảm của cán bộ, giảng viên, kể cả sinh viên trong nhà trường.

Thứ hai, năng lực tổ chức giáo dục của các lực lượng giáo dục trong nhà trường, nhìn chung còn hạn chế. Qua tìm hiểu thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ quản lý qua đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về công tác quản lý còn chiếm tỉ lệ thấp; kinh nghiệm quản lý, trình độ, năng lực, phương pháp quản lý, tổ chức còn hạn chế. Một số cán bộ quản lý có biểu hiện tự mãn, bằng lòng với thực tại, chưa tích cực tu dưỡng, rèn luyện, đổi mới phương pháp công tác. Công tác quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên có lúc còn buông lỏng. Quản lý nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục đôi lúc còn rập khuôn, máy móc, thiếu khoa học, chưa phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đào tạo và đòi hỏi của thực tiễn.

Thứ ba, cơ sở vật chất kỹ thuật và phương tiện giáo dục còn thiếu thốn, chưa đảm bảo, chưa đáp ứng được yêu cầu dạy học, giáo dục. Ngoài ra, chế độ kiêm nhiệm đối với lực lượng quản lý chưa thật thỏa đáng nên họ chưa dành hết thời gian và tâm huyết cho công tác quản lý. Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

Thứ tư, vai trò của các tổ chức, các lực lượng quản lý chưa được phát huy đến mức cao nhất. Việc xác định và huy động các nguồn lực tham gia thực hiện công tác quản lý còn chưa hợp lý. Sự phối hợp giữa các Phòng, Khoa, Tổ, giảng viên và ban cán sự lớp chưa được tiến hành thường xuyên, trong khi phối hợp có lúc xảy ra tình trạng chưa nhịp nhàng, đồng bộ.

Thứ năm, một bộ phận sinh viên chưa thực sự tích cực, chủ động, tự giác trong rèn luyện thói quen hành vi đạo đức; xuất phát từ chỗ chưa nhận thức đầy đủ vai trò, nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của bản thân trong học tập và rèn luyện, chưa quán triệt sâu sắc mục tiêu đào tạo. Vì vậy, họ không nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn để tu dưỡng, rèn luyện thói quen hành vi đạo đức.

Tóm lại, quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu trong tình hình hiện nay là vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận vừa có giá trị thực tiễn và mang tính cấp thiết.

Thói quen hành vi đạo đức là sự thể hiện của nhân cách con người. Sinh viên là những người chủ tương lai của đất nước, là lực lượng trí thức trẻ – nguồn nhân lực chất lượng cao của xã hội. Vì vậy, đào tạo họ thành những người có đầy đủ phẩm chất, năng lực cần thiết để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò trung tâm.

Việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và đánh giá chính xác thực trạng quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên là căn cứ khoa học để đề xuất hệ thống biện pháp quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu có tính khả thi. Luận văn: Quản lý quá trình giáo dục đạo đức của sinh viên.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:  

===>>> Luận văn: Biện pháp quản lý quá trình giáo dục đạo đức sinh viên

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0972114537