Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, nước ta đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế từ cơ chế quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đất nước, việc đào tạo nghề nghiệp phải tuân thủ các quy luật khách quan của thị trường, đặc biệt là thị trường lao động, nhằm đáp ứng và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, tay nghề thành thạo và có phẩm chất tốt, gắn liền với một nền khoa học, công nghệ sản xuất ngày càng hiện đại.
Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Việt Nam hiện có trên 6,7 triệu người khuyết tật, chiếm 7,8% dân số; riêng trẻ em khuyết tật chiếm khoảng 1,2 triệu, 75% sống ở khu vực nông thôn và chỉ có khoảng 21% trong tổng số người khuyết tật còn khả năng lao động. Đa số người khuyết tật sống cùng với gia đình và có mức sống thấp hoặc trung bình. Chính vì vậy, việc tạo điều kiện cho người khuyết tật hòa nhập với xã hội là một trong những chính sách được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm, trong đó công tác đào tạo nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật cũng được đặc biệt chú trọng.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã ghi rõ: “Coi trọng công tác đào tạo nghề và phân luồng học viên trung học, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương”.
Đại hội XI của Đảng đề cập: “Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội,… trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc rủi ro trong đời sống”
Việc ban hành Pháp lệnh Người tàn tật (năm 1998), Luật Người khuyết tật (tháng 01-2024), với nhiều quy định có lợi cho người khuyết tật, đã thể hiện sự nỗ lực và quyết tâm lớn của Đảng và Nhà nước trong việc hỗ trợ, giúp đỡ người khuyết tật hòa nhập với cộng đồng và xã hội. Trong nhiều mối quan tâm lớn đó, việc tạo cơ hội cho người khuyết tật có điều kiện học tập, làm việc và hòa nhập cuộc sống là một trong những yêu cầu bức thiết.
Hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật càng có ý nghĩa rất to lớn. Về mặt giáo dục, đó là việc chuẩn bị việc làm cho người khuyết tật theo hướng phân công lao động xã hội, góp phần vào việc cụ thể hóa các mục tiêu đào tạo. Về mặt kinh tế, hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật giúp khai thác và sử dụng hợp lý tiềm năng lao động của lực lượng yếu thế, từ đó giúp nâng cao năng suất lao động xã hội. Về mặt xã hội, hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật có chức năng thực hiện đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước. Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Nhìn lại bức tranh học nghề và tạo việc làm của người khuyết tật ở Việt Nam trong những năm qua, chúng ta thừa nhận là đã có một bước tiến bộ hết sức tích cực. Hệ thống các trung tâm đào tạo nghề cho người khuyết tật ngày càng được mở rộng. Chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo nghề của các trung tâm đào tạo nghề cho người khuyết tật không ngừng được nâng cao. Các trung tâm đã góp phần tích cực vào việc tạo ra nguồn nhân lực đáng kể cho xã hội từ một bộ phận người lao động yếu thế trong xã hội; góp phần giải quyết một vấn đề xã hội khá bức xúc hiện nay. Trong những thành công đó, có một phần đóng góp đáng kể của khoa học quản lý giáo dục.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, hiệu quả chưa cao. Trong đó, công tác quản lý hoạt động đào tạo nghề còn thiếu tính hệ thống, khoa học, chưa phù hợp với tính chất, đặc điểm của công tác đào tạo nghề cho một đối tượng đặc thù, cũng là một trong các nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó.
Là một trong số những cơ sở chuyên biệt dạy nghề cho người khuyết tật, những năm gần đây, Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều cố gắng nỗ lực, góp phần thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong việc dạy nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật. Song, bên cạnh những mặt đã làm tốt, có hiệu quả, đóng góp nhiều công sức vào nhiệm vụ âm thầm, lặng lẽ này, Trung tâm đang còn phải tiếp tục tháo gỡ, rút kinh nghiệm nhiều vấn đề; trong đó, công tác quản lý cũng là một khâu yếu, một mắt xích cần được củng cố chặt chẽ hơn nữa.
Với lý do đó, tôi chọn vấn đề: “Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XX, ở các nước tư bản phát triển như Đức, Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản đã quan tâm đến vấn đề đào tạo nghề và quản lý hoạt động đào tạo nghề nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội công nghiệp. Do đặc điểm, yêu cầu về nguồn nhân lực, đội ngũ công nhân kỹ thuật ở mỗi nước khác nhau nên không chỉ có lĩnh vực đào tạo nghề mà cả phương pháp, hình thức, quy mô đào tạo nghề cũng có sự khác nhau, song có điểm chung là chú trọng đến sự phát triển kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp. Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Cộng hòa liên bang Đức đã sớm hình thành hệ thống đào tạo nghề và hệ trung cấp chuyên nghiệp. Giáo dục chuyên nghiệp là một bộ phận trung học cấp hai của hệ thống giáo dục quốc dân với các loại hình trường đa dạng. Họ đã phân thành hai loại trình độ, đó là: ở trình độ 1 được xếp vào bậc trung học tương đương với trung học phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12; ở trình độ 2 được xếp cao hơn bậc sau trung học phổ thông. Ngoài trường phổ thông mang tính không chuyên nghiệp chỉ nhằm mục tiêu đào tạo chuẩn bị lên đại học, còn các trường phổ thông chuyên nghiệp, trường hỗn hợp, … thì học viên các loại trường này có thể vào học ở các trường đại học chuyên ngành; sau khi tốt nghiệp chủ yếu học viên ra làm việc sơ cấp. Do các loại hình trường rất đa dạng nên không có mô hình tổ chức quản lý đồng nhất giữa các trường, nhất là các bang khác nhau, có trường công lập, trường tư thục, có trường thuộc công ty tư nhân chuẩn bị phần nhân lực cho công ty mình, v.v.
Cho đến ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều bố trí hệ thống giáo dục kỹ thuật và dạy nghề bên cạnh bậc phổ thông và đào tạo bậc cao đẳng, đại học. Do sớm có hệ thống đào tạo nghề nên các nước tư bản phát triển đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong quá trình đào tạo cũng như quản lý. Quá trình đào tạo cũng như quản lý đào tạo nghề liên tục được hoàn thiện, đổi mới để đảm bảo chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu thực tiễn cuộc sống.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là ở Liên Xô (trước đây) cũng sớm quan tâm đến vấn đề đào tạo nghề, với những đóng góp quan trọng của các nhà giáo dục học, tâm lý học như X.I Arkhangenxki, X.Ia Batưsep, A.E Klimov, N.V Cudmina, Ie. A Parapanôva, T.V Cuđrisep,… dước góc độ giáo dục học nghề nghiệp, tâm lý lao động, tâm lý học kỹ sư, tâm lý học xã hội. Tuy nhiên, theo nhận xét của T.V Cuđrisep, những nghiên cứu trong lĩnh vực dạy học và giáo dục nghề vào những năm 70 của thế kỷ XX còn mang tính từng mặt, một chiều nên chưa giải quyết được một cách triệt để vấn đề chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống và lao động. Quá trình hình thành nghề lúc đó được chia làm 4 giai đoạn tách rời nhau, đó là: giai đoạn nảy sinh dự định nghề và bước vào học các trường nghề; giai đoạn học viên lĩnh hội có tính chất tái tạo những tri thức, kỹ năng nghề nghiệp; giai đoạn thích ứng nghề và cuối cùng là giai đoạn hiện thực hóa từng phần hoạt động nghề. Quan niệm trên theo T.V Cuđrisep đã tạo ra những khó khăn rất lớn trong quá trình học và dạy nghề. Quá trình đào tạo nghề trở lên áp đặt và không thấy được mối quan hệ giữa các giai đoạn hình thành nghề.
Cũng theo T.V Cuđrisep, để khắc phục những khó khăn, hạn chế trên cần thiết phải nhận thức lại. Theo tác giả, sự hình thành nghề của thế hệ trẻ trong điều kiện của giáo dục và dạy học là một quá trình lâu dài, liên tục và thống nhất. Quá trình hình thành nghề trải qua bốn giai đoạn, nhưng chúng có sự gắn bó mật thiết với nhau. Quan điểm này của tác giả đã tạo nên nhận thức mới về sự hình thành nghề, là cơ sở khoa học để xây dựng mô hình đào tạo nghề và nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
Việt Nam, những vấn đề về đào tạo nghề, quản lý quá trình đào tạo nghề cũng được quan tâm ngay từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, khi đó còn Tổng cục dạy nghề. Lúc đó, một số các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, tâm lý học lao động (Đặng Danh Ánh, Nguyễn Ngọc Đường, Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Bá Dương,..) đã chủ động nghiên cứu những khía cạnh khác nhau về sự hình thành nghề và công tác dạy nghề. Đặc biệt, một số tác giả, như: Đặng Quốc Bảo, Trần Kiểm, Nguyễn Thị Mỹ Lộc,… đã đi sâu nghiên cứu về quản lý giáo dục, quản lý nhà trường. Tuy nhiên, sau đó những nghiên cứu về đào tạo nghề, quản lý quá trình đào tạo nghề ở nước ta bị lắng xuống, ít được chú trọng. Chỉ đến những năm gần đây, vấn đề đào tạo nghề tiếp tục được quan tâm nghiên cứu trở lại thông qua một số công trình nghiên cứu, nhất là một số đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý giáo dục. Những nghiên cứu này đã ít nhiều khái quát hoá và làm rõ được những vấn đề lý luận và đề xuất những biện pháp quản lý góp phần nâng cao hiệu quả quản lý quá trình đào tạo nghề nói chung và hoạt động dạy nghề nói riêng. Tuy nhiên, đây là vấn đề khó, phức tạp, phạm vi lại rộng và phong phú. Do vậy, các đề tài đi sâu nghiên cứu lĩnh vực này còn ít và với nội dung nghiên cứu khá rộng. Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Có thể liệt kê một số tài liệu, giáo trình về quản lý đào tạo nghề đã được biên soạn và phát hành trong thời gian gần đây như:
Năm 1999, Trường Cán bộ công đoàn Hà Nội có đề tài: “Đánh giá thực trạng tay nghề của công nhân Hà Nội”, đề xuất các giải pháp nâng cao tay nghề cho công nhân trong các ngành trọng điểm của Hà Nội.
Năm 2015, Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội có bài viết: “Đánh giá một cách khách quan nhất công tác đào tạo nghề đã đạt được những thành công nhất định”. Cũng trong năm, bàn về thị trường lao động, tác giả Đỗ Trọng Hùng có bài viết: “Thực hiện tốt chiến lược đào tạo nghề góp phần phát triển thị trường lao động”.
Tác giả Nguyễn Minh Đường có một số bài viết, như: “Tổ chức và quản lý quá trình đào tạo”; “Cải tiến mục tiêu và nội dung đào tạo nghề”; “Phát triển giáo dục nghề nghiệp đáp ứng quá trình đào tạo nguồn nhân lực”; “Đổi mới công tác quản lý trong các trường đào tạo nghề đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Kỷ yếu hội thảo của Sở Lao động-Thương binh và Xã hội Hà Nội). PGS.TS Nguyễn Viết Sự, với bài viết: “Giáo dục nghề nghiệp – những vấn đề và giải pháp”. Cuốn: “Định hướng nghề nghiệp và việc làm” của Tổng cục Dạy nghề. Với việc “Đào tạo nguồn nhân lực ở Thành phố Hồ Chí Minh – Những bất cập trong lĩnh vực này và giải pháp”.v.v.
Các công trình nghiên cứu khoa học trên, với những hướng tiếp cận khác nhau đã cũng đề cập đến những khó khăn, thuận lợi, những nỗ lực và sự chuyển biến tích cực của công tác đào tạo nghề trong những năm qua. Nhờ sự quan tâm của Đảng và Chính phủ, sự nỗ lực của toàn ngành Dạy nghề, sự nghiệp dạy nghề đã được phục hồi và đang tiếp tục phát triển mạnh, đạt được một số thành tựu đáng khích lệ: Mạng lưới cơ sở dạy nghề từng bước được phát triển theo quy hoạch. Các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo nghề được cải thiện một bước như nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên; đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho dạy và học nghề đã được đầu tư, nâng cấp. Phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” trong toàn Ngành đã được đẩy mạnh. Các hoạt động như hội thi học viên giỏi nghề, hội giảng giáo viên dạy nghề, hội thi thiết bị dạy nghề tự làm… đã trở thành hoạt động thường xuyên từ các cơ sở dạy nghề đến toàn quốc, mang lại hiệu quả thiết thực. Chất lượng và hiệu quả dạy nghề đã có nhiều chuyển biến tích cực; tỷ lệ học viên tốt nghiệp luôn đạt 96%, trong đó khoảng 70% học viên ra trường tìm được việc làm. Nhìn chung, học viên ra trường đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động.
Vấn đề bảo vệ, chăm sóc, giáo dục, đào tạo nghề cho người khuyết tật (văn hóa và học nghề) được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu, điển hình là trong các văn kiện hội nghị lần VI của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. Văn kiện này được cụ thể hóa trong Chiến lược giáo dục 2014 – 2023 và nêu rõ: “Đạt tỷ lệ 50% vào năm 2018 và 70% trong năm 2023 trẻ khuyết tật được học ở một trong các loại hình lớp hòa nhập, bán hòa nhập hoặc chuyên biệt”. Do đó, các công trình nghiên cứu về người khuyết tật cũng được quan tâm nhiều, không chỉ trong nước mà cả trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu cũng như bài viết về người khuyết tật được nhìn nhận từ nhiều góc độ: pháp luật, giáo dục, xã hội…
Dưới góc độ pháp luật. Ở nước ngoài, cuốn: “Quyền con người và vấn đề người khuyết tật” (Human Right and Disability) của các tác giả – chủ biên Gerard Quinn và Theresia Degener, do Liên hợp quốc xuất bản, tại Geneva – Thụy Sĩ (2015). Tác phẩm viết về việc áp dụng hiện tại và khả năng áp dụng trong tương lai các quy định của các văn kiện quốc tế về quyền con người. Hay cuốn: “Pháp luật, quyền và vấn đề người khuyết tật” (Law, Right, and Disability) do Jeremy Cooper làm chủ biên. Công trình này đề cập đến thực trạng và những nỗ lực trong việc nâng cao vị thế của người khuyết tật ở Anh và trên thế giới. Ngoài việc đề cập về quyền của người khuyết tật, tác giả còn đề cập đến vai trò quan trọng của chính người khuyết tật trong việc hiện thực hóa những cam kết toàn cầu về quyền của người khuyết tật… Tác phẩm: “Những quyền của người khuyết tật” (Disability Right) do Justin Healey làm chủ biên, Úc. Nội dung sách chủ yếu đưa ra các định nghĩa về người khuyết tật; luật chống phân biệt người khuyết tật và cơ chế khiếu nại vi phạm; các vấn đề thực tiễn về người khuyết tật như: hệ thống chăm sóc cộng đồng; người khuyết tật tại nơi làm việc; doanh nghiệp với vấn đề tuyển dụng người khuyết tật; tiếp cận bình đẳng về internet cho người khuyết tật…Từ việc phân tích đó, tác giả đưa ra nhận định cuối cùng rằng, người khuyết tật chiếm một bộ phận đáng kể trong dân số Úc, họ đòi hỏi việc loại bỏ những hình thức phân biệt đối xử trực tiếp và gián tiếp đối với việc tiếp cận những trợ giúp cơ bản, các dịch vụ và thừa nhận của xã hội. Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Việt Nam, công trình: “Quy định pháp luật về giáo dục khuyết tật ở Việt Nam” của nhóm tác giả Nhà giáo ưu tú – TS. Đặng Huỳnh Mai, ThS. Nguyễn Huy Bằng, ThS. Đặng Thị Thu Huyền, Nguyễn Thế Cường tuyển chọn và giới thiệu những điều luật, pháp lệnh và quy định về giáo dục khuyết tật. Ông Vũ Ngọc Bình có cuốn: “Trẻ em tàn tật và quyền của các em”. Nội dung chủ yếu nêu lên các chuẩn mực quốc tế về quyền con người và việc thực hiện quyền trẻ em tàn tật, giáo dục trẻ em tàn tật – chuyên biệt, hội nhập, khái quát một số quy định của pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em. Ngoài ra, còn có rất nhiều tác phẩm về luật của người khuyết tật như: “Tìm hiểu về luật của người khuyết tật”, “Luật người khuyết tật” …
Dưới góc độ xã hội, ở nước ngoài có cuốn: “Người khuyết tật và cộng đồng: phát triển những công nghệ cải tiến dành cho, làm bởi và cùng với những người khuyết tật”, được viết bởi tác giả Davia Wener. Tác phẩm trình bày về các giải pháp giải quyết các vấn đề hỗ trợ cho người khuyết tật với chương trình phục hồi chức năng Projimo – một chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng được vận hành bởi những thôn nhân bị khuyết tật ở Mexico, đồng thời sách còn đề cập đến những phương thức đổi mới về sự hội nhập và sự tham gia của người khuyết tật tại nhà, cộng đồng, trường học và nơi làm việc.
Việt Nam, có cuốn: “Bảo trợ xã hội cho những nhóm thiệt thòi ở Việt Nam” của nhóm tác giả: Lê Bạch Dương, Đặng Nguyên Anh, Khuất Thu Hồng, Lê Hoài Trung và Robert Leroy Bach. Tác phẩm trình bày và phân tích vấn đề bảo trợ trong bối cảnh đổi mới đất nước, các chính sách và chương trình bảo trợ xã hội, trong đó có bảo trợ cho người khuyết tật ở Việt Nam, chỉ ra những thành tựu yếu, kém, nguyên nhân và kiến nghị nhà nước cần phải có thêm những chính sách, biện pháp mạnh và hiệu quả hơn để phòng ngừa sự vi phạm, xóa bỏ rào cản để người khuyết tật được hòa nhập, tham dự vào các chương trình phát triển của toàn xã hội. Riêng công trình “Người khuyết tật ở Việt Nam: kết quả điều tra tại Thái Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng và Đồng Nai” của nhóm tác giả Lê Bạch Dương, Khuất Thu Hồng, Nguyễn Đức Vinh và luận án tiến sĩ: “Đánh giá kiến thức, trình độ và thực hành của gia đình người khuyết tật trong phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng tại tỉnh Hải Dương” của tác giả Phạm Thị Nhuyên là việc tập hợp những cứ liệu của các tác giả tại một số địa bàn cụ thể về đời sống kinh tế – xã hội với những nhận định hết sức xác đáng, khá chi tiết về đời sống, sinh hoạt và khả năng hòa nhập cộng đồng của người khuyết tật khi được phục hồi chức năng… Mặt khác, cũng có luận án tiến sĩ xây dựng và kiến trúc của KTS. Lê Thị Bích Thuận: “Các giải pháp không gian kiến trúc đảm bảo tiện nghi cho người tàn tật hòa nhập cộng đồng”; trong đó, đưa ra các giải pháp tối ưu để người khuyết tật hưởng thụ và tiếp cận.
Dưới góc độ giáo dục, có cuốn sách: “Dạy học hòa nhập cho trẻ khuyết tật” của tập thể tác giả Trịnh Đức Duy – Dương Thận – Phạm Toàn – Nguyễn Văn Tuy. Tập sách như là một giải pháp tích cực nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện cho người khuyết tật nói chung cũng như trẻ em khuyết tật nói riêng được sống, học tập, sinh hoạt và vui chơi bình đẳng. Bên cạnh đó trình bày các kỹ năng dạy học hòa nhập cho các loại trẻ khuyết tật: trẻ chậm phát triển tinh thần, khó khăn vận động, khuyết tật thính giác, trẻ khiếm thị, khuyết tật ngôn ngữ. Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
“Sổ tay giáo dục trẻ em khuyết tật ở Việt Nam” do Trịnh Đức Duy chủ biên, trình bày những phương pháp chuyên môn, hướng dẫn việc chăm sóc giáo dục và phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật, đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm và bổn phận của gia đình, thầy cô giáo và của toàn xã hội đối với tương lai của học viên. Trong đó, có đề cập đến một phần nhỏ về học nghề và việc làm của người khuyết tật. Tác giả viết: “lao động nghề nghiệp là một biện pháp rất tốt để phục hồi chức năng về tinh thần và thể chất. Trong lao động nghề nghiệp, tạo ra của cải cho xã hội, có thu nhập xứng đáng sẽ là niềm vui, hạnh phúc lớn lao cho trẻ khuyết tật. Các em sẽ từ bỏ mặc cảm tật nguyền”.
Riêng cuốn: “Giáo dục học trẻ khuyết tật” của tác giả Nguyễn Xuân Hải trình bày những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong việc giáo dục trẻ khuyết tật. Trong đó, tác giả dành một chương về “Quản lý giáo dục trẻ khuyết tật” để nêu các nội dung cụ thể về mục tiêu và phương pháp quản lý giáo dục trẻ khuyết tật như: tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch quản lý; các trung tâm hỗ trợ và phát triển giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật; nhiệm vụ và yêu cầu năng lực của những bộ phận chủ lực, cốt cán trong quản lý giáo dục trẻ khuyết tật… Tuy nhiên, nội dung vẫn là những vấn đề chung, chưa đề cập về quản lý đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Bên cạnh những công trình mang tính chất quy mô về người khuyết tật và các vấn đề có liên quan thì có rất nhiều bài viết phản ánh về những khó khăn thuận lợi của người khuyết tật trên đường hòa nhập cộng đồng; về cuộc sống, sinh hoạt vui chơi, tinh thần vượt khó vươn lên trong học tập cũng đạt những thành tựu cao trong công việc khiến nhiều người phải học hỏi, là tấm gương của bao người khuyết tật khác noi theo… Tuy nhiên, những bài viết chỉ dừng lại ở mức độ phản ánh và cung cấp những số liệu cụ thể chứ chưa là một công trình nghiên cứu, cũng như chưa bàn sâu đến vấn đề quản lý đào tạo nghề cho người khuyết tật. Mặt khác, các tác phẩm và bài viết chỉ xoay quanh nói về các giải pháp tối ưu cho người khuyết tật nói chung.
Mặc dù các công trình nghiên cứu, bài viết trên chưa đề cập trực tiếp đến vấn đề đào tạo nghề cho người khuyết tật và quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật, song đó là nguồn tài liệu quý báu để tác giả nghiên cứu, kế thừa, thiết thực góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của đề tài, nhất là việc làm rõ các khái niệm, phạm trù cơ bản nhất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
3.1 Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nghề của Trung tâm trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận của quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
- Phân tích thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề cho học viên khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh và kiến nghị với trên những vấn đề phù hợp với kết quả nghiên cứu của đề tài.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Khách thể nghiên cứu: Hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật của Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh.
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu công tác quản lý hoạt động đào tạo nghề cho học viên khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh dưới góc độ quản lý ở cấp cơ sở (vi mô).
Về phạm vi khảo sát: Đề tài chỉ khảo sát thực trạng quản lý hoạt động đào tạo nghề cho học viên khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh trong 3 năm (2023, 2024, 2025).
5. Giả thuyết khoa học Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Chất lượng công tác đào tạo nghề phụ thuộc vào nhiều yếu tố; trong đó, công tác quản lý đóng một vai trò quan trọng. Dựa vào khoa học quản lý giáo dục, nếu Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng một số biện pháp, như: xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy chế, quy định, nội quy; xây dựng nền nếp làm việc có kế hoạch; phối hợp, hiệp đồng giữa các lực lượng, kết hợp thực hiện xã hội hóa và mở rộng liên kết trong hoạt động đào tạo nghề; thực hiện có nền nếp, hiệu quả công tác kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động đào tạo; chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên; cải thiện cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của công tác đào tạo nghề, thì chất lượng công tác đào tạo nghề cho người khuyết tật của Trung tâm sẽ đạt được như mong muốn.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và quản lý giáo dục; nắm vững quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng Cộng sản Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm quản lý giáo dục tiên tiến trên thế giới và trong nước.
Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu: vận dụng tổng hợp các quan điểm: hệ thống – cấu trúc, thực tiễn và phát triển để luận giải các nội dung nghiên cứu của đề tài.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về những vấn đề có liên quan đến công tác đào tạo nghề; các tài liệu, sách tham khảo về khoa học quản lý và quản lý giáo dục; các công trình nghiên cứu, luận án, luận văn, bài báo… có nội dung liên quan, lấy đó làm tư liệu phục vụ cho đề tài;
Thực hiện các thao tác phân tích, tổng hợp, mô hình hóa, khái quát hóa lý thuyết về quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Điều tra bằng phiếu đối với các chủ thể, khách thể quản lý để nắm thực trạng quản lý hoạt động đào tạo nghề cho học viên khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh; khảo sát tính khả thi của các biện pháp quản lý đề xuất;
Quan sát sư phạm, kết hợp với trao đổi, mạn đàm, phỏng vấn một số cán bộ quản lý của Trung tâm để nắm thực trạng và kết quả nghiên cứu của đề tài về mặt định tính; Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Nghiên cứu các sản phẩm quản lý, như: hệ thống văn bản, hướng dẫn của trên, quy chế, quy định, nội quy, kế hoạch công tác đào tạo, dạy nghề,… của Trung tâm để tìm ra những điều hợp lí và chưa hợp lí, làm căn cứ để lập luận;
Thực hiện tổng kết thực tiễn từ những việc thực tế Trung tâm đã làm được, chưa làm được, lấy đó để làm căn cứ phân tích, luận giải các nội dung;
Tranh thủ ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, lãnh đạo của Trung tâm, cơ quan cấp trên, đơn vị bạn về những đánh giá, phân tích, đề xuất của đề tài;
Sử dụng toán thống kê – xác suất đơn giản và phần mềm để xử lý số liệu điều tra, khảo sát về mặt định lượng, định tính.
7. Những đóng góp mới của luận văn
- Cung cấp những kiến thức có tính hệ thống về quản lý hoạt động đào tạo nghề cho học viên khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh, giúp cho việc nhận thức về vấn đề này đầy đủ, đúng đắn hơn;
- Đề xuất một số biện pháp phù hợp, có tính khả thi, nhằm góp phần nâng cao chất lượng quản lý hoạt động đào tạo nghề cho học viên khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Cấu trúc của luận văn
- Luận văn bao gồm: Mở đầu; 3 chương (8 tiết); Kết luận và kiến nghị; Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Khái niệm hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật Trước hết, cần làm rõ các khái niệm “đào tạo” và “nghề”.
Đào tạo là sự phát triển có hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cho mỗi cá nhân để họ thực hiện một nghề hoặc một nhiệm vụ cụ thể một cách tốt nhất. Đào tạo được thực hiện bởi các loại hình tổ chức chuyên ngành nhằm thay đổi hành vi và thái độ làm việc của con người, tạo cho họ khả năng đáp ứng được tiêu chuẩn và hiệu quả của công việc chuyên môn.
Nghề là một hình thức phân công lao động xã hội, đòi hỏi phải có kiến thức lý thuyết tổng hợp và năng lực thực hành phù hợp để hoàn thành những công việc nhất định, như: nghề mộc, nghề cơ khí…
Như vậy, đào tạo nghề là hoạt động nhằm mục đích nâng cao tay nghề hay kỹ năng, kỹ xảo của mỗi cá nhân đối với công việc hiện tại và trong tương lai. Có thể thấy, đào tạo nghề gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau: dạy nghề và học nghề. Dạy nghề là quá trình giáo viên truyền đạt những kiến thức về lý thuyết và thực hành để người học có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp. Học nghề là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và thực hành của người lao động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất định.
Theo Điều 5, Chương I, Luật Dạy nghề: “Đào tạo nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học”.
Trong “Bách khoa toàn thư Việt Nam”, khái niệm đào tạo nói chung là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của con người. Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Theo C. Mác, công tác dạy nghề phải bao gồm các thành phần: một là, giáo dục trí tuệ; hai là, giáo dục thể lực, như trong các trường thể dục thể thao hoặc bằng cách huấn luyện quân sự; ba là, dạy kỹ thuật nhằm giúp người học nắm vững những nguyên lý cơ bản của tất cả các quá trình sản xuất, đồng thời biết sử dụng các công cụ sản xuất đơn giản nhất.
Theo giáo trình Kinh tế lao động của Trường Đại học Kinh tế quốc dân, khái niệm đào tạo nghề được tác giả trình bày như sau: “Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận được một số công việc nhất định”.
Như vậy, đào tạo nghề là một quá trình tác động có mục đích, có ý thức của con người nhằm phát triển tay nghề (dạy nghề) và đạo đức, văn hóa nghề nghiệp (nhân cách) của họ (thể hiện trên 2 mặt: kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ nghề nghiệp), phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động và phát triển nguồn lực quốc gia.
Nói cách khác, đào tạo nghề là một lĩnh vực hoạt động mà ở đó, nhờ được đào tạo con người có được những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội. Nghề nghiệp trong xã hội không phải là một cái gì cố định, cứng nhắc, mà nó cũng có một quá trình hình thành, phát triển và tiêu vong. Vì thế, bên cạnh việc được lĩnh hội những kỹ năng, kỹ xảo trong quá trình đào tạo, con người cần phải nắm vững nó, trau dồi và phát triển nó trong cuộc sống.
Việt Nam, trong những năm gần đây, do sự chuyển biến của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, đã gây ra những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ chế thị trường, nhất là trong nền kinh tế tri thức tương lai, con người cần phải chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm vững một nghề, biết nhiều nghề để rồi tự tìm việc làm, tự tạo việc làm… Đối với người khuyết tật, vấn đề này càng phải được quan tâm nhiều hơn, nhất là tạo điều kiện cho họ vươn lên, làm chủ bản thân, hòa nhập cộng đồng, sống có ý nghĩa, giảm bớt phần nào nỗi lo của gia đình và gánh nặng của xã hội; đồng thời, khắc phục được tư tưởng bi quan, tiêu cực.
Theo Điều 68, Luật Dạy nghề: “Đào tạo nghề cho người khuyết tật nhằm giúp họ có năng lực thực hành nghề phù hợp với khả năng lao động của mình để tự tạo việc làm hoặc tìm được việc làm ổn định đời sống, hòa nhập cộng đồng”.
Như vậy, Điều 68, Luật Dạy nghề chủ yếu đề cập đến mục đích của hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật. Từ đây có thể thấy một số dấu hiệu sau:
Hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật diễn ra trong mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học;
Mục đích của hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật là trang bị cho người khuyết tật những điều kiện để họ thực hiện một nghề theo sự phân công lao động xã hội. Đó là hệ thống các kiến thức nghề nghiệp (gồm kiến thức chung và kiến thức chuyên biệt); các kỹ năng, kỹ xảo hoạt động nghề nghiệp và thái độ đối với nghề nghiệp (say mê, yêu nghề, tâm huyết với công việc,…);
Việc đào tạo nghề cho người khuyết tật phải phù hợp với đặc điểm của đối tượng đào tạo là người khuyết tật (sẽ nêu ở mục 1.1.2).
Như vậy, có thể khái quát đầy đủ: Đào tạo nghề cho người khuyết tật là hoạt động dạy và học nhằm trang bị cho người khuyết tật kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ nghề nghiệp cần thiết, phù hợp với tình trạng khuyết tật và sức khỏe của người khuyết tật, tạo điều kiện để họ có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học.
1.1.2. Khái niệm người khuyết tật Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Trên thế giới, không có quốc gia nào không có người khuyết tật. Đó là một khiếm khuyết tự nhiên trong quá trình tiến hóa của con người. Đến nay, vẫn chưa có một số liệu thống kê chính xác và thống nhất về tình hình người khuyết tật. Ước tính mỗi năm trên thế giới có thêm gần 10 triệu người khuyết tật và dự đoán đến năm 2035, con số đó sẽ vào khoảng 667 triệu người (theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc Việt Nam – UDNP Việt Nam).
Người khuyết tật có nhiều dạng khác nhau, vì vậy cũng có nhiều quan niệm khác nhau. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã chia ra thành các thuật ngữ và định nghĩa sau:
Khuyết tật (Impairment) là sự khiếm khuyết, giảm sút hoặc rối loạn cơ cấu tổ chức hay một chức năng tâm lý, sinh lý, giải phẫu.
Tàn tật hay mất khả năng (Disabilities) là bất kỳ một sự hạn chế hay thiếu hụt (do khuyết tật) khả năng thực hiện một hoạt động theo chức năng hay trong phạm vi được coi là bình thường của con người.
Tàn phế (Handicap) là sự mất mát, thiệt thòi cho một cá nhân do khuyết tật hoặc do tàn tật, khiến cho người đó không thực hiện được một phần hay toàn bộ công việc được coi là bình thường (theo tuổi tác, giới tính, các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội…).
Theo Điều 2 của Pháp luật nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về bảo vệ người khuyết tật: “Người khuyết tật là một trong những người bị bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng tâm lý hay sinh lý, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách bình thường”.
Theo Sách số chín của Bộ luật Xã hội Đức: “Người khuyết tật là người có các chức năng về thể lực, trí lực, hoặc tâm lý tiến triển không bình thường so với người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường này là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào đời sống xã hội”.
Theo Đạo luật Về người khuyết tật của Hoa Kỳ (năm 1990): “Người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động trong cuộc sống”.
Theo Điều 2, Luật Người khuyết tật Việt Nam: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”.
Theo Vụ Bảo trợ xã hội (thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) thì “Người tàn tật là người có khuyết tật, không có khả năng tự nuôi sống bản thân, phải dựa vào cộng đồng, người thân và sự trợ giúp của Nhà nước”.
Bộ Y tế đã định nghĩa: “Người tàn tật là người có khuyết tật, thể hiện những rối loạn về sinh lý, tâm lý hay một chức năng nào đó của con người như nghe, nhìn, vận động, thần kinh,…” Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Phân loại khuyết tật: (Theo Điều 3, Luật Người khuyết tật Việt Nam).
- Khuyết tật vận động;
- Khuyết tật nghe, nói;
- Khuyết tật nhìn;
- Khuyết tật thần kinh, tâm thần;
- Khuyết tật trí tuệ;
- Khuyết tật khác.
Và theo Nghị định số 28/2025/NĐ-CP, ngày 10-4-2025 của Chính phủ có phân loại và định nghĩa như sau:
- Khuyết tật vận động là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển.
- Khuyết tật nghe, nói là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói.
- Khuyết tật nhìn là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường.
- Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường.
- Khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc.
- Khuyết tật khác là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn mà không thuộc các trường hợp nêu trên.
Tâm lý người khuyết tật:
Về mặt sinh học, người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể, hoặc có những rối loạn về tâm sinh lý hay một chức năng nào đó của con người do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chính sự khiếm khuyết đó đã làm cho người khuyết tật bị hạn chế về sức khỏe, kém khả năng chống lại các dịch bệnh và gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp, vận động. Cũng vì những điều đó nên người khuyết tật gặp khó khăn trong nhận thức môi trường xung quanh, đồng thời phản ứng của môi trường xung quanh ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của người khuyết tật. Mối liên hệ này có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển về thể chất, tâm lý và khả năng học nghề của người khuyết tật. Đa số người khuyết tật sống trong nghèo khổ, ít có điều kiện và khả năng tự bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Cho nên, người khuyết tật là những người cần có sự quan tâm chăm sóc của các tổ chức y tế để phục hồi sức khỏe, vượt qua bệnh tật.
Giáo dục nói chung và giáo dục trẻ khuyết tật chỉ có thể thực hiện một cách có hiệu quả khi trước hết phải dựa trên những đặc điểm tâm lý của trẻ. Quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn giáo dục trẻ khuyết tật làm phong phú thêm cho khoa học tâm lý trẻ khuyết tật, khám phá thế giới nội tâm, các trạng thái và quá trình tâm lý của trẻ khuyết tật. Dựa vào tâm lý học, các nghiên cứu đã tập trung xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, dạy học cho từng đối tượng trẻ khuyết tật ở từng bậc học trong các môi trường giáo dục khác nhau. Chính tâm lý học giúp cho người giáo viên hiểu rõ hơn những đặc điểm tâm lý đặc trưng của trẻ khuyết tật, từ đó có thể xác định mục tiêu, lựa chọn nội dung, phương pháp, phương tiện cũng như hình thức tổ chức giáo dục, dạy học phù hợp cho trẻ. Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Đối với trẻ khuyết tật, yếu tố tâm lý còn có một ý nghĩa to lớn góp phần thúc đẩy học viên vượt qua trở ngại khuyết tật của bản thân và vươn lên tự khẳng định mình trong cuộc sống. Có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về tâm lý người khuyết tật. Mỗi quan điểm có những cách nhìn khác nhau, nhưng đều có những giá trị nhất định.
Theo Học thuyết “đứt đoạn” của giáo sư Miller (Mỹ) và Goullmard (Pháp): người khuyết tật là người bị đột biến về thể lực và tâm lý. Do đó người khuyết tật sẽ có tâm lý: tự ti, phó mặc, chấp nhận cuộc sống khép kín; nóng giận, trách đời, trách mình, từ đó dẫn đến hành động gây hại cho người khác hoặc gây hại cho chính bản thân mình. Theo Học thuyết này thì người khuyết tật không mang lại lợi ích gì cho xã hội và nhà nước cần có những chính sách để bảo trợ cho họ.
Học thuyết “liên tục” của Atchley (Nga): Người khuyết tật dù nguyên nhân bẩm sinh hay nguyên nhân nào khác thì họ luôn có nhu cầu hoạt động và tâm lý của họ sẽ thay đổi để phù hợp với thực trạng của họ. Theo Học thuyết này, nếu tạo môi trường hoạt động và làm việc cho người khuyết tật thì tâm lý người khuyết tật không khác gì người bình thường.
Học thuyết “bù trừ” của V.A. Sinhiak – M.M. Nudenman (Nga): khả năng bù trừ là một quy luật tự nhiên của cơ thể người. Khi chức năng của một cơ quan bị suy giảm hay bị mất hoàn toàn thì lập tức có sự gia tăng điều chỉnh của các giác quan khác để hỗ trợ hoặc thay thế chức năng bị thiếu hụt hay bị mất. Ví dụ như người khiếm thính, họ bị khó khăn trong hình thành ngôn ngữ, nhưng bù lại, họ có khả năng để ý những chi tiết về hình ảnh nhiều hơn người bình thường, đây là cơ sở để tư vấn nghề nghiệp cho người khiếm thính.
1.1.3. Khái niệm quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật
Quản lý là một khái niệm có nội hàm xác định, song lâu nay thường có các cách định nghĩa, cách hiểu khác nhau và được diễn đạt bằng những cách khác nhau. Với sự phát triển của khoa học, khái niệm quản lý đã cơ bản được làm sáng tỏ. Theo đó, quản lý là chức năng vốn có của mọi tổ chức; theo đó, mọi hành động của các cá nhân, các bộ phận trong tổ chức có sự điều khiển từ trung tâm, nhằm thực hiện mục tiêu chung của tổ chức. Quản lý là quá trình tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể quản lý (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế… bằng một hệ thống các công cụ (luật lệ, các chính sách, các quy định, các nguyên tắc, phương pháp và các biện pháp cụ thể), nhằm tạo ra môi trường hay điều kiện cho sự phát triển của đối tượng một cách tốt nhất. Đối tượng quản lý có thể trên quy mô toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành, đơn vị, có thể là một con người hay một sự vật cụ thể.
Trong khoa học quản lý, quản lý giáo dục là một lĩnh vực quan trọng. Ở cấp vĩ mô, đó là “Những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục” [35, tr. 36-37]. Còn ở cấp vi mô, quản lý giáo dục là “Hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học viên, cha mẹ học viên và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” [35, tr. 37-38]. Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Quản lý hoạt động đào tạo nghề là một vấn đề cụ thể của quản lý giáo dục, nên cũng được xem xét cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Tuy nhiên, trong phạm nghiên cứu của đề tài, chỉ xét dưới góc độ quản lý hoạt động đào tạo nghề trong nhà trường (nghĩa là ở cấp vi mô). Đây được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch và hợp quy luật của chủ thể quản lý đến các khâu của hoạt động đào tạo nghề trong nhà trường, nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu đào tạo nghề cho các đối tượng của nhà trường được giao.
- Từ những khái niệm nêu trên, có thể hiểu:
Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch và hợp quy luật của chủ thể quản lý đến toàn bộ các nhân tố của hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật ở các cơ sở có chức năng đào tạo nghề cho người khuyết tật, nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đào tạo mà cơ sở được giao.
Như vậy, quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật chỉ là một lĩnh vực của quản lý, quản lý giáo dục và quản lý hoạt động đào tạo nghề. Do đó, nó mang đầy đủ các dấu hiệu của quản lý nói chung; đồng thời, bản thân nó cũng chứa đựng những nét riêng. Cụ thể là:
- Về chủ thể quản lý
Chủ thể quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật là những tổ chức, cá nhân được Đảng, Nhà nước, ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, trực tiếp là cấp ủy, chính quyền các địa phương giao nhiệm vụ đứng ra xây dựng, quản lý, điều hành cơ sở đào tạo nghề, thì đồng thời có trách nhiệm quản lý toàn bộ mọi khâu, mọi bước của hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật, bảo đảm đúng quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật và các quy định về đào tạo nghề cho người khuyết tật và đạt hiệu quả cao.
Theo đó, chủ thể quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật bao gồm: Đảng ủy, Ban Giám đốc, các khoa, bộ môn dạy nghề, các phòng, ban chức năng thuộc cơ sở đào tạo nghề; trong đó, mỗi thành viên của các tổ chức đó đều được quy định nhiệm vụ quản lý cụ thể theo chức trách, nhiệm vụ được giao và có sự phân cấp quản lý phù hợp.
- Về khách thể quản lý (đối tượng quản lý)
Là toàn bộ các nhân tố của hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật của cơ sở đào tạo; bao gồm:
- Mục tiêu đào tạo nghề. Đây là kết quả dự kiến của nhà trường (cơ sở đào tạo nghề cho người khuyết tật) về đối tượng đào tạo nghề sau khi hoàn thành các khóa học. Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
- Nhà giáo dục (giáo viên, trợ giáo và cán bộ quản lý nhà trường từ trên xuống đến các lớp học và cán bộ các phòng, ban chức năng của nhà trường). Như vậy, nhà giáo dục vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quản lý.
- Chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức đào tạo nghề cho người khuyết tật.
- Cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật dạy học.
- Môi trường sư phạm và đời sống vật chất – tinh thần của cán bộ, giáo viên, học viên khuyết tật.
- Về phương pháp quản lý
Để quản lý có hiệu quả, chủ thể quản lý phải nắm và vận dụng thuần thục các chức năng quản lý, bao gồm: kế hoạch hóa hoạt động đào tạo nghề (xác định nội dung, chỉ tiêu, thời gian, biện pháp,… thực hiện); tổ chức hoạt động đào tạo nghề (vận hành các mối quan hệ giữa các thành viên, các bộ phận để tác động đến đối tượng quản lý một cách có hiệu quả bằng cách điều phối các nguồn lực của tổ chức, như: nhân lực, vật lực và tài lực); chỉ đạo hoạt động đào tạo nghề (điều hành tổ chức hay nhân lực đã có của đơn vị để vận hành theo đúng kế hoạch đã vạch ra) và kiểm tra hoạt động đào tạo nghề (thông qua một cá nhân, nhóm hay tổ chức để xem xét thực tế, đánh giá, giám sát thành quả hoạt động, đồng thời uốn nắn, điều chỉnh các sai sót, lệch lạc nhằm thúc đẩy hệ thống đào tạo nghề sớm đạt được mục tiêu đã định). Ngoài ra, trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, chủ thể quản lý cần thực hiện tốt chức năng nắm thông tin về hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật; trên cơ sở đó có biện pháp điều chỉnh các chức năng trên một cách kịp thời và hiệu quả.
Để thực hiện tốt các chức năng quản lý, chủ thể quản lý phải sử dụng có hiệu quả các công cụ quản lý. Bao gồm: các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn, thông tư,… của cấp trên (Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền địa phương,…) và chỉ thị, nghị quyết, văn bản hành chính của cấp mình; các chương trình, kế hoạch, đề án về giáo dục – đào tạo và đào tạo nghề cho người khuyết tật; nhân lực, tài lực, vật lực,… có trong biên chế của cơ sở đào tạo.
- Về mục đích quản lý
Mục đích của quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật là thông qua tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt tới sự vận hành thông suốt, có hiệu quả cao, phát huy mọi nguồn lực, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống; đồng thời, hạn chế những yếu kém của cơ sở đào tạo nghề cho người khuyết tật; thiết thực góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo nghề của cơ sở đào tạo nghề cho người khuyết tật.
1.2. Nội dung quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Căn cứ vào khách thể (đối tượng) quản lý, việc xác định nội dung quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật bao gồm những vấn đề sau:
1.2.1. Quản lý mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo
Quản lý mục tiêu đào tạo nghề cho người khuyết tật là quản lý việc xây dựng và thực hiện mục tiêu của cơ sở đào tạo trong quá trình đào tạo nghề; là quản lý một hệ thống những yêu cầu lâu dài và trước mắt của xã hội đối với sự phát triển nghề của học viên khuyết tật được đào tạo, ứng với những phẩm chất và năng lực cần có của họ sau từng giai đoạn học tập.
Mục tiêu đào tạo là đích mà hoạt động đào tạo phải hướng tới. Quản lý mục tiêu đào tạo bao gồm: kế hoạch hoá mục tiêu đào tạo; cụ thể hoá kế hoạch thành các mục tiêu về kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ theo từng chương trình, từng khoá, từng môn học; tổ chức thực hiện mục tiêu thông qua xây dựng nội dung, phương thức đào tạo; kiểm tra, đánh giá mức độ đạt mục tiêu và định kỳ điều chỉnh mục tiêu.
Quản lý chương trình, nội dung đào tạo là quản lý việc thiết kế, xây dựng, thực hiện chương trình, nội dung đào tạo, sao cho chương trình, nội dung giảng dạy được thực hiện đầy đủ về số, chất lượng và đảm bảo về thời gian, quán triệt được các yêu cầu của mục tiêu đào tạo.
Quản lý hoạt động đào tạo mà trong đó quản lý, chỉ đạo thực hiện đúng và đủ nội dung chương trình và kế hoạch đào tạo là một trong những khâu trọng yếu của chủ thể quản lý, nhằm giúp giáo viên hoàn thành nhiệm vụ của mình theo đúng quy chế, quy định và đảm bảo chất lượng, hiệu quả đào tạo, góp phần tích cực trong việc thực hiện và hoàn thành mục tiêu đào tạo đã đề ra. Quản lý chương trình, nội dung đào tạo đòi hỏi phải được thực hiện theo quy trình chặt chẽ, từ lập kế hoạch, cho đến tổ chức thực hiện, chỉ đạo và kiểm tra.
1.2.2. Quản lý hoạt động dạy, học của giáo viên và học viên
Quản lý hoạt động dạy của giáo viên đào tạo nghề cho người khuyết tật thực chất là quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ của đội ngũ giáo viên và của từng giáo viên. Công tác giảng dạy chính là tổ chức hoạt động nhận thức của học viên; chất lượng giảng dạy là yếu tố quyết định đến chất lượng nhận thức của học viên. Vì vậy, hoạt động giảng dạy là một trong hai hoạt động trọng tâm của nhà trường, đòi hỏi đầu tư phần lớn công sức, thời gian, trí tuệ của đội ngũ giáo viên, đây là hoạt động mang hàm lượng chất xám cao. Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Quản lý hoạt động dạy của giáo viên về thực chất là một nội dung của quản lý nguồn nhân lực trong nhà trường (cơ sở đào tạo nghề cho người khuyết tật). Vì vậy, đòi hỏi việc quản lý phải toàn diện, cả về trình độ, năng lực giảng dạy, năng lực hướng dẫn thực hành, năng lực giáo dục nhân cách, động viên, hướng nghiệp,… và quản lý về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách, phương pháp, tác phong công tác; chú trọng quản lý việc thực hiện nội dung, chương trình, kế hoạch đào tạo, việc bảo đảm thời gian lên lớp, tổ chức các hình thức dạy học, thực hành;… Để thường xuyên nâng cao chất lượng hoạt động dạy, việc quản lý người dạy còn phải coi trọng cả quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, tuyển dụng, đánh giá, cất nhắc, bổ nhiệm đội ngũ giáo viên sao cho đúng người, đúng việc và có cơ chế thu hút người tài vào cơ sở đào tạo nghề. Quản lý hoạt động dạy còn đòi hỏi phải quan tâm chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của đội ngũ giáo viên với đúng nghĩa chăm lo cho những chiếc “máy cái” trong toàn bộ guồng máy hoạt động của nhà trường.
Quản lý hoạt động học của học viên là quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ học tập kiến thức, rèn luyện kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp của học viên khuyết tật trong quá trình đào tạo.
Hoạt động học nghề của học viên khuyết tật có tính đặc thù cao. Do vậy, quản lý hoạt động học nghề của học viên khuyết tật có nhiều điểm khác với quản lý hoạt động học nghề của học viên bình thường; đòi hỏi phải luôn tính đến đặc thù khuyết tật của từng đối tượng để đề ra những yêu cầu, nội dung, biện pháp quản lý phù hợp với không gian, thời gian, hoàn cảnh của đối tượng học viên, không nên dập khuôn, máy móc. Cần quán triệt các quan điểm, nguyên tắc giáo dục : “Yêu cầu cao nhưng vừa sức”; “Yêu cầu cao gắn với tôn trọng nhân cách”;v.v.
1.2.3. Quản lý phương pháp, hình thức tổ chức đào tạo nghề
Là quản lý việc áp dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học trong quá trình đào tạo, bảo đảm khoa học, phù hợp với quan điểm đổi mới công tác giáo dục – đào tạo của Đảng, Nhà nước; kế thừa các phương pháp, hình thức dạy học truyền thống; tiếp thu và vận dụng có hiệu quả các kiểu, phương pháp dạy học tiên tiến, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học cho học viên khuyết tật. Quản lý phương pháp, hình thức đào tạo đòi hỏi phải thường xuyên bám sát các chương trình, đề án đổi mới hệ phương pháp giáo dục đối với các trường dạy nghề đã được các cấp phê duyệt và coi trọng việc đánh giá hiệu quả của đổi mới.
1.2.4. Quản lý trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện dạy học và môi trường sư phạm, đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, giáo viên và học viên
Trong hoạt động đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề cho người khuyết tật nói riêng, phương tiện dạy học, máy móc, thiết bị và cơ sở vật chất… là điều kiện quan trọng góp phần quyết định chất lượng dạy học. Với nguồn kinh phí được đầu tư như hiện nay, rất khó khăn trong việc tổ chức mua sắm, trang bị cho các xưởng thực hành một cách đồng bộ và phù hợp với công nghệ hiện đại. Vì thế, cơ sở đào tạo nghề cho người khuyết tật phải hết sức chú ý đến quản lý vấn đề này, nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả cao các nguồn lực về vật chất, kỹ thuật cho công tác đào tạo nghề, tránh để thất thoát, lãng phí và kéo dài tuổi thọ cho các loại phương tiện, trang bị. Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Quản lý trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật và phương tiện dạy học của cơ sở đào tạo nghề cho người khuyết tật bao gồm: việc đánh giá thực trạng cả về số và chất lượng trang thiết bị, cơ sở vật chất – kỹ thuật và phương tiện dạy học; xây dựng kế hoạch bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật cho các hoạt động dạy và học; công tác bảo đảm, sửa chữa, phục hồi, thay thế và mua sắm mới; đồng thời, quản lý tốt việc liên kết đào tạo với các đơn vị sản xuất – kinh doanh trên cơ sở thỏa thuận cùng phát triển.
Có thể khẳng định, môi trường sư phạm, điều kiện sống của cán bộ, giáo viên và học viên khuyết tật có ý nghĩa rất lớn đối với việc củng cố niềm tin, trách nhiệm, tâm huyết của nhà giáo cũng như sự gắn bó, động cơ tích cực học nghề của học viên khuyết tật. Bản thân những nhà giáo, cán bộ quản lý ở đây cũng là những người luôn phải chịu thiệt thòi về nhiều mặt so với những cơ sở dạy nghề hay cơ sở đào tạo người bình thường khác. Đối với người khuyết tật, luôn nảy sinh mặc cảm tự ti, nhất là khi cảm nhận được sự thiếu quan tâm, chăm sóc hay bỏ rơi… Vì vậy, coi trọng đưa vào kế hoạch, thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc, nhắc nhở, uốn nắn, kiểm tra các hạng mục cơ sở hạ tầng, hội trường, phòng làm việc, điều kiện thực hành, sinh hoạt, đời sống vật chất, tinh thần của giáo viên, cán bộ quản lý, nhân viên của nhà trường và điều kiện sống, sinh hoạt của học viên là vấn đề cần thực hiện có nền nếp, thường xuyên.
1.2.5. Công tác kiểm tra, đánh giá. Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
Thực hiện công tác kiểm tra đánh giá nghĩa là rà soát lại việc thực hiện kế hoạch đạt tiến độ chất lượng và hiệu quả đến đâu. Chỉ ra những khó khăn thuận lợi. Trên cơ sở đó các chủ thể quản lý phát hiện sai lệch, yếu kém để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.
Quản lý giáo dục giữ vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo nói chung, cũng như sự nghiệp dạy nghề nói riêng, làm cho mọi hoạt động của các nhà trường, cơ sở đào tạo nghề đi vào kỷ cương, nề nếp, ổn định, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp đổi mới và phát triển giáo dục, hội nhập quốc tế, càng đặt ra cho giáo dục và đào tạo những cơ hội mới và thách thức mới. Điều đó đòi hỏi công tác quản lý giáo dục cần phải đổi mới tư duy, biết kết hợp giữa lý luận với thực tiễn trong công tác quản lý ở các đơn vị và trường học.
Đối với các cơ sở đào tạo nghề cho người khuyết tật, quản lý hoạt động đào tạo nghề là một nhiệm vụ cần phải được thực hiện tốt. Để tìm ra những biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật có hiệu quả, vấn đề rất quan trọng là phải làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết. Theo đó, Chương 1 của luận văn đã tập trung làm rõ một số khái niệm có liên quan; trong đó, các khái niệm: hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật và quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật là những khái niệm trung tâm. Trên cơ sở các niệm, việc làm rõ nội dung của quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật cũng góp phần làm sáng tỏ thêm vấn đề này. Đây là những căn cứ quan trọng về mặt lý luận, làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề cho học viên khuyết tật của Trung tâm Bảo trợ người tàn tật Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn: Quản lý hoạt động đào tạo nghề cho người khuyết tật.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực tiễn quản lý đào tạo nghề cho người tàn tật

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: lamluanvan24h@gmail.com