Mục lục
Biện pháp của Hiệu trưởng trong quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đạo đức cho học sinh là một trong những phạm trù trung tâm của lý luận giáo dục, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi nhà trường. Trong lịch sử phát triển của các khoa học giáo dục, đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về vấn đề GDĐĐ cho học sinh. Trong các công trình đó đã có một số ý kiến đề cập đến vai trò quản lý của nhà trường, của Hiệu trưởng với những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu trước đây đều tiếp cận vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh dưới góc độ của khoa học giáo dục. Những năm gần đây, một số đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục đã nghiên cứu về quản lý giáo dục ở các nhà trường, nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu về biện pháp quản lý của Hiệu trưởng trong GDĐĐ cho học sinh THCS trên địa bàn Hà Nội. Đây là một khoảng trống của lý luận quản lý giáo dục đòi hỏi phải nghiên cứu.
Xét trên phương diện lý luận, QLGDĐĐ cho học sinh THCS thuộc phạm trù quản lý nhà trường, về cơ bản tuân thủ theo lý thuyết quản lý nhà trường, chịu sự chi phối của quy luật, mục tiêu, nội dung, phương pháp quản lý nhà trường. QLGDĐĐ cho học sinh vừa là quản lý một nội dung, nhiệm vụ giáo dục cụ thể của nhà trường, vừa là quản lý nhân sự người học. Đó là những thành tố quan trọng trong cấu trúc quá trình giáo dục ở nhà trường, là những thành tố đang có tính thời sự trong lĩnh vực giáo dục. Vì vậy, QLGDĐĐ cho học sinh THCS là một vấn đề có tính cấp thiết trong lý luận quản lý giáo dục nhà trường hiện nay.
Về phương diện thực tiễn, GDĐĐ cho học sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng, đang là vấn đề được toàn ngành giáo dục và cả xã hội quan tâm với những luồng ý kiến trái chiều khác nhau. Nghị quyết TƯ 2 khóa VIII nhận định: “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước”. Tại Hội thảo khoa học toàn quốc của Hội khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam, tổ chức từ ngày 17 đến 19 tháng 7 năm 2021, với chủ đề “Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ở nước ta: Thực trạng và giải pháp”, các nhà khoa học, nhà sư phạm đã thẳng thắn nhìn vào sự thật, chỉ ra số liệu đáng báo động về sự tha hoá đạo đức của học sinh, sinh viên hiện nay. Nhiều ý kiến cho rằng, sau gần ba thập kỉ đổi mới, Việt Nam đã thu được nhiều thành công về kinh tế, vị thế chính trị, xã hội của quốc gia có nhiều điều đáng tự hào, nhưng chúng ta lại phải đứng trước những thử thách mới về sự tha hoá đạo đức đang diễn ra ở nhiều lứa tuổi, trong mọi mối quan hệ, mọi lĩnh vực hoạt động của toàn xã hội. Nguy hiểm hơn là ở chỗ, sự tha hoá về đạo đức diễn ra cả trong các nhà trường THCS, nơi tập trung của trẻ em học sinh đang ở độ tuổi hình thành nhân cách, nơi được mệnh danh là “những lò luyện đạo đức” đầu tiên của cuộc đời. Thử thách đó không dễ gì vượt qua được, nếu không có giải pháp tích cực về chấn hưng GDĐĐ, không tạo ra sự đồng thuận trong giáo dục giữa gia đình với nhà trường và xã hội. Thực tiễn đó đặt ra những yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải tìm ra giải pháp tổ chức, điều khiển hoạt động GDĐĐ cho học sinh ở các nhà trường THCS trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Những vấn đề thực tiễn đặt ra trong GDĐĐ cho học sinh các trường THCS hiện nay cũng là sự trăn trở của bản thân tôi trong nhiều năm qua. Là một CBQL giáo dục ở một trường THCS trên địa bàn thành phố Hà Nội, tôi mong muốn tìm ra những biện pháp quản lý thật sự khoa học để nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho học sinh. Sau khi được trang bị kiến thức lý luận về khoa học quản lý giáo dục, cùng với kinh nghiệm thực tiễn quản lý giáo dục tích luỹ được trong những năm qua, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài: Biện pháp của Hiệu trưởng trong quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Nếu nghiên cứu thành công đề tài luận văn này, nhà trường chúng tôi sẽ có thêm cơ sở khoa học và thực tiễn, hỗ trợ cho hoạt động QLGDĐĐ học sinh đạt được hiệu quả cao hơn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giáo dục đạo đức cho học sinh luôn là “vấn đề nóng” trong mọi thời đại, mọi nền giáo dục. Trên thế giới, từ thời cổ đại, các nhà giáo dục lớn đã đặt vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh là nhiệm vụ trung tâm của các nhà trường. Ở phương Đông, Khổng Tử, là nhà giáo dục đã có nhiều công lao đặt nền móng cho lý luận GDĐĐ học sinh. Nhiều tư tưởng GDĐĐ của ông đến nay vẫn còn lưu truyền trong các nền giáo dục hiện đại của nhiều quốc gia. Ở phương Tây, từ thời cổ đại, Aristôt đã chia con người thành ba bộ phận là xương thịt, ý chí và lý chí, tương đương với cấu trúc đó có ba nội dung giáo dục là thể dục, đức dục và trí dục. GDĐĐ cho học sinh là một trong ba nội dung của giáo dục.
Tư tưởng coi trọng GDĐĐ cho học sinh được lưu truyền qua các thời kỳ lịch sử giáo dục của mọi quốc gia. Sang thời kỳ văn hoá phục hưng, cùng với sự xuất hiện của các nhà khoa học giáo dục lớn là sự ra đời của các tác phẩm, các tư tưởng mới về GDĐĐ cho học sinh. J.A. Cômenxky (1592 – 1670), trong tác phẩm Khoa sư phạm vĩ đại của mình, Ông cho rằng: nhà trường là “xưởng rèn nhân cách”, quá trình giáo dục phải tuân theo quy luật phát triển tự nhiên “như sinh hoạt của cỏ, cây, hoa, lá, của cuộc sống xem có phù hợp không, nếu không phù hợp sẽ trái quy luật và dẫn tới đổ vỡ trong giáo dục” [31, tr.87].
Rútxô (1712 – 1778), nhà triết học đồng thời là nhà giáo dục người Pháp đã chủ trương đưa trẻ em về nông thôn để giáo dục, cải tạo tính nết của các em. Ông quan niệm, nông thôn không có những tệ nạn xấu, đó là nơi có môi trường GDĐĐ tốt hơn thành thị. Mặc dù quan niệm của ông có sai lầm về phương pháp luận nhưng yếu tố hợp lý của ông là ở chỗ coi trọng vai trò của môi trường xã hội trong GDĐĐ.
Đứng trên vai những người khổng lồ của thời kỳ văn hoá phục hưng, Mác, Ănghen đã xây dựng nên học thuyết khoa học của mình, trong đó đặt vấn đề phát triển xã hội gắn với phát triển toàn diện con người. Hai ông đã chỉ ra sự tất yếu xuất hiện của một kiểu đạo đức mới trong lịch sử – đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân. Theo Ph.Ăngghen, đây là nền đạo đức “đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của tương lai, tức là đạo đức vô sản, là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài” [30, tr.136].
Tiếp tục tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, trong quá trình đấu tranh chống lại các học thuyết đạo đức duy tâm, phản động đang đầu độc giai cấp công nhân và nhân dân lao động, V.I. Lênin đã khẳng định sự tất yếu ra đời của “luân lý cộng sản” và “đạo đức cộng sản” [29, tr.366]. Trong đó, V.I. Lênin đã chỉ ra thực chất cách mạng của nội dung đạo đức mới đó là: “Những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” [29, tr.369].
Những luận điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã đặt cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu quản lý quá trình giáo dục phẩm chất nhân cách nhằm đảm bảo cho con nguời phát triển một cách toàn diện, là cơ sở khoa học để xây dựng, phát triển và quản lý nền giáo dục mới – nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Sau khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, nước Nga xã hội chủ nghĩa ra đời, giáo dục bị phân chia thành hai dòng phát triển là giáo dục tư bản chủ nghĩa và giáo dục xã hội chủ nghĩa cùng song song tồn tại. Mỗi dòng giáo dục dựa trên những cơ sở phương pháp luận khác nhau và có những quan niệm khác nhau về GDĐĐ cho học sinh. Dòng giáo dục xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện nhiều nhà khoa học chuyên nghiên cứu về GDĐĐ cho học sinh. Nhiều tác phẩm về GDĐĐ cho học sinh ra đời vào thời kỳ này, tiêu biểu là M.I. Calinin. Những bài nói, bài viết của M.I.Calinin về GDĐĐ đã được dịch ra tiếng Việt. Đặc biệt, tác phẩm“Giáo dục cộng sản”, do Nhà xuất bản Thanh niên phát hành năm 1973, đã được sử dụng làm tài liệu giáo dục khá phổ biên trong các nhà trường lúc bấy giờ.
Việt Nam, với triết lý giáo dục “Tiên học lễ, hậu học văn”, ngay trong nền giáo dục Nho học, việc GDĐĐ cho học sinh luôn được coi trọng. Chu Văn An (1292 – 1370), là ông tổ của nền giáo dục Việt Nam đã đề cao tinh thần quản lý xã hội, đấu tranh chống các tệ nạn xã hội (thất trảm sớ); lịch sử giáo dục Việt Nam đã ghi nhận ông là nhà sư phạm lỗi lạc, đã từng là nhà quản lý đứng đầu Quốc Tử Giám dưới triều Trần, trong quá trình giáo dục ông không chỉ nêu gương sáng cho kẻ sĩ học tập mà còn kêu gọi, động viên và khuyên bảo học trò về ý thức và sự trau dồi đạo đức với tự quản lý mình trong quá trình giáo dục nhân cách, tư tưởng quản lý quá trình giáo dục nói chung, quản lý quá trình giáo dục phẩm chất, nhân cách nói riêng, đã được ông đề cập khá toàn diện và sâu sắc, ngày nay vẫn còn giá trị về lý luận và thực tiễn to lớn đối với công tác quản lý giáo dục.
Lê Quý Đôn (1726 – 1784), đã nêu ý kiến tiến bộ về quản lý quá trình giáo dục nhân cách và quản lý xã hội được thể hiện ở các mệnh đề: “Tứ tôn” và “Ngũ quy”; trong đó, ông hướng học trò với cách quản lý của riêng mình thông qua đọc sách, nghị luận, trước tác để học tập trở thành người hiền tài, ông đề cao hiền tài, đề cao giáo dục và quản lý giáo dục trong xã hội. Đây là những kiến giải quan trọng cho quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục và quản lý quá trình giáo dục nói riêng.
Tuy nhiên, do hạn chế về lịch sử và giai cấp, cho nên những quan điểm, tư tưởng quản lý và giáo dục của các ông có mặt còn mang nặng tính đẳng cấp, thiếu tính chất dân chủ, thiếu cơ sở khoa học trong cách thức tác động giáo dục con người và quản lý quá trình giáo dục.
Sang thời kỳ hiện đại, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa của Việt Nam được xây dựng dựa trên triết lý giáo dục Hồ Chí Minh. Đó là nền giáo dục lấy việc GDĐĐ làm gốc, làm trung tâm cho sự phát triển hoàn toàn con người. Dựa trên triết lý Thiên – Địa – Nhân ở phương Đông và những luận điểm triết học hiện đại của học thuyết Mác – Lênin, cùng với những giá trị văn hoá của dân tộc và thế giới, Hồ Chí Minh đã khái quát bản chất con người với bốn đức tính “cần, kiêm, liêm, chính”. Bốn đức tính đó được đặt trong mối quan hệ với quy luật của trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Trong giáo dục học sinh, Hồ Chí Minh coi trọng giáo dục cả đức và tài, nhưng trong đó đức phải là gốc, đức là cơ sở cho sự phát triển của tài. Người nói: “Cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đức, không có đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế, GDĐĐ cho học sinh đang là một chủ đề trung tâm thu hút sự chú ý của dư luận xã hội và cũng là chủ đề được các nhà sư phạm, các nhà khoa học, các nhà quản lý xã hội quan tâm nhiều nhất. Nhiều công trình nghiên cứu về GDĐĐ cho học sinh được xuất hiện. Có thể kể đến những công trình tiêu biểu như sau: “Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của Phạm Minh Hạc, do Nxb Chính trị quốc gia phát hành năm 2014. Toàn bộ nội dung cuốn sách này đều liên quan đến vấn đề GDĐĐ cho học sinh. Trong đó có một chương viết về “Định hướng chiến lược xây dựng đạo đức con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Trong cuốn sách chuyên khảo “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” của tác giả Trần Đình Tuấn, do Nxb. QĐND phát hành năm 2025, có nhiều nội dung bàn về cơ sở phương pháp luận của GDĐĐ cho học sinh. Năm 2014, tác giả Trần Kiều đã công bố kết quả nghiên cứu chuyên đề KHXH 07-07-CĐ, với tiêu đề: Thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho thanh niên học sinh, sinh viên trong chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Báo cáo Hội thảo khoa học toàn quốc của Hội khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam, tổ chức từ ngày 17 đến 19 tháng 7 năm 2021, tại Biên Hoà, Đồng Nai, đã cho ra mắt kỷ yếu “Giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên ở nước ta: Thực trạng và giải pháp”. Nội dung bao gồm nhiều bài viết của các nhà khoa học, các nhà sư phạm về QLGDĐĐ cho học sinh, sinh viên nói chung và cho học sinh THCS nói riêng.
Về đạo đức, văn hoá đạo đức có các công trình:“Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Chí Mỳ (1999); “Văn hoá đạo đức, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Thành Duy (2017). Tác giả của các công trình trên tìm hiểu tác động của cơ chế thị trường đến đời sống văn hoá đạo đức và đều thống nhất cho rằng, sự biến đổi của hệ thống giá trị đạo đức, văn hoá đạo đức ở nước ta hiện nay là một tất yếu; đề cập đến thực trạng đạo đức và đưa ra một số giải pháp khắc phục tình trạng xuống cấp về đạo đức ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước.
Tác giả Đặng Văn Chiến với đề tài: “Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở cụm trường Gia Lâm” (2019). Tác giả Trần Thế Hùng (2019) với Đề tài: “Một số biện pháp đổi mới quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THCS Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh“. Tác giả Trần Văn Hy với đề tài: “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh THCS ở huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang” (2021). Từ góc độ của nhà quản lý, tác giả đề xuất 7 biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng GDĐĐ cho học sinh. Tác giả Đỗ Thị Thanh Thủy (2023) với đề tài “Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của hiệu trưởng trường THPT Thành phố Hà Nội”. Tác giả Phạm Thanh Bình Quận Cầu Giấy Hà Nội với đề tài: “Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh THCS Quận Cầu Giấy thành phố Hà Nội” (2025).
Các công trình nghiên cứu về GDĐĐ được rất nhiều nhà khoa học đề cập đến, với những góc độ khác nhau. Trong đó vấn đề QLGDĐĐ cho học sinh THCS đã được một số tác giả đề cập đến như một sự gợi ý định hướng cho việc thực hiện các nhiệm vụ QLGDĐĐ ở nhà trường. QLGDĐĐ và GDĐĐ là những phạm trù khoa học khác nhau nhưng lại có quan hệ biện chứng với nhau. Không có GDĐĐ thì không có QLGDĐĐ. Lý luận QLGDĐĐ phải dựa trên nền tảng của lý luận GDĐĐ. Vì vậy, những công trình, đề tài nghiên cứu trên đây, đã trở thành cơ sở lý luận và cũng là những vấn đề đặt ra cho bản thân tôi tiếp tục nghiên cứu về GDĐĐ cho học sinh THCS dưới góc độ của khoa học quản lý giáo dục.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động QLGDĐĐ của hiệu trưởng trường THCS, đề xuất các biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm mang lại chất lượng, hiệu quả GDĐĐ cho học sinh ở các trường THCS quận Hai Bà Trưng Hà Nội, góp phần thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường của Đảng.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động QLGDĐĐ của hiệu trưởng trường THCS, đề xuất các biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm mang lại chất lượng, hiệu quả GDĐĐ cho học sinh ở các trường THCS quận Hai Bà Trưng Hà Nội, góp phần thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường của Đảng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định cơ sở lý luận của QLGDĐĐ cho học sinh trung học cơ sở. Khảo sát, đánh giá, phân tích thực trạng hoạt động QLGDĐĐ cho học sinh THCS Quận Hai Bà Trưng – Thành phố Hà Nội và tìm ra nguyên nhân của thực trạng.
Đề xuất biện pháp của hiệu trưởng về QLGDĐĐ cho học sinh THCS Quận Hai Bà Trưng – Thành phố Hà Nội.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Khách thể nghiên cứu
- Quản lý giáo dục nhà trường trung học cơ sở
4.2 Đối tượng nghiên cứu
- Quản lý của hiệu trưởng đối với giáo dục đạo đức cho học sinh THCS
4.3 Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Đề tài này tiếp cận vấn đề QLGDĐĐ cho học sinh dưới góc độ của khoa học quản lý giáo dục. Tuy nhiên, QLGDĐĐ cho học sinh là một phạm trù rộng, bao gồm nhiều cấp quản lý, nhiều lực lượng cùng tham gia quản lý. Đề tài này chỉ nghiên cứu biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhà trường THCS trong quá trình GDĐĐ cho học sinh.
Giới hạn về khách thể điều tra: Đề tài chỉ nghiên cứu về QLGDĐĐ cho học sinh ở các trường THCS quận Hai Bà Trưng – Hà Nội. Khách thể điều tra là CBQL, Tổng phụ trách, GVCN của các trường THCS Lương Yên; THCS Quỳnh Mai; THCS Trưng Nhị; THCS Lê Ngọc Hân; THCS Tô Hoàng ở Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội. Các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.
Giới hạn về thời gian: Các tư liệu, số liệu điều tra, khảo sát được nghiên cứu trong đề tài chỉ giới hạn trong thời gian 3 năm học, từ năm 2023 đến năm 2026.
5. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý quá trình GDĐĐ cho học sinh THCS Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội của Hiệu trưởng đang gặp không ít khó khăn cả về lý luận và thực tiễn. Vấn đề này chịu tác động của nhiều nhân tố. Trong đó biện pháp QLGDĐĐ chưa thực sự hữu hiệu. Nếu xây dựng được cơ sở lý luận về QLGDĐĐ cho học sinh THCS, đánh giá đúng thực trạng QLGDĐĐ cho học sinh THCS trên địa bàn quận Hai Bà Trưng và đề xuất được những biện pháp QLGDĐĐ phù hợp, cập nhật những thành tựu phát triển của khoa học quản lý giáo dục và của các khoa học, công nghệ hiện đại, cập nhật yêu cầu thực tiễn thời đại thì hoạt động của Hiệu trưởng trong QLGDĐĐ cho học sinh ở các trường THCS trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội sẽ khắc phục được những hạn chế đang diễn ra và sẽ đạt được chất lượng tốt hơn.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về GD&ĐT và quản lí giáo dục. Đề tài tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo quan điểm hệ thống cấu trúc; quan điểm lịch sử- lôgic; quan điểm thực tiễn trong quá trình nghiên cứu.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, khái quát hoá các tài liệu để hệ thống các vấn đề lí luận của đề tài. Lí luận về quản lí giáo dục và QLGDĐĐ cho học sinh ở trường THCS. Xây dựng một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLGDĐĐ cho học sinh ở trường THCS.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Các phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Phương pháp này được sử dụng để thu thập ý kiến của các khách thể điều tra thông qua việc trưng cầu ý kiến. Các nội dung trưng cầu ý kiến là các vấn đề liên quan đến thực trạng quản lý từ CBQL, GV và các lực lượng giáo dục khác.
Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu trong luận văn, mục đích của phương pháp này là giúp người sử dụng có thể nắm rõ thực trạng QLGDĐĐ ở quận Hai Bà Trưng hiện nay. Xây dựng bảng câu hỏi giành cho CBQL và giáo viên ở các trường trên địa bàn quận nhằm phát hiện thực tế việc QLGDĐĐ cho học sinh. Phát phiếu đến từng cá thể, thực hiện thu nhập thông tin thông qua phiếu điều tra. Hướng dẫn tỉ mỉ và đầy đủ yêu cầu của bảng hỏi cho đối tượng được điều tra. Thu thập và tổng hợp các số liệu, sau đó xử lý các kết quả.
Các phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm của các trường THCS khác trên địa bàn quận Hai Bà Trưng – Thành phố Hà Nội về công tác QLGDĐĐ cho học sinh ở trường THCS.
Các phương pháp quan sát: Phương pháp này nhằm theo dõi và thu thập những số liệu đặc trưng về các hoạt động được tiến hành để QLGDĐĐ cho học sinh ở trường THCS và hiệu quả của nó. Quan sát cách thực hiện các biện pháp nâng cao hiệu quả QLGDĐĐ trong thực tế, từ đó kiểm tra lại các biện pháp đó có cần thiết để áp dụng hay không.
Các phương pháp phỏng vấn: Phương pháp này nhằm thu thập các ý tưởng, các kinh nghiệm thực tiễn của các CBQL, cán bộ GV, phụ huynh, các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường được chọn làm người được phỏng vấn.
Các phương pháp xử lí số liệu: Dùng phương pháp thống kê toán học để xử lí số liệu đã thu thập được từ các phương pháp khác nhau để cho các kết quả nghiên cứu trở nên chính xác và đảm bảo độ tin cậy. Thống kê tất cả các số liệu từ bảng biểu, phiếu điều tra, sau đó tổng hợp rồi sử dụng rồi dùng toán định lượng, tính trung bình của số liệu, so sánh với chuẩn đặt ra rồi kết luận.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài đã phân tích thực trạng QLGDĐĐ cho học sinh THCS quận Hai Bà Trưng để phát hiện những điểm còn hạn chế trong công tác QLGDĐĐ ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn quận để có hướng khắc phục. Đề tài đề ra một số biện pháp của hiệu trưởng trong QLGDĐĐ cho học sinh THCS quận Hai Bà Trưng có hiệu quả trong thực tiễn giáo dục. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm nguồn tài liệu nghiên cứu cho các nhà trường THCS trên địa bàn thành phố Hà Nội.
8. Cấu trúc luận văn
Cấu trúc của luận văn gồm: phần mở đầu; phần nội dung có 3 chương, 9 tiết; phần kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và các bản phụ lục.
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Các khái niệm công cụ của đề tài
1.1.1. Khái niệm đạo đức học sinh
Dưới góc độ xã hội, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội được phản ánh dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực, quy tắc điều chỉnh (hoặc chi phối) hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội, lao động, người khác và với chính bản thân mình. Đạo đức gồm một hệ thống các quan niệm về cái thực, cái có trong mối quan hệ của con người với con người; được hình thành, phát triển trong cuộc sống, được xã hội thừa nhận và mọi người tự giác thực hiện. Đạo đức là văn hóa của cuộc sống, là biểu hiện của trình độ nhận thức của cá nhân và cũng là trình độ dân trí xã hội. Mỗi hình thái kinh tế hay mỗi giai đoạn đều có quy tắc sống không ghi thành văn bản nhưng có vị trí to lớn trong đời sống của cộng đồng. Đạo đức định hướng giá trị cuộc sống của mỗi cá nhân và điều chỉnh các hành vi xã hội, đạo đức thúc đẩy xã hội tiến đến trình độ văn minh.
Dưới góc độ của khoa học giáo dục, đạo đức được xem xét dưới hai phương diện. Về phương diện cá nhân, đạo đức là hệ thống thái độ ứng xử và thói quen hành vi tốt đẹp của con người phù hợp với chuẩn mực giá trị của xã hội; là những phẩm chất nhân cách của con người, phản ánh ý thức, tình cảm, chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của họ trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân họ với người khác và với chính bản thân mình. Đạo đức là một phần cơ bản của nhân cách, theo quan điểm truyền thống phương Đông, thì nhân cách của con người gồm hai mặt là “Đức” và “Tài”. Trong đó “Đức” bao giờ cũng được coi là cái gốc của các giá trị khác. Về phương diện xã hội, đạo đức là hệ thống chuẩn mực giá trị quy định các mối quan hệ của cá nhân với những người khác. Chuẩn mực đạo đức là những yêu cầu khách quan của xã hội nhưng được cá nhân ý thức và chiếm lĩnh nó, chuyển hoá thành hệ thống thái độ, hành vi của bản thân. Con người sinh ra không phải đã có đạo đức mà thông qua giáo dục, thông qua các hoạt động, giao lưu làm cho những quy định của xã hội thâm nhập vào mỗi cá nhân và trở thành phẩm chất đạo đức của mỗi cá nhân.
Từ phân tích lý luận chung về đạo đức, cho phép chúng ta rút ra quan niệm về đạo đức học sinh: Đạo đức của học sinh là toàn bộ những chuẩn mực về thái độ, hành vi đạo đức của người học sinh.
Đạo đức học sinh là đạo đức của một thế hệ người đang được học tập, rèn luyện trong nhà trường có sự quản lý, tổ chức và định hướng của nhà trường. Đạo đức học sinh vừa phản ánh đặc điểm riêng của cá nhân, vừa mang bản chất xã hội. Đạo đức của học sinh THCS là đạo đức của học sinh ở một lứa tuổi cụ thể. Mỗi độ tuổi khác nhau có những yêu cầu khác nhau về chuẩn mực giá trị đạo đức.
Những chuẩn mực giá trị đạo đức của xã hội được nhà trường chọn lọc, gia công sư phạm thành những phẩm chất đạo đức phù hợp với đặc điểm lứa tuổi mà học sinh có thể hấp thụ được và chuyển hoá thành phẩm chất đạo đức của bản thân.
1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức cho học sinh
Đạo đức không phải “từ trên trời rơi xuống”, mà đó là kết quả của quá trình rèn luyện kiên trì, bền bỉ hàng ngày của mỗi người. Đạo đức học sinh được hình thành và phát triển trong quá trình giáo dục, có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của nhà trường. Tức là, có sự quản lý, điều khiển của các nhà quản lý giáo dục. Nhà quản lý có chức năng tổ chức, điều khiển quá trình giáo dục, xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức GDĐĐ sao cho phù hợp với lôgíc hình thành phát triển nhân cách học sinh, phù hợp với mục tiêu yêu cầu giáo dục chung của nhà trường.
Tiếp cận dưới góc độ hoạt động nhân cách, thì bản chất của giáo dục là sự tác động qua lại giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục, thông qua tổ chức cuộc sống, hoạt động, giao lưu, nhằm nâng cao nhận thức, hình thành tình cảm, thái độ, niềm tin, rèn luyện thói quen hành vi đạo đức tốt đẹp theo mục tiêu giáo dục của nhà trường và phù hợp với chuẩn mực giá trị của xã hội. Đạo đức, nhân cách của học sinh được hình thành, phát triển trong quá trình giáo dục của nhà trường. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Hiền giữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Giáo dục can thiệp vào tất cả các yếu tố cấu thành nhân cách học sinh. Giáo dục tổ chức cho học sinh tham gia các loại hình hoạt động sao cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và điều kiện sư phạm cụ thể. Giáo dục tổ chức xây dựng, cải tạo môi trường và đưa học sinh vào những môi trường thuận lợi cho sự phát triển đạo đức, nhân cách. Giáo dục phát hiện ra những ưu điểm, nhược điểm trong cấu trúc tố chất bẩm sinh, di truyền của học sinh để có những biện pháp tác động sư phạm nhằm kích thích, phát triển những tố chất tốt đẹp và khắc phục những tố chất xấu, làm cho đạo đức, nhân cách học sinh ngày càng hoàn thiện.
Có thể quan niệm: Giáo dục đạo đức cho học sinh là quá trình có mục đích, có tổ chức, phối hợp thống nhất giữa hoạt động của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục, nhằm chuyển hoá những chuẩn mực giá trị đạo đức của xã hội thành phẩm chất đạo đức của cá nhân học sinh theo mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Mục đích giáo dục đạo đức cho học sinh là trang bị cho học sinh những tri thức cần thiết về các mối quan hệ xã hội, về lối sống nhân văn, nhân đạo, nhân quyền… Hình thành cho học sinh thái độ, tình cảm, niềm tin trong sáng đối với mọi người xung quanh. Rèn luyện để mỗi người tự giác rèn luyện và thực hiện các chuẩn mực đạo đức xã hội, có thói quen chấp hành các quy định của tập thể học sinh, của cộng đồng, nỗ lực học tập để cống hiến nhiều nhất cho Tổ quốc, nhằm phát triển toàn diện nhân cách của học sinh. Điều 27, Luật giáo dục sửa đổi năm 2022 xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là phải giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”. Như vậy, GDĐĐ cho học sinh THCS là một nội dung, nhiệm vụ giáo dục của nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện con người theo mục tiêu, yêu cầu của xã hội.
Chủ thể giáo dục đạo đức cho học sinh là các nhà giáo dục trong nhà trường. Chủ thể giáo dục là những nhà giáo dục chuyên nghiệp, nhà sư phạm được đào tạo cơ bản có đủ phẩm chất, năng lực để tiến hành các hoạt động giáo dục. Trong thực tiễn, tham gia vào quá trình GDĐĐ cho học sinh còn bao gồm cả các tổ chức giáo dục trong nhà trường, xã hội và gia đình của học sinh. Đó là những môi trường gần mà học sinh thường xuyên tham gia sinh hoạt, thường xuyên tác động đến cuộc sống, hoạt động, giao lưu của học sinh.
Đối tượng giáo dục là học sinh. Đó là những người đang học tập, rèn luyện để trở thành một thành viên đầy đủ của xã hội. Học sinh là những người độ tuổi đang hoà nhập vào xã hội, đang hình thành các quan điểm, thái độ, hành vi. Mọi sự tác động của xã hội, của nhà trường, gia đình đối với học sinh đều để lại những dấu ấn đầu tiên trong tâm hồn của họ, có tác động rất sâu sắc. Tác động tích cực sẽ hướng cho học sinh hình thành những biểu tượng tốt đẹp và ngược lại, tác động tiêu cực sẽ để lại trong tâm hồn học sinh những biểu tượng xấu.
Chủ thể giáo dục thông qua các hoạt động dạy học, tổ chức cuộc sống, giao lưu và các loại hình hoạt động khác để giáo dục. Phương thức giáo dục chủ yếu trong nhà trường là thông qua dạy học để nâng cao nhận thức, xây dựng niềm tin đạo đức tốt đẹp. Đồng thời giáo dục trong nhà trường phải thông qua tổ chức cho học sinh tham gia vào các loại hình hoạt động, giao lưu để hình thành các mối quan hệ xã hội tốt đẹp, đồng thời hình thành hệ thống thái độ tích cực đối với con người và thế giới chung quanh.
1.1.3. Khái niệm quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh là quá trình tổ chức, phối hợp các lực lượng giáo dục, điều khiển các loại hình hoạt động của nhà trường nhằm đảm bảo cho quá trình giáo dục đạo đức diễn ra đúng kế hoạch và đạt được mục tiêu chuyển hoá những chuẩn mực giá trị đạo đức của xã hội thành phẩm chất đạo đức của cá nhân học sinh với chất lượng cao nhất.
Mục đích của quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh là đảm bảo cho các hoạt động giáo dục diễn ra theo một hệ thống nhất quán, phù hợp với quy luật giáo dục, nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm lực của nhà trường và xã hội cùng tham gia vào quá trình giáo dục. GDĐĐ cho học sinh là một nhiệm vụ trung tâm của nhà trường, đòi hỏi mọi giáo viên, mọi tổ chức lực lượng trong nhà trường cùng phải tham gia. GDĐĐ cho học sinh không phải chỉ bằng những bài giảng về đạo đức công dân, mà phải thông qua mọi loại hình hoạt động đa dạng của nhà trường. Điều đó đòi hỏi quá trình GDĐĐ cho học sinh cần phải được quản lý, tổ chức theo một kế hoạch chung, thống nhất cho mọi lực lượng, mọi hoạt động. QLGDĐĐ cho học sinh có nhiệm vụ huy động mọi tiềm lực và tổ chức, phối hợp các lực lượng cùng tham gia vào quá trình giáo dục. Đảm bảo cho hoạt động của các lực lượng không mâu thuẩn với nhau mà phải cùng hướng tới một mục tiêu chung của nhà trường.
Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh là quản lý toàn bộ các lực lượng tham gia vào quá trình giáo dục và mọi hoạt động của các lực lượng đó. Phương thức quản lý chủ yếu là thông qua hệ thống kế hoạch giáo dục của nhà trường. GDĐĐ cho học sinh bao giờ cũng diễn ra theo những quy luật của quá trình giáo dục, người quản lý có chức năng nắm quy luật đó và đề ra các nguyên tắc chỉ đạo hoạt động giáo dục sao cho phù hợp với quy luật. Trên cơ sở đó, xác định nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục cho từng loại đối tượng, dự kiến phân chia thời gian theo thời khóa biểu của từng tuần, từng tháng, từng quý, từng học kỳ đến cả năm học, cả khoá học. Tức là, người CBQL nhà trường phải xây dựng được kế hoạch quản lý ngắn hạn, trung hạn, dài hạn cho các hoạt động GDĐĐ học sinh.
Chủ thể quản lý giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường là đội ngũ CBQL giáo dục và các tổ chức quản lý giáo dục của nhà trường, đứng đầu là Hiệu trưởng nhà trường. Chủ thể quản lý giáo dục vừa là cá nhân, vừa là tập thể. Mọi hoạt động của chủ thể QLGDĐĐ cho học sinh được thực hiện dựa trên các nguyên tắc quản lý giáo dục nhà trường, trong đó nguyên tắc tập trung dân chủ được xác định là nguyên tắc cơ bản. Ở nhà trường THCS, chủ thể QLGDĐĐ cho học sinh cũng đồng thời là chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục đó. Chủ thể QLGDĐĐ cho học sinh vừa phải có kiến thức về quản lý giáo dục, vừa phải có hiểu biết và kỹ năng thực tiễn về GDĐĐ cho học sinh.
Đối tượng quản lý là các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình GDĐĐ cho học sinh. Trong đó, bao gồm cả nhà trường, gia đình và xã hội, nhưng chủ yếu vẫn là đội ngũ giáo viên và học sinh của nhà trường. Mối quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý chỉ có tính tương đối. Trong một số trường hợp, đối tượng chịu sự quản lý của cấp trên nhưng đồng thời lại là chủ thể quản lý của cấp dưới. Học sinh là đối tượng quản lý của nhà trường, của gia đình và của xã hội, nhưng học sinh lại là chủ thể quản lý quá trình tự giáo dục, tự điều khiển các hành vi đạo đức của chính bản thân mình. Đối tượng quản lý chịu sự quản lý của chủ thể quản lý. Mọi hoạt động của đối tượng quản lý phải tuân thủ theo yêu cầu của chủ thể quản lý. Trên cơ sở những yêu cầu của chủ thể quản lý, đối tượng quản lý phải chuyển hoá những yêu cầu đó thành yêu cầu của chính bản thân mình. Sự tác động qua lại giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý là sự tác động hai chiều. Đối tượng quản lý tiếp nhận những tác động của chủ thể quản lý không phải thụ động, máy móc mà được thực hiện một cách có ý thức, có chọn lọc. Kết quả hoạt động của đối tượng quản lý cao hay thấp phụ thuộc vào thái độ tiếp nhận các tác động của chủ thể quản lý có tích cực hay không. Kết quả hoạt động GDĐĐ cho học sinh cao hay thấp phần lớn phụ thuộc vào thái độ tích cực của đối tượng quản lý trong tiếp nhận các tác động của chủ thể quản lý.
1.1.4. Biện pháp quản lý của Hiệu trưởng trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh THCS
Biện pháp quản lý của Hiệu trưởng trong giáo dục đạo đức cho học sinh THCS là cách thức tổ chức, điều khiển các lực lượng giáo dục trong nhà trường khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm lực giáo dục trong quá trình thực hiện các nội dung, nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh, đảm bảo cho các hoạt động giáo dục diễn đúng quy luật và thống nhất trong toàn trường.
Quản lý giáo dục bao giờ cũng có kế hoạch. Hiệu trưởng quản lý nhà trường bằng kế hoạch, quản lý thông qua kế hoạch. Hiệu trưởng phải xây dựng biện pháp quản lý, dự kiến cách thức tổ chức tiến hành thực hiện các nhiệm vụ quản lý và xử lý các tình huống xuất hiện trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đó. Tất cả những điều đó đều được thể hiện trong kế hoạch giáo dục. Cấu trúc của bản kế hoạch giáo dục thường bao gồm mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ và biện pháp tổ chức thực hiện. Một bản kế hoạch có tính khả thi hay không, chủ yếu là ở hệ thống biện pháp có phù hợp hay không. Mục tiêu một thì phải có biện pháp mười. Điều đó đã phản ánh vai trò quan trọng của biện pháp.
Biện pháp là một phần nội dung của kế hoạch, được xác định trong kế hoạch. Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch quản lý giáo dục nhà trường, đồng thời phải dự kiến biện pháp quản lý. Dự kiến các biện pháp quản lý phải dựa trên cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn cụ thể. Biện pháp dự kiến càng sát với thực tiễn bao nhiêu càng có tính khả thi bấy nhiêu. Biện pháp quản lý phải thống nhất với nhiệm vụ, nội dung và mục tiêu quản lý.
Biện pháp QLGDĐĐ cho học sinh là cách thức tổ chức, điều khiển các hoạt động GDĐĐ. Trong QLGDĐĐ cho học sinh, biện pháp không đồng nhất với phương pháp và giải pháp. Biện pháp QLGDĐĐ mang tính cụ thể, còn giải pháp mang tính tổng quát hơn. Biện pháp thường nói về cách thức tổ chức tiến hành, thực hiện, cách xử lý các tình huống trong thực tiễn, các thủ pháp của một chủ thể rõ ràng. Biện pháp QLGDĐĐ cho học sinh có tính khoa học. Tính khoa học là tính hợp quy luật khách quan của các biện pháp. Để dự kiến được các biện pháp có tính khoa học đòi hỏi Hiệu trưởng phải có kiến thức về quản lý giáo dục và phải có hiểu biết chung về lý luận, thực tiễn GDĐĐ học sinh.
Biện pháp QLGDĐĐ học sinh phải phù hợp với những quy định pháp lý hiện hành. Các biện pháp của Hiệu trưởng phải phù hợp với những quy định về quyền hạn, nhiệm vụ của Hiệu trưởng đã được quy định trong Điều lệ công tác nhà trường. Đồng thời, những biện pháp đó không mâu thuẫn với các văn bản quy định của ngành GD&ĐT, của nhà trường và của các tổ chức xã hội. Biện pháp QLGDĐĐ cho học sinh phải có tính khả thi. Tức là biện pháp phù hợp với khả năng, của chủ thể và đối tượng quản lý, phù hợp nhiệm vụ, nội dung giáo dục, phù hợp mục tiêu giáo dục. Biện pháp đề xuất phải triển khai thực hiện được và thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn.
Biện pháp QLGDĐĐ cho học sinh THCS phải phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi học sinh. Những biện pháp đó còn phải phù hợp với đặc điểm về chương trình, nội dung giáo dục ở các trường THCS. Học sinh THCS có những đặc điểm riêng về tâm lý và sinh lý, có chương trình, nội dung giáo dục riêng đã được quy định. Hiệu trưởng nhà trường đề xuất các biện pháp QLGDĐĐ cho học sinh vừa phải tuân thủ theo những yêu cầu chung, vừa phải biết bám sát và khai thác các đặc điểm riêng của học sinh THCS.
1.2. Vai trò của Hiệu trưởng và nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS
1.2.1. Vai trò của Hiệu trưởng trong quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các nhà trường THCS là nhiệm vụ của mọi CBQL giáo dục trong nhà trường, đứng đầu là Hiệu trưởng. Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm đầu tiên và cũng là người chịu trách nhiệm cuối cùng trong mọi hoạt động của đội ngũ CBQL giáo dục trong nhà trường. Mỗi trường THCS có một Hiệu trưởng và một số Phó hiệu trưởng. Hiệu trưởng phải đạt tiêu chuẩn quy định tại Chuẩn Hiệu trưởng trường THCS, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận. Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường. Hiệu trưởng các trường THCS thuộc hệ thống giáo dục quốc dân phải được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý trường học.
Hiệu trưởng trường THCS có chức năng quản lý mọi tổ chức, mọi hoạt động của nhà trường, chịu trách nhiệm về mọi mặt của nhà trường. Trong đó, có các nhiệm vụ xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường; thực hiện các quyết nghị của Hội đồng trường theo quy định; xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch nhiệm vụ năm học. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của hiệu trưởng THCS là quản lý giáo viên, nhân viên; quản lý chuyên môn; quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ chức.
Với chức năng, nhiệm vụ được quy định tại Điều lệ công tác nhà trường, Hiệu trưởng THCS là người chịu trách nhiệm chính trong quản lý các hoạt động GDĐĐ cho học sinh. Hiệu trưởng quản lý quá trình GDĐĐ cho học sinh bằng kế hoạch. Hiệu trưởng phải chủ động xây dựng kế hoạch vạch ra các biện pháp quản lý, phối hợp các mặt hoạt động, phối hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường, nhằm khai thác, sử dụng mọi tiềm lực của nhà trường tham gia vào quá trình GDĐĐ cho học sinh.
Trước hết, Hiệu trưởng có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch tổng thể của nhà trường, trong đó chú trọng phối hợp các mặt hoạt động trong nhà trường hướng vào giáo dục đạo đức cho học sinh. GDĐĐ cho học sinh không phải là một mặt hoạt động riêng biệt của nhà trường mà đó là hoạt động được thực hiện thông qua các mặt hoạt động khác trong nhà trường. Hiệu trưởng có nhiệm vụ xác định mục tiêu, nội dung, phương thức GDĐĐ cho học sinh thông qua các loại hình hoạt động đó. Nếu không có kế hoạch, không có định hướng giáo dục thì các mặt hoạt động của nhà trường chỉ nhằm thực hiện các nhiệm vụ đơn lẻ của lĩnh vực hoạt động đó, còn kết quả GDĐĐ chỉ là hệ quả tự phát, thiếu tính hệ thống, thiếu tính bền vững.
Hiệu trưởng có nhiệm vụ tổ chức, phối hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường tham gia vào quá trình GDĐĐ cho học sinh. QLGDĐĐ cho học sinh là nhiệm vụ đòi hỏi cả hệ thống nhà trường cùng tham gia. Tuy nhiên, Hiệu trưởng phải phân công trách nhiệm cụ thể cho từng lực lượng với từng mặt hoạt động cụ thể. QLGDĐĐ cho học sinh cần phải có sự phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội. Hiệu trưởng có nhiệm vụ định ra kế hoạch phối hợp các lực lượng giáo dục tham gia vào các loại hình hoạt động GDĐĐ cho học sinh.
Hiệu trưởng trường THCS có chức năng quản lý mọi tổ chức, mọi hoạt động của nhà trường, chịu trách nhiệm về mọi mặt của nhà trường. Hiệu trưởng phải chủ động xây dựng kế hoạch phối hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường, nhằm khai thác, sử dụng mọi tiềm lực của nhà trường tham gia vào quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh.
Mối quan hệ giữa hiệu trưởng với Chi Đoàn, Công đoàn là mối quan hệ phối hợp hoạt động theo sự lãnh đạo của chi bộ, chỉ đạo của BGH.
Quan hệ giữa hiệu trưởng với hội đồng sư phạm, hội đồng thi đua khen thưởng, kỉ luật, hội cha mẹ học sinh là mối quan hệ tham mưu tác động. Mối quan hệ giữa hiệu trưởng và phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn, GVBM, GVCN là các mối quan hệ chỉ huy điều hành, các mối quan hệ này có tác động hỗ trợ, ràng buộc chặt chẽ với nhau.
Hiệu trưởng có nhiệm vụ tổ chức, phối hợp các lực lượng trong và ngoài nhà trường tham gia vào quá trình GDĐĐ cho học sinh. Hiệu trưởng phải phân công trách nhiệm cụ thể cho từng lực lượng với từng mặt hoạt động cụ thể. Hiệu trưởng có nhiệm vụ định ra kế hoạch phối hợp các lực lượng giáo dục tham gia vào các loại hình hoạt động GDĐĐ cho học sinh.
Hiệu trưởng nhà trường THCS không chỉ xây dựng kế hoạch mà còn phải tổ chức thực hiện kế hoạch, thường xuyên kiểm tra, phát hiện, nắm thông tin ngược kịp thời ra những quyết định, điều chỉnh các hoạt động của các lực lượng giáo dục trong quá trình giáo GDĐĐ cho học sinh.
1.2.2. Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS
Cách thức xác định nội dung QLGDĐĐ cho học sinh THCS, có thể tiếp cận theo những góc độ khác nhau. Theo tiếp cận chức năng quản lý, thì nội dung QLGDĐĐ cho học sinh THCS bao gồm việc thực hiện các chức năng quản lý giáo dục. Theo tiếp cận các thành tố cấu trúc, thì nội dung QLGDĐĐ cho học sinh THCS gồm các thành tố tham gia vào quá trình QLGDĐĐ cho học sinh. Ngoài ra, còn có thể xác định nội dung QLGDĐĐ cho học sinh THCS theo những cách tiếp cận khác. Mỗi cách tiếp cận đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Để khắc phục những nhược điểm của các cách tiếp cận riêng lẻ đó, chúng tôi đề xuất cách tiếp cận tổng thể, bao gồm cả tiếp cận chức năng và tiếp cận các thành tố. Theo cách tiếp cận tổng thể, nội dung QLGDĐĐ cho học sinh gồm những vấn đề cơ bản sau:
1.2.2.1. Quản lý kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh
Căn cứ vào kế hoạch tổng thể chung của nhà trường, Hiệu trưởng trực tiếp xây dựng kế hoạch, hoặc chỉ đạo các lực lượng quản lý giáo dục trong nhà trường xây dựng kế hoạch GDĐĐ cho học sinh. Kế hoạch GDĐĐ cho học sinh, có thể được tách ra xây dựng thành một kế hoạch riêng, hoặc có thể cấu trúc thành một nội dung trong kế hoạch hoạt động của các bộ phận. Nhưng dù bản kế hoạch được xây dựng theo cách thức nào thì cũng phải lồng ghép các nội dung GDĐĐ vào các mặt hoạt động khác nhau của nhà trường, đảm bảo cho mọi hoạt động, mọi lực lượng trong nhà trường cùng tham gia GDĐĐ cho học sinh trên cương vị của mình, thông qua hoạt động chuyên môn của bộ phận mình.
Kế hoạch QLGDĐĐ cho học sinh phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, đúng quy cách, có tính thực tiễn, tính khả thi. Việc xây dựng kế hoạch phải căn cứ vào tiềm lực của nhà trường và sự ủng hộ của địa phương nơi trường đứng chân. Kế hoạch QLGDĐĐ cho học sinh phải phản ánh tính đặc thù của nhà trường, của học sinh THCS, của điều kiện sư phạm thực tiễn. Kế hoạch QLGDĐĐ cho học sinh phải được cụ thể hoá thành chương trình hành động của các lực lượng giáo dục nhằm thực hiện các mục tiêu GDĐĐ cho học sinh.
Chương trình hành động này bao gồm các chi tiết về mục tiêu chất lượng, nội dung công tác, thời gian, biện pháp thực hiện, phân công người chịu trách nhiệm và dự kiến sản phẩm. Chương trình hành động phải bảo đảm cho mọi lực lượng giáo dục trong nhà trường ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình, hiểu biết sâu sắc về những hoạt động của mình trong GDĐĐ cho học sinh.
Quản lý kế hoạch GDĐĐ là quản lý mục tiêu, nội dung, chương trình GDĐĐ cho học sinh. Quản lý mục tiêu GDĐĐ cho học sinh chính là việc thiết kế mục tiêu, quán triệt mục tiêu đến toàn bộ các lực lượng giáo dục trong nhà trường và tổ chức quản lý có hiệu quả quá trình GDĐĐ, làm cho kết quả cuối cùng đạt được mục tiêu đề ra.
Theo lý luận quản lý giáo dục thì mục tiêu GDĐĐ cho học sinh là một bộ phận của mục tiêu quản lý giáo dục, là trạng thái tương lai hay là kết quả cuối cùng mà tổ chức và các lực lượng GDĐĐ trong toàn trường mong muốn đạt tới. Vì vậy, trong QLGDĐĐ cho học sinh, việc xây dựng và quản lý mục tiêu ngay từ khi bắt đầu là một yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến tính khả thi của kế hoạch quản lý. Vì mục tiêu quản lý không những định hướng cho hành động của nhà quản lý, mà còn chỉ dẫn nhà quản lý giáo dục trong toàn trường ra các quyết định quản lý chính xác, phù hợp yêu cầu của nhà trường và yêu cầu xã hội.
Để quản lý tốt mục tiêu GDĐĐ cho học sinh THCS, chủ thể quản lý giáo dục phải dựa trên cơ sở pháp lý quy định trong Luật Giáo dục, Điều lệ trường phổ thông, của Nhà trường và các văn bản pháp quy khác; phải quản lý tốt từ khâu thiết kế mục tiêu đến quá trình tổ chức thực hiện mục tiêu và phải phát huy tốt vai trò của hệ thống quản lý giáo dục nhà trường trong quản lý mục tiêu, biến mục tiêu thành hiện thực.
Quản lý nội dung, chương trình GDĐĐ cho học sinh là quản lý toàn bộ hệ thống các kiến thức, các giá trị, chuẩn mực, các kỹ xảo, kỹ năng cần trang bị… thực chất của quản lý nội dung GDĐĐ là quán triệt mục tiêu, yêu cầu GDĐĐ của Nhà trường vào nội dung giáo dục, bảo đảm cho nội dung GDĐĐ luôn nhất quán với mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường. Quản lý nội dung là khâu thiết kế xây dựng chương trình, nội dung và quá trình thực hiện chương trình, nội dung GDĐĐ cho học sinh từ việc triển khai kế hoạch, cho đến phân công, phân cấp tổ chức thực hiện. Vì vậy, để thực hiện tốt vấn đề này, yêu cầu đội ngũ CBQL phải quán triệt sâu sắc kế hoạch GDĐĐ, nắm chắc mục tiêu, yêu cầu nội dung GDĐĐ và quy định về khối lượng kiến thức cần trang bị cho học sinh theo từng năm học và từng giai đoạn.
Quản lý kế hoạch GDĐĐ cho học sinh là quản lý toàn bộ khâu thiết kế về các hoạt động GDĐĐ của nhà trường, bao gồm dự kiến mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục, dự kiến tổ chức lực lượng giáo dục và điều kiện cơ sở, vật chất đảm bảo cho các hoạt động giáo dục. Kế hoạch đó phải được phổ biến đến mọi cá nhân và tổ chức có liên quan, làm cho họ ý thức được và quyết tâm thực hiện với tất cả trách nhiệm của bản thân.
1.2.2.2. Quản lý khâu tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức
Khi đã có kế hoạch giáo dục, phân công tổ chức lực lượng giáo dục chặt chẽ và phù hợp thì kết quả của các hoạt động chỉ còn phụ thuộc vào diễn biến của tiến trình giáo dục. Tiến trình thực hiện kế hoạch GDĐĐ cho học sinh là khâu triển khai kế hoạch trong thực tiễn. Việc triển khai thực hiện kế hoạch đã được phân công cho các lực lượng giáo dục của nhà trường. Hiệu trưởng phải theo dõi nắm bắt thông tin ngược từ hoạt động thực tiễn của những cá nhân, tổ chức về từng mặt nội dung giáo dục đã được phân công. Những diễn biến trong thực tiễn còn tuỳ thuộc theo năng lực tổ chức của các chủ thể giáo dục. Hiệu trưởng phải nắm chắc hoạt động của các chủ thể giáo dục kịp thời phát hiện nguyên nhân và đề xuất biện pháp quản lý bổ sung thích hợp.
Hiệu trưởng phải điều chỉnh sự phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trong hệ thống. GDĐĐ cho học sinh là nhiệm vụ của nhiều lực lượng, có cả lực lượng bên trong, có cả lực lượng bên ngoài nhà trường, có nhiều loại hình hoạt động, việc phối hợp giữa các lực lượng tuy đã dược dự kiến trong kế hoạch, nhưng đôi khi trong thực tiễn lại diễn biến khác. Mặt khác, mỗi bộ phận hoạt động tương đối riêng lẻ, khó quan sát được các bộ phận khác, các mặt hoạt động khác trong hệ thống giáo dục. Điều đó đòi hỏi Hiệu trưởng phải có quan sát, nắm tình hình tổng quát trong toàn trường, của mọi hướng, mọi hoạt động để kịp thời điều chỉnh.
Quản lý phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục đạo đức cho học sinh, để đạt được mục tiêu GDĐĐ cho học sinh đòi hỏi nhà quản lý phải tìm ra các hình thức phương pháp dạy học, giáo dục tối ưu và vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức đó nhằm giáo dục nhận thức, bồi dưỡng ý thức và hình thành thói quen, hành vi đạo đức cho học sinh. Theo đó, phương pháp, hình thức tổ chức GDĐĐ cho học sinh bao gồm toàn bộ những cách thức tổ chức, cách thức thao tác và biện pháp tác động, điều khiển của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng hệ thống công cụ, phương tiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã xác định. Hệ thống công cụ quản lý gồm: Điều lệ nhà trường phổ thông; Quy chế GD&ĐT và chương trình, kế hoạch, nội quy của các cấp. Sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp quản lý, song cần tập trung vào ba phương pháp chủ yếu, đó là: Phương pháp hành chính; phương pháp giáo dục, thuyết phục, nêu gương; phương pháp kích thích bằng vật chất, tinh thần và phương pháp kiểm tra, đánh giá.
Hiệu trưởng tiến hành các hoạt động quản lý, tổ chức lực lượng GDĐĐ cho học sinh trường THCS. Phân công rõ ràng từng nội dung công việc đến từng người thực hiện. Sự phân công phải cụ thể về nội dung công việc, thời gian hoàn thành, chất lượng sản phẩm. Xác lập cơ cấu phối hợp với các bộ phận chức năng để công việc được tiến hành đồng bộ, toàn diện, đúng tiến độ của kế hoạch chung.
Chủ thể của quá trình GDĐĐ cho học sinh trong nhà trường THCS là đội ngũ giáo viên và học sinh. Quản lý lực lượng GDĐĐ cho học sinh THCS, trước hết là quản lý đội ngũ giáo viên và học sinh.
Quản lý học sinh về thực chất là quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ của học sinh trong quá trình học tập và rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức. Để quản lý đối tượng GDĐĐ là học sinh, đòi hỏi các nhà quản lý giáo dục phải sâu sát nắm chắc số lượng, chất lượng, trình độ văn hoá của từng học sinh, đặc điểm tâm lý, lứa tuổi, thành phần xuất thân để phân loại và có những hình thức, biện pháp quản lý, giáo dục linh hoạt, mềm dẻo cụ thể và ra các quyết định quản lý phù hợp; hướng dẫn học sinh lập kế hoạch rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức; tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch; thường xuyên theo dõi, tìm hiểu những biểu hiện tích cực và tiêu cực trong quá trình học tập và rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức để có sự điều chỉnh kịp thời nhằm thực hiện thống nhất mục tiêu quản lý đã xác định, đồng thời tiến hành có nề nếp các hoạt động; tổ chức tốt các hoạt động tự quản lý và phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục tạo điều kiện cho học sinh phát triển, hoàn thiện nhân cách.
Hạt nhân của quản lý học sinh trong quá trình GDĐĐ là quản lý các hoạt động của học sinh, quản lý các mối quan hệ và kết quả chuyển hoá những chuẩn mực giá trị đạo đức của xã hội thành thái độ, niềm tin, thói quen hành đạo đức tốt đẹp của từng học sinh. Thông qua các loại hình hoạt động mà xây dựng hệ thống thái độ, xây dựng các mối quan hệ, bồi dưỡng các phẩm chất, các kỹ năng sống cùng nhau cho học sinh.
Tham gia quá trình GDĐĐ học sinh còn có đội ngũ giáo viên bộ môn, các tổ chức quần chúng như: Đoàn thanh niên; công đoàn, phụ nữ; Hội đồng giáo dục…, đội ngũ GVCN phải phối hợp chặt chẽ với các bộ phận, các lực lượng trong nhà trường để quản lý, giáo dục, rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức cho học sinh. Mặt khác, học sinh vừa là chủ thể, vừa là đối tượng quản lý; cho nên, chỉ có thể nâng cao chất lượng QLGDĐĐ khi học sinh ý thức đầy đủ về vai trò của tự quản lý, giáo dục và rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức.
Ngoài các chủ thể bên trong nhà trường là giáo viên, học sinh và các tổ chức đoàn thể; quá trình GDĐĐ cho học sinh THCS còn có các chủ thể bên ngoài nhà trường đó là gia đình và các tổ chức xã hội. Gia đình và các tổ chức xã hội vừa là chủ thể quản lý giáo dục, vừa là môi trường GDĐĐ cho học sinh. Quan hệ giữa nhà trường với gia đình và các tổ chức xã hội là quan hệ phối hợp hoạt động giữa chủ thể bên trong với chủ thể bên ngoài nhà trường.
1.2.2.3. Quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá giáo dục đạo đức
Chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh THCS là một phạm trù rộng, có thể tiếp cận đánh giá chất lượng nhiều góc độ khác nhau. Đối với Hiệu trưởng nhà trường THCS, quản lý chất lượng gắn liền với các hoạt động kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch và kết quả GDĐĐ cho học sinh.
Kiểm tra, giám sát, thanh tra là một chức năng quan trọng của quản lý giáo dục. Kiểm tra phải đi cùng với đánh giá, kiểm tra là điều kiện để đánh giá. Kiểm tra, đánh giá tình trạng ban đầu: đây là khâu kiểm tra đánh giá để xây dựng kế hoạch giáo dục. Kiểm tra, đánh giá tình trạng ban đầu còn bao gồm kiểm tra, đánh giá tình trạng triển khai thực hiện kế hoạch giáo dục đã được phê duyệt. Hiệu trưởng phải bám sát, nắm bắt những diễn biến ban đầu, đánh giá kết quả triển khai thực hiện kế hoạch của các lực lượng, các đầu mối và kịp thời động viên, khuyến khích hợp lý hoặc đưa ra những quyết định điều chỉnh bổ sung khi cần thiết. Kiểm tra, đánh giá quá trình: sau khi đã khởi đầu thành công, các hoạt động GDĐĐ cho học sinh tiếp tục được diễn ra theo kế hoạch. Hiệu trưởng cần kiểm tra, đánh giá về tiến độ thực hiện các nhiệm vụ, nội dung giáo dục; về phương pháp tiến hành; về kết quả ban đầu của các hoạt động bộ phận, các giai đoạn, phát hiện sai sót, lệch lạc; tìm nguyên nhân để điều chỉnh, uốn nắn kịp thời. Kiểm tra, đánh giá kết thúc thực hiện kế hoạch. Đây là khâu kiểm tra, đánh giá tổng hợp kết quả thực hiện của các lực lượng, các đầu mối. Sau một quá trình giáo dục, một học kỳ, một năm, một khoá học thường phải có kiểm tra, đánh giá kết quả.
Kết quả giáo dục đạo đức là mức độ đạt được về phẩm chất của học sinh theo thiết kế của mục tiêu, là thước đo đánh giá chất lượng quá trình giáo dục, là kết tinh tất cả các lực lượng tham gia vào quá trình giáo dục, của các yếu tố lãnh đạo, quản lý, đến việc thực hiện các khâu, các bước của quá trình giáo dục. Kết quả GDĐĐ nếu được nhìn nhận đánh giá và lượng hoá một cách khoa học, được đối chiếu thường xuyên với mục tiêu đặt ra trong quá trình giáo dục và được điều chỉnh kịp thời sẽ có tác dụng đưa quá trình giáo dục phát triển đúng hướng, đáp ứng mục tiêu yêu, cầu đào tạo của Nhà trường.
Để quản lý tốt kết quả GDĐĐ cho học sinh thì việc đánh giá kết quả GDĐĐ phải được tiến hành một cách nghiêm túc, đảm bảo tính khách quan, công bằng; đảm bảo tính toàn diện nhưng phải có trọng điểm; đảm bảo tính phát triển và phản ánh đúng thực chất, đúng thủ tục, quy trình phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Nhà trường và thường xuyên rút kinh nghiệm về công tác kiểm tra đánh giá kết quả GDĐĐ cho học sinh.
Như vậy, những nội dung QLGDĐĐ cho học sinh THCS hiện nay có quan hệ biện chứng, thống nhất chặt chẽ với nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Việc quản lý tốt nội dung này sẽ là điều kiện để quản lý các nội dung khác và ngược lại. QLGDĐĐ cho học sinh, thì chủ thể giữ vai trò quyết định, còn tính tích cực, tự giác, năng động của học sinh giữ vai trò quan trọng, cho nên phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng, không được tuyệt đối hoá và xem nhẹ nội dung nào.
Những yếu tố tác động đến quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở.
- 1. Những yếu tố chủ quan
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, bên trong và bên ngoài, phụ thuộc vào tâm lý người được quản lý, vào gia đình, xã hội. Yếu tố chủ quan là những nhân tố tác động từ bên trong nhà trường. Bao gồm những yếu tố thuộc về nhà trường và những yếu tố thuộc về giáo viên, học sinh.
Trước hết, quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS phụ thuộc vào phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường. Đội ngũ CBQL giáo dục nhà trường, đứng đầu là Hiệu trưởng – chủ thể của quá trình quản lý.
Chất lượng GDĐĐ cho học sinh chịu sự chi phối của nhiều yếu tố, trong đó chủ thể quản lý là yếu tố trung tâm, chi phối các yếu tố khác, liên kết các yếu tố, làm cho các yếu tố khác phát huy tác dụng. Người CBQL muốn điều khiển được các thành tố khác, làm cho các thành tố đó luôn vận động theo đúng quy luật trong hệ thống quản lý thì phải có phẩm chất, năng lực tốt, phải có tâm, có tầm, có tài trong hoạt động quản lý. Chỉ khi nào người CBQL có tâm, có đức thì mới có tình thương yêu học sinh, và chỉ có tình thương yêu học sinh mới hình thành được động cơ thôi thúc họ xả thân vào các hoạt động của nhà trường với mục đích “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Mặt khác, người CBQL có tâm, có đức thì mới có thể lo trước cái lo của mọi người, vui sau cái vui của mọi người trong nhà trường, trở thành tấm gương mẫu mực cho mọi người noi theo. Năng lực của người CBQL cho phép họ đưa ra được những quyết định quản lý đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn của nhà trường.
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS chịu sự chi phối của những chủ trương, biện pháp quản lý của người lãnh đạo cao nhất trong nhà trường. Chủ thể quản lý giáo dục nhà trường là người đề xuất các chủ trương, biện pháp QLGDĐĐ cho học sinh. Chủ trương, biện pháp quản lý đúng sẽ có tác động tích cực đến đội ngũ các bộ, giáo viên nhân viên và học sinh trong nhà trường, kích thích được các lực lượng tham gia vào các loại hình hoạt động với cả trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm lương tâm. Chủ trương, biện pháp quản lý phù hợp với thực tiễn sẽ giúp khai thác được các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực cho các hoạt động, sẽ tạo ra được những cơ hội cho sự phát triển của nhà trường. Trong nhà trường THCS, Hiệu trưởng là người lãnh đạo cao nhất, mọi chủ trương, biện pháp của hiệu trưởng có tác dụng định hướng cho hoạt động của đội ngũ cán bộ, giáo viên nhân viên và toàn bộ hệ thống quản lý giáo dục trong nhà trường. Điều đó đòi hỏi hiệu trưởng phải cân nhắc thật chín chắn, trước khi đưa ra các chủ trương hoặc các biện pháp quản lý giáo dục.
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS chịu sự chi phối của kế hoạch tổ chức giáo dục của nhà trường. Kế hoạch tổ chức giáo dục của nhà trường khi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì trở thành căn cứ pháp lý cho mọi hoạt động quản lý giáo dục của nhà trường. Kế hoạch là cơ sở để tạo nên sự thống nhất giữa các loại hình hoạt động trong nhà trường cùng hướng đến GDĐĐ cho học sinh. Mọi giáo viên, mọi CBQL phải thực hiện theo kế hoạch pháp lý đã được phê duyệt. Nếu kế hoạch được xây dựng một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn thì sẽ tạo cơ sở thuận lợi cho các cá nhân và tổ chức trong nhà trường tổ chức tiến hành các hoạt động của mình đạt được kết quả tốt nhất.
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS chịu sự chi phối bởi vai trò của các lực lượng giáo dục trong nhà trường. QLGDĐĐ cho học sinh, về thực chất là điều khiển các lực lượng giáo dục trong nhà trường, đảm bảo cho hoạt động của các lực lượng này luôn đạt được chất lượng cao nhất. Các lực lượng giáo dục trong nhà trường là người trực tiếp tiến hành các loại hình hoạt động giáo dục cho học sinh. Suy đến cùng, hiệu quả GDĐĐ cho học sinh THCS phụ thuộc vào vai trò của các lực lượng giáo dục trong nhà trường đang hàng ngày, hàng giờ trực tiếp dạy giỗ, chăm sóc học sinh. Mặt khác, các lực lượng giáo dục trong nhà trường lại là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chủ thể quản lý giáo dục. Các lực lượng giáo dục trong nhà trường là cầu nối giữa chủ thể quản lý với học sinh. Chỉ khi nào các lực lượng giáo dục trong nhà trường phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm của mình thì hoạt động quản lý của chủ thể quản lý giáo dục mới được coi là đã thành công.
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS chịu sự chi phối bởi môi trường văn hoá giáo dục của nhà trường. Môi trường văn hóa giáo dục của nhà trường là những giá trị của nhà trường được hình thành trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ giáo dục. Bao gồm trong đó những giá trị truyền thống và những giá trị hiện tại của nhà trường, cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường văn hóa giáo dục của nhà trường được biểu hiện ra bằng các mối quan hệ sư phạm bên trong và bên ngoài của nhà trường, trong đó đặc biệt là mối quan hệ giữa các giáo viên với nhau, quan hệ giữa giáo viên với học sinh, quan hệ giữa người quản lý và người được quản lý. Môi trường văn hóa giáo dục của nhà trường được biểu hiện bằng hệ thống thái độ của đội ngũ cán bộ quản lý, của thầy, cô giáo và của học sinh. Đó là thái độ đối với người khác, đối với bản thân, đối với công việc được giao. Môi trường văn hóa giáo dục trong nhà trường còn được biểu hiện bằng hành vi, hành động, tác phong, lối sống của mọi thành viên trong nhà trường. Tất cả những biểu hiện của môi trường văn hóa đều có tác động đến quá trình quản lý giáo dục. Môi trường văn hóa sư phạm lành mạnh là điều kiện đảm bảo cho các hoạt động quản lý diễn ra thuận lợi, ngược lại, môi trường văn hóa sư phạm thiếu lành mạnh sẽ cản trở các hoạt động của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục trong nhà trường.
Ngoài ra, quản lý giáo dục đức cho học sinh THCS còn chịu sự tác động, chi phối của nhiều nhân tố chủ quan khác như: trình độ, ý thức tự giáo dục của bản thân học sinh; hoạt động của Đoàn – Đội; điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường.
1.3.2. Những yếu tố khách quan
Yếu tố khách quan tác động đến QLGDĐĐ cho học sinh THCS là những yếu tố tác động từ bên ngoài nhà trường. Những yếu tố tác động từ bên ngoài rất đa dạng, phong phú, có yếu tố gần, yếu tố xa, có yếu tố trực tiếp, có yếu tố gián tiếp, có yếu tố thực có tố ảo, có yếu tố vĩ mô, có yếu tố vi mô. Các yếu tố tác động đến QLGDĐĐ cho học sinh THCS không ngang bằng nhau, tùy từng giai đoạn mà nổi lên sự tác động ảnh hưởng của yếu tố nào nhiều hơn. Trong các yếu tố đa dạng đó có những yếu tố cơ bản sau:
Tác động của giáo dục gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi của đạo đức học sinh. Ngoài thời gian học tập trong nhà trường, thời gian còn lại của học sinh THCS chủ yếu sinh hoạt với gia đình, chịu sự quản lý của gia đình. Đạo đức của học sinh THCS được hình thành và phát triển như thế nào, một phần rất lớn phụ thuộc vào quản lý, giáo dục của gia đình. Trong thực tế, các gia đình thường có gia phong khác nhau, văn hóa khác nhau, tiếp cận với yếu tố thời đại, quan niệm về giáo dục con cái cũng không đồng nhất. Ngày nay, do sự phát triển của xã hội, do tính chất công việc đã tác động đến đặc điểm gia đình Việt Nam, tác động đến các hoạt động GDĐĐ cho học sinh. Điều đó có tác động không nhỏ đến quá trình quản lý giáo dục của nhà trường. Nếu gia đình phối hợp được với nhà trường, tham gia các hoạt động giáo dục cùng với nhà trường thì các hoạt động quản lý giáo dục của nhà trường sẽ thuận lợi hơn, kết quả cao hơn. Như vậy theo một nghĩa nào đó, QLGDĐĐ cho học sinh bao gồm cả QLGDĐĐ của gia đình. QLGDĐĐ cho học sinh bị tác động bởi truyền thống gia đình, văn hoá gia đình, trách nhiệm của gia đình trong giáo dục.
Tác động của giáo dục xã hội. Xã hội vừa là môi trường giáo dục vừa là chủ thể GDĐĐ cho học sinh. Giáo dục của nhà trường chịu sự quy định của giáo dục xã hội. Quản lý giáo dục của nhà trường bị quy định bởi các chế ước quản lý xã hội. Xét đến cùng, mục tiêu phát triển kinh tế, chính trị, xã hội cuối cùng cũng hướng vào phục vụ cho mục tiêu phát triển con người. Trong khi đó mục tiêu phát triển con người lại là mục tiêu chuyên trách của giáo dục. Mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội quy định mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục, mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục chi phối mục tiêu giáo dục của nhà trường. Tất cả những điều đó đã nói lên mối quan hệ khăng khít giữa quản lý các mục tiêu giáo dục của nhà trường với quản lý các mục tiêu phát triển xã hội. QLGDĐĐ cho học sinh THCS không thể vượt ra ngoài khuôn khổ, giới hạn của quản lý phát triển xã hội.
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS bị tác động bởi vai trò của các cấp chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương nơi nhà trường đứng chân, nơi cư trú của học sinh có vai trò tổ chức cải tạo, xây dựng môi trường giáo dục thuận lợi cho học sinh. Nhà trường đứng chân trên địa bàn của địa phương phải chịu sự quản lý hành chính của địa phương. Mọi chủ trương chính sách quản lý xã hội của địa phương có tác động trực tiếp đến QLGDĐĐ cho học sinh trong nhà trường.
Trong quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế, xu thế toàn cầu hóa vừa tạo ra những cơ hội mới, vừa đặt ra những thách thức không nhỏ cho các hoạt động QLGDĐĐ học sinh THCS.
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh là một khoa học. QLGDĐĐ cho học sinh thuộc phạm trù quản lý nhà trường, về cơ bản được thực hiện dựa trên cơ sở khoa học của quản lý nhà trường. Tuy nhiên, QLGDĐĐ cho học sinh là một phạm trù khoa học độc lập, có mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức quản lý riêng.
Đạo đức học sinh, GDĐĐ học sinh, QLGDĐĐ học sinh là những phạm trù khoa học được bổ sung, phát triển, hoàn thiện tiếp cận những thành tựu của khoa học giáo dục hiện đại. Trong đó, QLGDĐĐ cho học sinh THCS được xác định là khái niệm trung tâm của đề tài luận văn. Quá trình phân tích các khái niệm đó đã rút ra quan niệm về biện pháp QLGDĐĐ của hiệu trưởng. Theo đó, thực chất biện pháp quản lý của hiệu trưởng trong GDĐĐ cho học sinh THCS là cách thức tổ chức, chỉ đạo các lực lượng giáo dục trong nhà trường khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm lực giáo dục trong quá trình thực hiện các nội dung, nhiệm vụ GDĐĐ cho học sinh, đảm bảo cho các hoạt động giáo dục diễn ra đúng quy luật và thống nhất trong toàn trường.
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS là nhiệm vụ của cả hệ thống quản lý giáo dục trong nhà trường, trong đó hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm cao nhất. Hiệu trưởng có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quản lý được xác định rõ ràng. Nội dung QLGDĐĐ cho học sinh THCS bao gồm: Quản lý kế hoạch GDĐĐ cho học sinh; Quản lý khâu tổ chức thực hiện kế hoạch GDĐĐ; Quản lý kiểm tra, đánh giá quá trình GDĐĐ
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Trong đó, quan trọng nhất là các nhân tố về phẩm chất, năng lực của đội ngũ CBQL; chủ trương biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhà trường; kế hoạch quản lý nhà trường; môi trường văn hóa giáo dục; vai trò, trách nhiệm của các thầy, cô giáo và của học sinh; vai trò của nhà trường và xã hội.

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: lamluanvan24h@gmail.com