Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài: Quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Công tác quản lý văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Công tác này được Đảng và Nhà Nước ta đặc biệt quan tâm nhằm bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc. Cụ thể là đã có những văn bản pháp quy quy định đầy đủ, chi tiết về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý văn hóa. Như Quyết định số: 1966/QĐ-UBND, ngày 25/8/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk về việc Quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Đắk Lắk và quy định chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban chuyên môn huyện, thị xã, thành phố. Nghị định số: 103/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 11 năm 2009 của Chính phủ về việc Ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng (ngày có hiệu lực 01/01/2010)…Qua đó, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng của công tác này.
Huyện Krông Búk là một huyện thuộc tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam.
Theo tiếng Ê Đê, Krông Búk có nghĩa là suối tóc. Ngày 23 tháng 12 năm 2008 Chính phủ ra nghị định 07/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Krông Búk để thành lập thị xã Buôn Hồ và huyện Krông Búk trực thuộc tỉnh Đắk Lắk. Sau khi điều chỉnh, huyện Krông Búk có diện tích 35.867,71 ha, có 14 dân tộc anh em cùng sinh sống với số dân là 57.002 người. Krông Búk có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng. Để phát huy những giá trị văn hóa của vùng đất này, chính quyền các cấp đã có những chính sách phù hợp để bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc, riêng có của huyện.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được công tác quản lý nhà nước về một số lĩnh vực văn hóa, dịch vụ văn hóa ở huyện Krông Búk vẫn còn những hạn chế. Do đó, để công tác quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Krông Búk có hiệu quả cần phải có sự đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân để đề xuất các giải pháp khắc phục.
Xuất phát từ lý do nêu trên và nhận thức được tầm quan trọng trong việc quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện, học viên chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài Luận văn Cao học Quản lý công của mình với mong muốn làm rõ những ưu điểm để phát huy, đề xuất những giải pháp khoa học góp phần hoàn thiện việc xây dựng, nâng cao chất lượng hoạt động quản lý về văn hóa của huyện nhà đạt hiệu quả hơn.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Quản lý nhà nước về văn hoá ở nước ta trong giai đoạn hiện nay vẫn đang là vấn đề đang thu hút sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà khoa học. Có thể khái quát những kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài như sau:
Nhóm thứ nhất, những công trình nghiên cứu bước đầu xây dựng hệ thống lý luận về quản lý văn hoá: Một số công trình tiêu biểu, như: Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
- Nguyễn Duy Bắc, Về lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật trong công cuộc đổi mới.
- Hoàng Sơn Cường, Lược sử Quản lý văn hoá ở Việt Nam
- TS. Huỳnh Văn Tới, Quản lý nhà nước về Văn hóa.
- Hoàng Vinh, Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hoá ở nước ta.
Những công trình trên bước đầu làm rõ một số vấn đề quan trọng liên quan đến phương diện lý luận của công tác quản lý văn hoá, như: Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế, đại cương về quản lý hoạt động văn hoá, chính sách quản lý hoạt động văn hoá, nội dung quản lý hoạt động văn hoá, quản lý xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở hiện nay…
Nhóm thứ hai, một số luận văn, đề tài khoa học liên quan đến vấn đề quản lý văn hoá, quản lý các hoạt động văn hoá cơ sở:
- TS. Nguyễn Duy Bắc chủ nhiệm đề tài cấp Bộ: “An ninh văn hóa trong điều kiện hiện nay“, Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã nghiệm thu, 2016.
- Luận Văn Thạc sĩ Trần Sĩ Minh (Trường Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh): Quản lý Lễ hội truyền thống ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,
- Trần Chiến Thắng chủ nhiệm đề tài độc lập cấp Nhà nước: Hoạt động văn hoá và sản phẩm văn hoá trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nuớc ta hiện nay, Bộ Khoa học công nghệ, đã nghiệm thu, 2008. – Ths. Vũ Thị Phương Hậu (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) chủ nhiệm đề tài cấp cơ sở: Quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn, đã nghiệm thu, 2008.
- Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Mỹ Xuân (Trường Đại học Văn hóa TP. Hồ Chí Minh): Quản lý hoạt động của Trung tâm Văn hóa – Điện ảnh tỉnh Bình Dương trong giai đoạn hiện nay, 2015.
Những công trình nghiên cứu trên đây đã góp phần làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn của vấn đề trên các phương diện:
- Thứ nhất: Nghiên cứu về mối quan hệ giữa phát triển văn hoá và kinh tế thị trường trong điều kiện hiện nay của đất nước.
- Thứ hai: Góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý luận của quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hoá nói chung.
- Thứ ba: Về quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực cụ thể của văn hoá.
- Thứ tư: Bước đầu nghiên cứu, khảo sát thực trạng quản lý nhà nuớc về văn hoá ở một số địa phương. Các kết quả nghiên cứu trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xây dựng, hoàn thiện thể chế quản lý trên lĩnh vực văn hoá ở nước ta hiện nay, trong đó có vấn đề quản lý nhà nước về văn hoá trên một số địa bàn. Bên cạnh đó, còn một số lượng khá lớn những bài viết đã đăng trên các báo, tạp chí, liên quan đến vấn đề quản lý nhà nước về văn hoá từ nhiều phương diện khác nhau. Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo và kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận luận văn, tác giả nhận thấy các công trình nghiên cứu ở trên là những tài liệu rất bổ ích cho tác giả có thể tham khảo kế thừa trong quá trình nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, hiện tại chưa có đề tài, luận văn, luận án nào đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống, cụ thể quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk. Trong khi đó, để nâng cao hiệu lực hiệu quả công tác quản lý nhà nước về văn hóa thực sự phải có sự nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm từ những địa phương cụ thể.
Chính vì vậy, tác giả luận văn đã lựa chọn công tác quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk hiện nay làm đề tài nghiên cứu như một cố gắng góp phần tìm thêm những giải pháp thiết thực nhằm giải quyết những bất cập trong công tác quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là nghiên cứu quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk để củng cố và làm sâu sắc thêm cơ sở lý luận và để xuất những giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được muc đ̣ích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Hệ thống hóa, phân tích và làm rõ thêm lý luận quản lý nhà nước về văn hóa.
- Đánh giá và phân tích thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng Từ năm 2011 đến năm 2017. – Quản lý văn hóa là một trong những vấn đề rất nóng bỏng và có phạm vi rộng cả về không gian và thời gian. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ giới hạn trong địa bàn huyện Krông Búk và trong khoảng thời gian từ năm 2011 tới năm 2017 (chủ yếu năm 2017).
5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vai trò của văn hóa; đường lối quan điểm về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Tìm hiểu các nghiên cứu đã có về văn hóa và quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk và ở Việt Nam, đánh giá các quan điểm hợp lý và chưa hợp lý từ đó đưa ra các kiến giải theo cách tiếp cận của tác giả.
- Phương pháp thực chứng: Dựa trên những tư liệu thực tiễn của các ngành, các địa phương để phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk, những kết quả và hạn chế làm cơ sở để đối chứng, phân tích và đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích trong quá trình nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Luận văn hệ thống hóa, trình bày cơ sở lý luận quản lý nhà nước về văn hóa. Đồng thời trên cơ sở hệ thống hóa quy định hiện hành về quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn cấp huyện, tác giả trình bày khái niệm, nội dung quản lý văn hóa trên địa bàn huyện.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn khảo sát, phân tích chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân, đề xuất các giải pháp khắc phục, hy vọng góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hoá ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk nói riêng và quản lý nhà nước về văn hóa cấp huyện trên phạm vi cả nước nói chung. Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Đề tài có thể làm nguồn tư liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập của sinh viên, học sinh chuyên ngành quản lý hành chính công của Học viện Hành chính Quốc gia. Học viên hy vọng nhận được sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà lãnh đạo, quản lý, các cơ quan hành chính nhà nước, các giảng viên giảng dạy về văn hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, Luận văn được bố cục thành 3 chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về văn hóa.
- Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
- Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hoá trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VĂN HÓA
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ lợi ích nhu cầu của con người. Nhìn từ góc độ đó, con người làm ra rất nhiều sản phẩm văn hóa hấp dẫn như các công trình kiến trúc chùa chiền, lễ hội, đời sống tâm linh, ẩm thực… Trong đó, những sản phẩm ẩm thực là gần gũi với đời sống con người nhất.
Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người, nghĩa ban đầu của văn hóa trong tiếng Hán là những nét xăm mình, qua đó người khác nhìn vào để nhận biết và phân biệt mình với người khác.
Theo ngôn ngữ phương Tây, từ tương ứng với văn hóa của tiếng Việt là culture trong tiếng Anh và tiếng Pháp, kultur trong tiếng Đức… có nguồn gốc từ các dạng động từ của tiếng La tinh có nghĩa là giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt, cầu cúng.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Cho tới nay trên thế giới có hơn 400 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, rất phong phú và phức tạp, do đó khái niệm văn hóa cũng đa nghĩa.
Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới. Văn hóa được đề cập đến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như dân tộc học, nhân loại học (theo cách gọi của Mỹ hoặc dân tộc học hiện đại theo cách gọi của châu Âu), dân gian học, địa văn hóa học, văn hóa học, xã hội học,…và trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Các định nghĩa về văn hóa nhiều và cách tiếp cận khác nhau đến nỗi ngay cả cách phân loại các định nghĩa về văn hóa cũng có nhiều. Một trong những cách đó phân loại các định nghĩa về văn hóa thành những dạng chủ yếu sau đây:
- Về mặt thuật ngữ khoa học: Văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh “Cultus” mà nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa Cultus Agri là “gieo trồng ruộng đất” và Cultus Animi là “gieo trồng tinh thần” tức là “sự giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con người”. Theo nhà triết học Anh Thomas Hobbes (1588-1679): “Lao động dành cho đất gọi là sự gieo trồng và sự dạy dỗ trẻ em gọi là gieo trồng tinh thần”. Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
- Định nghĩa miêu tả: định nghĩa văn hóa theo những gì mà văn hóa bao hàm, chẳng hạn nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor (1832 – 1917) đã định nghĩa văn hóa như sau: văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội.
- Định nghĩa lịch sử: nhấn mạnh các quá trình kế thừa xã hội, truyền thống dựa trên quan điểm về tính ổn định của văn hóa. Một trong những định nghĩa đó là của Edward Sapir (1884 – 1939), nhà nhân loại học, ngôn ngữ học người Mỹ: “văn hóa chính là bản thân con người, cho dù là những người hoang dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống phức hợp của tập quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền thống”.
- Định nghĩa chuẩn mực: nhấn mạnh đến các quan niệm về giá trị, chẳng hạn William Isaac Thomas (1863 – 1947), nhà xã hội học người Mỹ coi “văn hóa là các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập tục, phản ứng cư xử,…)”.
- Định nghĩa tâm lý học: nhấn mạnh vào quá trình thích nghi với môi trường, quá trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng xử của con người. Một trong những cách định nghĩa như vậy của William Graham Sumner (1840 – 1910), viện sĩ Mỹ, giáo sư Đại học Yale và Albert Galloway Keller, học trò và cộng sự của ông là: “Tổng thể những thích nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn minh…Những sự thích nghi này được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa”.
- Định nghĩa cấu trúc: chú trọng khía cạnh tổ chức cấu trúc của văn hóa, ví dụ Ralph Linton (1893 – 1953), nhà nhân loại học người Mỹ định nghĩa: “Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành viên xã hội; Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà các thành tố của nó được các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa”. Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
- Định nghĩa nguồn gốc: định nghĩa văn hóa từ góc độ nguồn gốc của nó, ví dụ định nghĩa của Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 – 1968), nhà xã hội học người Mỹ gốc Nga, người sáng lập khoa Xã hội học của Đại học Harvard: “Với nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của nhau”.
Năm 2002, UNESCO đưa ra một định nghĩa chung về văn hóa như sau: “VH là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin” [64].
Khái niệm về văn hóa: Từ văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng, thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống…
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan niệm về văn hóa:
- Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. -văn hóa là một hệ thống hữu có các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.
- Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát);
- Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát);
- Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh;
- Văn hóa còn là cum từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm giống nhau, (ví dụ: Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn).
- Trong cuốn Xã hội học Văn hóa của Đoàn Văn Chúc, Viện Văn hóa và Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: văn hóa – vô sở bất tại: “VH – không nơi nào không có. Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi nào có con người nơi đó có văn hóa” [64].
Theo nhà văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình…” [53, tr.24].
Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII nêu: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Văn hoá Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc” [3, tr.40].
Vận dụng những quan điểm của Nghị quyết Đại hội XI và Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI vào điều kiện thực tiễn, Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh tư tưởng chỉ đạo: Các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu: Xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; Làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”…Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, trong đó chú trọng: Xây dựng môi trường văn hoá, đời sống văn hoá lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình; Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh; Xây dựng nếp sống văn hoá tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội; Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hoá tôn giáo, tín ngưỡng [36, tr.126].
Như vậy, nói một cách tổng quát, văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo, phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người, của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra và được con người thừa nhận, bao gồm trong đó có cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ. Xây dựng và phát triển tốt những thành tố cấu thành khái niệm văn hóa chính là để tạo ra nền tảng tinh thần cho xã hội, góp phần khai thác và phát huy sức mạnh nội sinh của đất nước trong thời kỳ đổi mới hội nhập và phát triển.
1.1.2. Khái niệm quản lý Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Từ khi xã hội loài người được hình thành, hoạt động tổ chức, quản lý đã được quan tâm. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công lao động nhằm đạt được hiệu quả cao hơn. Đó là hoạt động giúp cho người đứng đầu tổ chức phối hợp sự nổ lực của các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, quản lý khi là động từ mang ý nghĩa:
- “Quản” là trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định;
- “Lý” là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo yêu cầu nhất định.
Hiểu theo ngôn ngữ Hán Việt, công tác “quản lý” là thực hiện hai quá trình liên hệ chặt chẽ với nhau: “quản” và “lý”. Quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ thống ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm việc sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ thống vào thế “phát triển”. Nếu người quản lý chỉ lo việc “quản” tức là chỉ lo việc coi sóc, giữ gìn thì tổ chức dễ trì trệ; tuy nhiên nếu chỉ quan tâm đến việc “lý”, tức là chỉ lo việc sắp xếp, tổ chức, đổi mới mà không đặt trên nền tảng của sự ổn định, thì hệ thống sẽ phát triển không bền vững. Nói chung, trong “quản” phải có “lý” và trong “lý” phải có “quản”, làm cho hoạt động của hệ thống luôn ở trạng thái cân bằng. Sự quản lý đưa đến kết quả đích thực bền vững đòi hỏi phải có mưu lược, nghệ thuật làm cho hai quá trình “quản” và “lý” tích hợp vào nhau, hỗ trợ cho nhau cùng tồn tại để phát triển theo đúng quy luật khách quan vốn có của một xã hội cụ thể.
Trong nghiên cứu khoa học, có rất nhiều quan niệm về quản lý theo những cách tiếp cận khác nhau. Chính vì sự đa dạng về cách tiếp cận, dẫn đến sự phong phú về quan niệm. Có nhiều cách nhìn khác nhau về khái niệm quản lý:
- Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Công tác quản lý lãnh đạo một tổ chức xét cho cùng là thực hiện hai quá trình liên hệ chặt chẽ với nhau: Quản và Lý. Quá trình “Quản” gồm sự chăm sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái ổn định, quá trình “Lý” gồm việc sửa sang sắp xếp, đổi mới đưa vào thế “phát triển”.
- Warren Bennis, một chuyên gia nổi tiếng về nghệ thuật lãnh đạo đã từng nói rằng: “Quản lý là một cuộc thử nghiệm gắt gao trong cuộc đời mỗi cá nhân, và điều đó sẽ mài giũa họ trở thành các nhà lãnh đạo”. Tiếng Việt cũng có từ “quản lý” và “lãnh đạo” riêng rẽ giống như “manager” và “leader” trong tiếng Anh [64].
- Tư tưởng và quan điểm “quản lý” đã có từ cách đây hơn 2500 năm nhưng cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, vấn đề quản lý theo khoa học mới xuất hiện. Người khởi xướng là Fredrich Winslow Taylor với cuốn sách “Các nguyên tắc quản lý theo khoa học”. Theo ông thì “người quản lý phải là nhà tư tưởng, nhà lên kế hoạch chỉ đạo tổ chức công việc” [65].
Khi bàn đến hoạt động quản lý và người quản lý cần khởi đầu từ khái niệm “tổ chức”. Do tính đa nghĩa của thuật ngữ này nên ở đây chúng ta chỉ nói đến tổ chức như một nhóm có cấu trúc nhất định những con người cùng hoạt động vì một mục đích chung nào đó mà để đạt được mục đích gì đó một con người riêng lẻ không thể đạt đến. Bất luận một tổ chức có mục đích gì, cơ cấu và quy mô ra sao đều cần phải có sự quản lý và có người quản lý để tổ chức hoạt động và đạt được mục đích của mình.
Từ các định nghĩa được nhìn nhận từ nhiều góc độ, chúng ta thấy rằng tất cả các tác giả đều thống nhất về cốt lõi của khái niệm quản lý, đó là trả lời câu hỏi; Ai quản lý? (Chủ thể quản lý); Quản lý ai? Quản lý cái gì? (Khách thể quản lý); Quản lý như thế nào? (Phương thức quản lý); Quản lý bằng cái gì? (Công cụ quản lý); quản lý để làm gì? (Mục tiêu quản lý). Từ đó chúng ta có thể chỉ ra nội hàm và ngoại hàm của khái niệm này: Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Quản lý là hiện tượng tồn tại trong mọi chế độ xã hội. Bất kỳ ở đâu, lúc nào con người có nhu cầu kết hợp với nhau để đạt mục đích chung đều xuất hiện quản lý. Quản lý trong xã hội nói chung là quá trình tổ chức điều hành các hoạt động nhằm đạt được những mục tiêu và yêu cầu nhất định dựa trên những quy luật khách quan. Xã hội càng phát triển, nhu cầu và chất lượng quản lý càng cao.
Quản lý là hoạt động tất yếu khách quan của mọi quá trình lao động xã hội. Nói quản lý là nói đến một dạng hoạt động có mục đích của chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định đã định trước thông qua nguyên tắc, hình thức, phương pháp nào đó thích hợp. Quản lý bao giờ cũng có tính mục đích, tính tổ chức và hướng tới tính hiệu quả. Như vậy, nó là một quá trình bao gồm chuỗi hoạt động khác nhau để đạt được kết quả mà chủ thể ngầm định đề ra để tồn tại và phát triển, quản lý cần thiết đối với mọi phạm vi hoạt động của xã hội.
Sau khi chỉ ra nội hàm và khu biệt ngoại diên của khái niệm, ta có thể hiểu khái niệm về quản lý là: Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý để chỉ huy, điều khiển, liên kết các yếu tố tham gia vào hoạt động thành một chỉnh thể thống nhất, điều hoà hoạt động của các khâu một cách hợp quy luật nhằm đạt đến mục tiêu xác định trong điều kiện biến động của môi trường.
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước
Theo Giáo trình quản lý hành chính nhà nước: “Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”[52, tr.407].
Quản lý nhà nước là hoạt động của nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp., hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước.
Quản lý nhà nước là quá trình tổ chức, quá trình điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với xã hội và hành vi hoạt động của con người theo pháp luật. Để đạt được những mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ quản lý nhà nước đã đề ra.
Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực nhà nước chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội đối ngoại của nhà nước chủ quan của quản lý nhà nước là tổ chức hay mang quyền lực nhà nước trong quá trình hoạt động tới đối tượng quản lý. Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Quản lý và quản lý nhà nước là một hoạt động xã hội đặc trưng. Nói đến quản lý là nói đến một dạng hoạt động có mục đích của chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu nhất định thông qua các nguyên tắc, các hình thức, các phương pháp quản lý phù hợp. Quản lý bao giờ cũng mang tính mục đích, tính tổ chức và tính hiệu quả. Quản lý là một quá trình bao gồm nhiều hoạt động khác nhau để đạt hiệu quả đề ra. Quản lý ở tầm vĩ mô là quản lý nhà nước.
Quản lý nhà nước luôn mang tính quyền lực, tính tổ chức chặt chẽ; đặc điểm pháp lý của quan hệ quản lý là sự không bình đẳng giữa các bên trong quan hệ quản lý, chính vì vậy trong quản lý nhà nước mọi mệnh lệnh, quyết định quản lý luôn mang tính đơn phương một chiều, bắt buộc thực hiện và khi cần các chủ thể quản lý có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành. Mọi mệnh lệnh, quyết định quản lý phải được chấp hành nghiêm túc, triệt để, xác định rõ trách nhiệm pháp lý và xử lý nghiêm minh mọi sự chây ỳ, dây dưa, chấp hành không nghiêm túc.
Quản lý nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc công khai, dân chủ trong hoạt động thể hiện tinh thần tôn trọng nhân dân, biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến nhân dân. Quản lý theo đúng luật sẽ góp phần tích cực vào việc lập lại trật tự kỷ cương trong tình hình văn hóa – xã hội hiện đang có nhiều lộn xộn. Đặc biệt, trong quá trình tăng cường hội nhập quốc tế, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu, ứng dụng rộng rãi những thành tựu của công nghệ thông tin, làm phong phú những ảnh hưởng qua lại giữa các nền văn hóa.
Bằng những lát cắt khác nhau về quản lý nhà nước, ta có thể hiểu: quản lý nhà nước là tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế bằng một hệ thống các luật lệ, chính sách, nguyên tắc, phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. Đối tượng của quản lý có thể trên quy mô toàn cầu, khu vực, quốc gia, ngành, đơn vị, có thể là một con người, sự vật cụ thể. Quản lý thể hiện việc tổ chức, điều hành tập hợp con người, công cụ, phương tiện tài chính… để kết hợp các yếu tố đó với nhau nhằm tạo mục tiêu định trước.
Trình độ quản lý của một xã hội, đánh dấu sự phát triển của xã hội đó trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Trình độ quản lý xã hội thể hiện ở sự hoàn thiện của hệ thống tổ chức bộ máy, hệ thống thể chế và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý. Quản lý nhà nước về văn hóa là một dạng quản lý xã hội đặc thù mang tính tất yếu khách quan và có vị trí cực kỳ quan trọng, ở một quan hệ nào đó có thể coi quản lý nhà nước về văn hóa đóng vai trò quyết định cho sự phát triển xã hội trong những điều kiện cụ thể.
1.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước về văn hóa Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Quản lý nhà nước về văn hóa là một bộ phận nói chung của quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. tuy nhiên, do những đặc thù của văn hóa, quản lý nhà nước cũng có nhiều điểm riêng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xã hội hóa Văn hóa thì vai trò của Nhà nước lại càng không thể thiếu được, nhằm phát huy những yếu tố tích cực và hạn chế những mặt trái của thị trường, định hướng nền văn hóa được bảo vệ, giữ gìn, phát triển phù hợp mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội
Hiện nay ở Việt Nam, khái niệm quản lý nhà nước về văn hóa vẫn cần được tiếp tục xác định rõ hơn về nội hàm. Trong những định hướng của Đảng về phát triển văn hóa, khái niệm này được dùng: quản lý nhà nước đối với hoạt động văn hóa văn nghệ, quản lý theo hướng xã hội hóa các hoạt động văn hóa thông tin, đổi mới và tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa – thông tin.
Có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng thực chất của quản lý nhà nước về văn hóa chính là sự định hướng, tạo điều kiện bằng các nguồn lực và môi trường, tổ chức điều hành của nhà nước, mục đích là làm cho văn hóa phát triển theo đúng quy luật khách quan, phù hợp với xu thế phát triển tất yếu đối với từng hình thái kinh tế – xã hội cụ thể. Chúng tôi đồng tình với khái niệm quản lý văn hóa sau đây:
Quản lý nhà nước về văn hóa là sự quản lý của nhà nước đối với toàn bộ hoạt động văn hóa của quốc gia bằng quyền lực của nhà nước thông qua hiến pháp, pháp luật và cơ chế chính sách nhằm bảo đảm sự phát triển của nền văn hóa dân tộc.
Theo nghĩa rộng, ở nước ta, quản lý nhà nước về văn hóa được thực hiện thông qua ba cơ quan trong bộ máy nhà nước: cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Theo nghĩa hẹp: quản lý nhà nước về văn hóa được thể hiện trong hoạt động quản lý có tính chất nhà nước nhằm điều hành các hoạt động văn hóa, được thực hiện bởi hệ thống bộ máy các cơ quan hành pháp (Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở, Phòng…). Quản lý nhà nước về văn hóa thực chất là quản lý hành chính đối với văn hóa.
Quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hoá là quản lý một dạng hoạt động đặc biệt và mang tính đặc thù. Trước hết, hoạt động văn hoá là một hoạt động sáng tạo, có thể làm ra các sản phẩm văn hoá mang giá trị lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cho cuộc sống, con người. Về phương diện này, hoạt động đó đòi hỏi có một “khoảng trời tự do nhất định”, giúp cho sức tưởng tượng của người nghệ sỹ được bay bổng và sự tư duy của họ thêm sâu sắc, lắng đọng tâm hồn dân tộc. Thứ hai, hoạt động văn hoá là hoạt động tư tưởng, có khả năng gây “hiệu ứng” (tốt hoặc xấu) trong xã hội. Thứ ba, hoạt động văn hoá là hoạt động kinh tế, một nguồn lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế. Chính vì tính đa năng của hoạt động văn hoá, nên quản lý trên lĩnh vực văn hoá mang tính đặc thù. Tính đặc thù trong lãnh đạo, quản lý không những thể hiện trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống văn hoá, mà nó còn thể hiện ở công tác quản lý nhà nước về văn hoá ở các cấp, từ vĩ mô đến các đơn vị cơ sở.
Quản lý nhà nước về văn hoá ở nước ta, xét về phương diện thao tác thực hành, thường phân biệt làm hai dạng quản lý khác nhau: đó là quản lý nhà nước và quản lý sự nghiệp đối với các hoạt động văn hoá. Đây cũng là cách hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp về quản lý văn hóa. Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Quản lý nhà nước thuộc chức trách của các đơn vị Nhà nước (Chính phủ, Ủy ban Nhân dân, Bộ, Sở, Phòng) thông qua hệ thống về pháp luật, thể chế, chính sách, kế hoạch Nhà nước… Quản lý sự nghiệp văn hoá là quản lý về phương diện chuyên môn theo từng lĩnh vực hoạt động văn hoá. Phương diện này thuộc chức trách của từng hệ thống thiết chế văn hoá chuyên ngành, mà đứng đầu là hệ thống các thiết chế văn hoá Nhà nước theo hệ thống hành chính quốc gia. Qua việc xây dựng các thiết chế văn hoá chuyên ngành, Nhà nước có nhiệm vụ quản lý toàn bộ sự nghiệp hoạt động của các thiết chế văn hoá thuộc cấp hệ thống của mình và trên từng lãnh thổ.
Quản lý nhà nước về văn hoá gắn với quyền lực nhà nước. Bất kỳ mọi hoạt động văn hoá nào cũng cần có sự quản lý nhà nước, vì vậy, cần phải xác định rõ đối tượng thuộc phạm vi văn hoá mà nhà nước cần phải quản lý. Nhà nước có thể quản lý được và cần quản lý là đời sống văn hoá, hoạt động văn hoá. Nhà nước đảm nhận một phần quan trọng trực tiếp quản lý những công trình văn hoá (công trình lịch sử văn hoá cũng như công trình nghệ thuật) và những cơ sở trực tiếp phục vụ nhu cầu văn hoá của nhân dân. Nhà nước là cơ quan đại diện cho nhân dân để đảm bảo các quyền được ghi trong hiến pháp của công dân về văn hoá, điều tiết sự hài hoà của cơ cấu văn hoá, lợi ích văn hoá của các nhóm xã hội, các yêu cầu phát triển và thoả mãn nhu cầu văn hoá của toàn xã hội trước các mâu thuẫn, nghịch lý nảy sinh từ sự vận động, phát triển xã hội.
Cần xác định rõ rằng quản lý Nhà nước về văn hóa, xây dựng và phát triển về văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thông nhất và đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vì vậy, phải tạo điều kiện đảm bảo cho nhân dân tham gia vào sự nghiệp đó. Văn hóa dân tộc gắn liền với nhân dân, mọi người dân đều có quyền hưởng thụ văn hóa và có nghĩa vụ đóng góp bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Trong quản lý văn hóa, ngoài vai trò của Nhà nước, cần thực hiện hình thức tự quản của nhân dân, đảm bảo tính phong phú, đa dạng của văn hóa và đáp ứng được nhu cầu văn hóa của nhân dân.
1.2. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
1.2.1. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước:
Vị trí, vai trò của văn hóa ngày càng được nâng cao, được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, nhất là trong việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến Chân, Thiện, Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học; thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Văn hóa là biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, sức mạnh tiềm tàng và vị thế, tầm vóc dân tộc. Thực tế đã chứng minh, một quốc gia muốn phát triển bền vững, cùng với việc dựa vào các “yếu tố cứng” như tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, cơ sở vật chất,… thì cần phải biết tận dụng, khai thác “yếu tố mềm”, đó chính là nguồn lực con người với nhân cách văn hóa, trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ, khả năng lao động sáng tạo. Nói cách khác, văn hóa là một “nguồn lực mềm” làm động lực và đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển và làm “hài hòa hóa” các mối quan hệ xã hội và “lành mạnh hóa” môi trường xã hội.
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện, xa rời trạng thái nguyên sơ ban đầu khi từ con vật phát triển thành con người. Con người tồn tại, không chỉ cần những sản phẩm vật chất mà còn có nhu cầu hưởng thụ sản phẩm văn hóa tinh thần, con người và xã hội loài người càng phát triển thì nhu cầu văn hóa tinh thần đòi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần đó chính là đảm bảo sự phát triển ngày càng nhiều của cải vật chất cho con người và xã hội.
Trên ý nghĩa đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là mục tiêu của sự phát triển. Mục tiêu này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân loại và là mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là một nội dung quan trọng của Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Nghị quyết 05 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1987) về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới, đã xác định: “Văn hóa là bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa là một động lực mạnh mẽ, đồng thời là mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” [2, tr.479].
Văn hóa trở thành động lực của phát triển kinh tế là kết quả tất nhiên khi kinh tế phát triển tới một trình độ nhất định. Cùng với sự phát triển kinh tế và mức thu nhập bình quân đầu người tăng cao, sức lao động và giá trị sản xuất đã chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp, rồi từ công nghiệp sang dịch vụ. Động lực chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế giờ đây không chỉ còn là sức lao động và tư bản nữa, mà bao gồm cả tri thức, khoa học, kỹ thuật, công nghệ… Những tri thức đó mang sức mạnh của nguồn lực trí tuệ, do đó không tách rời mà gắn liền với con người, với năng lực và trình độ của chủ thể người – chủ thể sáng tạo văn hóa. Con người là nhân tố quyết định sự hưng, suy của một dân tộc, con người tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, quyết định sự phát triển của kinh tế – xã hội. Nói đến con người cũng là nói đến văn hoá bởi con người là sản phẩm của văn hoá. Toàn bộ những giá trị văn hoá làm nên những phẩm chất tinh thần của con người. Phẩm chất tinh thần của con người sẽ được vật chất hoá trong quá trình lao động sản xuất của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Nguyên nhân trực tiếp khiến văn hóa trở thành động lực của phát triển kinh tế là sự thay đổi của kết cấu kinh tế.
Sự phát triển của quốc gia, dân tộc không chỉ dựa vào nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, vốn… mà còn có khả năng phát huy tối đa nguồn lực con người, là làm cho văn hóa thấm sâu vào trong các lĩnh vực và hoạt động xã hội, thấm sâu vào mọi lĩnh vực sinh hoạt của con người biến thành “nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cùng với sự đổi mới trong tư duy kinh tế và chính trị, Đảng ta đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993), nêu rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1998) tiếp tục khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, nêu rõ: “Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ ta” [32, tr.40]. Văn kiên Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, xác định: “Đề cao nhiệm vụ xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế: Chú trọng chăm lo xây dựng văn hoá trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hoá trong kinh tế; xây dựng văn hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân” [37, tr.134].
Nhận thức sâu sắc giá trị của văn hóa trong quá trình phát triển, Đảng ta xác định tiến hành đồng bộ và gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt cùng với việc xây dựng văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội nhằm tạo nên sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Trong đó, nội dung xây dựng văn hóa được xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, một định hướng quan trọng để đất nước phát triển bền vững. Thực tiễn của công cuộc đổi mới hơn 30 năm qua do Đảng khởi xướng, diện mạo của đất nước, vị thế của dân tộc ta trên thế giới được khẳng định và nâng cao. Đó là một minh chứng cho đường lối của Đảng về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế – xã hội nước ta thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về văn hóa: Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Quản lý Nhà nước về văn hóa là một nhiệm vụ hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần, vừa phản ánh đời sống hiện thực con người và xã hội, vừa thúc đẩy sự phát triển, sự hoàn thiện nhân cách, làm phong phú và sâu sắc thêm các giá trị nhân bản, nhân đạo và nhân văn của đời sống xã hội. Sự phát triển của văn hóa gắn với các điều kiện lịch sử, xã hội, mang lại những điều kiện cho hoạt động văn hóa và văn hóa cũng đem lại diện mạo mới cho xã hội, do vậy công tác tuyên truyền và nhận thức về hoạt động quản lý văn hóa cần được nâng cao. Sự cần thiết phải quản lý Nhà nước về văn hóa với các lý do cụ thể:
Thứ nhất, Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội; là năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người; trụ cột phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc và nhân loại. Vai trò đối với kinh tế – Xã hội, đối với tinh thần, đối với đất nước, đối với dân tộc và đối với hội nhập… Một lần nữa khẳng định vai trò to lớn của văn hóa, Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Vì vậy, giá trị của văn hóa vô cùng to lớn và quan trọng đối với con người, càng đặc biệt hơn khi đối với dân tộc Việt Nam từ thuở sơ khai, mọi sự tồn tại, thăng trầm và phát triển đều gắn liền với văn hóa.
Thứ hai, giao lưu và hội nhập văn hóa giữ vai trò hết sức quan trọng đối với văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Nhưng hội nhập quốc tế trong tất cả các lĩnh vực kể cả văn hóa nói chung, văn hóa chính trị nói riêng có hai mặt, mặt tích cực và mặt tiêu cực. Mặt tích cực là sẽ giúp cho văn hóa mỗi dân tộc (theo nghĩa quốc gia – dân tộc) luôn phát triển, tiếp nhận được những giá trị tiến bộ của văn hóa các dân tộc khác, làm giàu thêm cho văn hóa của dân tộc mình, quảng bá được văn hóa của mình cho các dân tộc khác. Tuy nhiên, mặt tiêu cực là nguy cơ san bằng và đồng nhất các hệ giá trị, các chuẩn mực văn hóa dân tộc, đe dọa và làm suy kiệt sự phong phú, khả năng sáng tạo của các nền văn hóa dân tộc, dẫn đến nguy cơ tha hóa, vong bản, thậm chí thủ tiêu các giá trị văn hóa dân tộc. Từ những vấn đề nêu trên cho chúng ta thấy sự cần thiết phải quản lý nhà nước về văn hóa.
1.3. Nội dung của quản lý nhà nước về văn hóa
1.3.1. Các văn bản luật điều chỉnh về văn hóa
- Quản lý bằng Hiến Pháp và pháp luật
Luật pháp phải thực sự là công cụ quản lý Nhà nước về văn hóa – thông tin. Đó là việc xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp luật đối với các loại hình hoạt động văn hóa – thông tin.
Hoạt động quản lý bao gồm cả xây dựng, ban hành văn bản quản lý và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đó
- Hiến pháp Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Đối với lĩnh vực văn hóa – thông tin, Chương III, Hiến pháp năm 1992 có một số điều khoản luật Nhà nước đối với sự phát triển và vận hành các hoạt động văn hóa
Điều 30 Hiến pháp quy định: Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: Dân tộc, hiện đại, nhân văn; Kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân, Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa.
- Luật, Pháp lệnh
Ngoài những vấn đề đề chung đã ghi trong Hiến pháp, Nhà nước còn Ban hành hệ thống các đạo luật, pháp lệnh riêng với từng lĩnh vực hoạt động văn hóa – thông tin như:
Đối với lĩnh vực văn hóa có các luật:
- + Luật về tổ chức bộ máy quản lý văn hóa đối với các Hội đồng, các Ủy ban, các Bộ;
- + Luật di sản văn hóa;
- + Luật bảo hộ quyền tác giả.
- + Luật điện ảnh
Đối với lĩnh vực thông tin có các luật, pháp lệnh:
- + Luật Báo chí
- + Luật xuất bản,
- + Pháp lệnh Quảng cáo, pháp lệnh Thư viện v.v..
Văn bản dưới luật:
Ngoài ra còn có hệ thống văn bản dưới luật như các Nghị định, Thông tư, Chỉ thị, Quyết định và nhiều văn bản pháp quy khác. Ví dụ: NĐ 75,87,88,103/NĐ-CP.
Văn hóa và thông tin là lĩnh vực rất đa dạng, phong phú nhưng cũng rất phức tạp, các văn bản pháp luật phải thường Quản lý nhà nước về văn hoá là hoạt động của bộ máy nhà nước trong lĩnh vực hành pháp nhằm giữ gìn, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam. Hay nói cách khác, quản lý nhà nước về văn hoá là quản lý các hoạt động văn hoá bằng chính sách và pháp luật.
1.3.2. Hoạt động quản lý nhà nước về văn hoá bao gồm những nội dung sau:
Hoạt động xây dựng, ban hành các chính sách và văn bản pháp luật về văn hoá. Chính sách văn hoá được hiểu là tổng thể những nguyên tắc thể hiện tư tưởng chủ đạo của Nhà nước về đường lối, phương hướng xây dựng và phát triển nền văn hoá. Chính sách văn hoá đặt ra các nguyên tắc chung của sự nghiệp phát triển văn hoá phù hợp với mục tiêu phát triển văn hoá chung của đất nước. Các chính sách về quản lý và phát triển văn hoá hiện nay có thể kể đến: sáng tạo các giá trị văn hoá; bảo tồn, phát huy tài sản văn hoá; phát triển văn hoá cơ sở; giao lưu văn hoá quốc tế; hiện đại hoá kỹ thuật và phương thức sản xuất, phân phối sản phẩm văn hoá; đào tạo, phát triển đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ; đảm bảo ngân sách, điều kiện pháp lý cho phát triển văn hoá; nâng cao tính tự quản và phân cấp quản lý văn hoá…Chính sách văn hoá có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về văn hoá song chính sách văn hoá không thể thay thế pháp luật. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về văn hoá nhằm phát huy tác dụng của văn hoá tới sự hình thành nhân cách, nâng cao chất lượng cuộc sống tinh thần của con người. Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Hoạt động tổ chức thực hiện của bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá: Cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về văn hoá là Chính phủ; Bộ văn hoá, thể thao và du lịch (cấp trung ương); Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hoá trong địa phương mình theo quy định của pháp luật. Hoạt động này bao gồm các công việc như đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; xây dựng và chỉ đạo quy hoạch, kế hoạch; ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp quy; hướng dẫn, tuyên truyền; thẩm định; cấp giấy phép, giấy chứng nhận… Đây là những hoạt động trên thực tế để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về văn hoá theo mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra. Ngoài ra, hoạt động đầu tư tài chính cho văn hoá cũng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Trong đầu tư tài chính cho văn hoá, xuất phát từ vấn đề quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực nên nhà nước chú trọng đầu tư ngân sách cho giáo dục. Đẩu tư cho hoạt động văn hoá với tư cách là đầu tư cho hoạt động sản xuất cần được tính toán đến hiệu quả, cần xem văn hoá cũng làm ra lợi nhuận cho nhà nước, cho nhân dân, đồng thời cũng cần tận dụng cơ chế thị trường cho sự phát triển văn hoá đúng hướng.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực văn hoá: Đây là một hoạt động có vai trò quan trọng của công tác quản lý nhà nước về văn hoá, sự tác động trực tiếp của cơ quan kiểm duyệt và thanh tra có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì văn hoá có mối quan hệ trực tiếp với chính trị, nó có tác động trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Trong xu hướng xã hội hoá văn hoá hiện nay, các tác động tiêu cực nảy sinh ngày càng nhiều, vì vậy, hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý cần phải được quan tâm thực hiện một cách nghiêm túc, có kế hoạch phối hợp tổ chức hoạt động một cách chặt chẽ với các bộ, ngành khác. Như vậy mới có khả năng thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ mà công tác quản lý nhà nước về văn hoá đã đề ra.
Quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường là một trong những lĩnh vực có rất nhiều vấn đề đặt ra. Việc xác định vấn đề nào là trọng tâm hiện nay có ý nghĩa quan trọng, làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả quản lý.
Vấn đề nhận thức: Trong thực tiễn hoạt động nhiều năm qua, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, một vấn đề lớn đặt ra là phát triển văn hóa chưa đồng bộ với phát triển kinh tế dẫn đến nhiều hệ lụy về phát triển xã hội, đồng thời làm cho phát triển kinh tế không bền vững. Nguyên nhân chính của vấn đề đó là do nhận thức chưa đầy đủ về văn hóa trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt, sự bất cập trong hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa.
Đổi mới kinh tế đi trước một bước: Sự sáng tạo trong hoàn cảnh cụ thể ở nước ta chỉ có thể đạt hiệu quả với điều kiện phải nhận thức đúng kinh tế đi trước một bước để tiếp tục đổi mới văn hóa xã hội đồng bộ cùng với phát triển kinh tế. Đi trước một bước không có nghĩa là đổi mới kinh tế xong mới đổi mới văn hóa, hy sinh văn hóa để phát triển kinh tế. Trên thực tế, nhiều nơi, nhiều lúc yếu tố văn hóa đã bị coi nhẹ vì phát triển kinh tế. Nhìn tổng thể, đổi mới văn hóa chưa theo kịp đổi mới kinh tế.
Vai trò quản lý nhà nước về văn hóa chưa được nhận thức đúng đắn: Trong xã hội có người cho rằng văn hóa là nhu cầu của con người, nó phát sinh phát triển theo nhu cầu tự nhiên, hãy để nó phát triển theo quy luật vốn có của nó. Những người có quan niệm như vậy không nhiều, nhưng quan niệm ấy lại là cái cớ để tồn tại những lệch lạc trong nhìn nhận quản lý nhà nước về văn hóa: quản lý hay không quản lý thì văn hóa cũng cứ phát triển theo đường đi của nó.
Đổi mới nhận thức về quản lý nhà nước bất cập so với phát triển văn hóa: Các hoạt động văn hóa ngày càng đa dạng, các dịch vụ văn hóa cũng phát triển khá mạnh, một mặt đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội, mặt khác cũng gây nhiều hệ lụy với những đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, gây tâm trạng bất an trong dư luận xã hội. Quản lý nhà nước không theo kịp sự phát triển, thêm vào đó còn tồn tại cách hiểu sai quản lý đến đâu, phát triển đến đó, dẫn đến nhận thức lệch lạc, quy quản lý nhà nước vào một việc cho và không cho (sinh ra tệ xin cho với bao hệ lụy đi kèm), dẫn đến cách quản lý hạn chế sự phát triển, không quản lý được thì cấm.
1.3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Với tầm vóc của một danh nhân văn hoá thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta một di sản tư tưởng vô cùng quý báu về mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Việc tìm hiểu những quan điểm về văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí Minh giúp chúng ta có cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng và quản lý nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong công cuộc đổi mới hôm nay.
Mang trong mình truyền thống văn hóa phương Đông lại được tiếp thu những tinh hoa của các nền văn minh trên thế giới. Ngay từ năm 1943, khi còn bị giam trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, nhân buổi đọc báo trong tù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về văn hóa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra. Nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [43, tr.431].
Quan điểm trên của Hồ Chủ tịch đã khái quát được nội dung rộng nhất của phạm trù văn hóa. Nó không chỉ bao hàm hoạt động tinh thần của con người mà còn cả những hoạt động vật chất mà trong đó chứa đựng, phản ánh tác động của tư duy đến kết quả của hoạt động. Đồng thời chỉ ra nguồn gốc động lực sâu xa của văn hoá đó là nhu cầu sinh tồn của con người với tư cách là chủ thể hoạt động của đời sống xã hội – một hoạt động khác hẳn với hoạt động sinh tồn bầy đàn của các loài động vật. Theo ý nghĩa này, chất văn hóa được hàm chứa trong mọi lĩnh vực hoạt động kể cả hoạt động tinh thần và hoạt động vật chất cùng với các giá trị vật chất và tinh thần mà con người tạo ra trong hoạt động của mình.
Đây chính là nội dung quan điểm về văn hoá của chủ nghĩa Mác – Lênin mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lĩnh hội được trong quá trình hoạt động cách mạng phong phú của mình. Học thuyết Mác – Lênin về văn hóa được dựa trên những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử về các hình thái kinh tế – xã hội như những giai đoạn phát triển tuần tự của xã hội loài người, về mối quan hệ tương hỗ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Theo đó văn hóa là tính đặc thù của xã hội, thể hiện mức độ phát triển lịch sử mà con người đạt được. Văn hoá là biểu hiện sự thống nhất của tự nhiên và xã hội, là đặc tính về khả năng và sức sáng tạo của con người, nó bao hàm trong mình không chỉ những giá trị cụ thể như máy móc, công cụ kỹ thuật, kết quả nhận thức, các tác phẩm nghệ thuật, các chuẩn mực pháp quyền, đạo đức.v.v… mà còn cả sức mạnh chủ quan của con người và những khả năng trong hoạt động như tri thức, sự khéo léo, thói quen nghề nghiệp, mức độ phát triển của khả năng cảm thụ thẩm mỹ, thế giới quan, phương thức và hình thức giao tiếp của con người trong xã hội.
Từ quan điểm khái quát “Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” của Hồ Chí Minh, ta thấy văn hóa bao hàm hai lĩnh vực là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần tương ứng với hai hình thức sản xuất của xã hội loài người là sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Văn hoá vật chất biểu hiện lĩnh vực hoạt động vật chất và toàn bộ kết quả của hoạt động này, bao gồm: công cụ lao động, nhà ở và những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày như ăn, mặc, đi lại, thông tin, giao lưu.v.v… Văn hoá tinh thần được phản ánh trong hoạt động ý thức, hoạt động sản xuất tinh thần, cùng với toàn bộ kết quả của nó như: hoạt động nhận thức, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, giáo dục đào tạo, tôn giáo tín ngưỡng.v.v… Việc phân định hai lĩnh vực văn hóa trên đây chỉ là tương đối vì mỗi kết quả của những hoạt động này đều hàm chứa trong mình nó cả hai giá trị, giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Hồ Chí Minh đã chủ trương năm điểm cơ bản: “Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường; xây dựng luân lý: biết hy sinh, làm lợi cho quần chúng; xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội; xây dựng chính trị: dân quyền; xây dựng kinh tế” [43, tr.431]. Đây là năm điểm quan trọng để xây dựng một nền văn hoá mới mà Hồ Chí Minh đã tiên liệu ngay khi còn phải sống trong gông xiềng của nhà tù Tưởng Giới Thạch.
Mặc dù hiểu và khái quát văn hóa như một phạm trù rộng bao hàm cả lĩnh vực hoạt động vật chất và tinh thần của xã hội, nhưng trong các bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường đề cập đến văn hoá với nghĩa hẹp của nó là phản ánh những hoạt động tinh thần cùng các giá trị mà hoạt động này tạo ra. Ngay với nghĩa hẹp, thì văn hóa cũng có vai trò quan trọng và không thể thiếu được đối với cuộc sống của con người, nó đứng ngang hàng với các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội loài người như chính trị, kinh tế, xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng văn hóa nói chung, chủ nghĩa Mác – Lênin nói riêng đóng vai trò quan trọng, tạo bước nhảy vọt triệt để trong tư duy, hành động của con người và các dân tộc bị áp bức.
Ngay từ khi còn hoạt động ở Pháp, nhìn thấy ánh sáng văn hoá mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh kịch liệt lên án chính sách ngu dân của chủ nghĩa thực dân đối với các dân tộc thuộc địa, vạch trần tâm địa xấu xa, bỉ ổi của Đơvila – kẻ âm mưu: “Đối với dân bản xứ, thì ta phải giữ họ vĩnh viễn trong cảnh nô lệ” [42, tr.4]. Người viết: “Chúng tôi thiết tưởng rằng, những người Pháp thông minh và chân thực biết rõ tính ưu việt tự nhiên của mình ở bất cứ nơi nào mình sống, thì không cần phải sống giữa những người bản xứ vĩnh viễn bị khoá mồm, bịt miệng và bị xỏ mũi, mới có thể giữ được tính ưu việt đó” [42, tr.4-5]. Để thay thế văn hoá nô dịch của chủ nghĩa thực dân bằng một nền văn hoá mới cách mạng, ngay sau khi vừa giành được độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị mở ngay chiến dịch chống nạn dốt. Theo Người, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, Người coi dốt nát cũng là một thứ giặc, xem đói nghèo cũng như những tập tục lạc hậu cũng là một loại kẻ thù. Người khẳng định văn hóa là tinh hoa của dân tộc, văn hoá phải góp phần khẳng định vị thế của một dân tộc.
Với hơn ba mươi năm bôn ba ở các nước khắp năm châu, Hồ Chí Minh là người am hiểu các trào lưu nghệ thuật trên thế giới, nhận dạng chính xác và đánh giá đúng từng nền văn hoá của nhân loại. Vì vậy, Người kêu gọi phải học cái hay trong từng nền văn hoá của mỗi dân tộc trên thế giới. Vì thế mà ở đâu cũng vậy, với phong cách ung dung của một nhân sĩ phương Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể đàm luận hết sức chi tiết, cụ thể về các danh nhân tiêu biểu của từng nền văn hoá của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Người khâm phục nền văn hoá phát triển của các dân tộc khác, không kể đó là những dân tộc mà chế độ chính trị của họ đang là kẻ thù xâm lược của nhân dân Việt Nam. Nhà báo Mỹ đã nhận xét: “Cụ Hồ Chí Minh là một con người yêu mến văn hoá Pháp trong khi chống thực dân Pháp. Một con người biết coi trọng những truyền thống cách mạng Mỹ, khi Mỹ phá hoại đất nước cụ”
Những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hoá là kim chỉ nam cho chúng ta trong việc xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trên cơ sở đó có thể hội nhập và giao lưu với các nền văn hoá khác trên thế giới, cùng nhau phát triển. Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
1.3.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về văn hóa và quản lý văn hóa
Mục tiêu phấn đấu của Đảng và nhân dân ta hiện nay là vì sự nghiệp “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là đã chú trọng giải quyết các mối quan hệ cơ bản này trên cơ sở quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở đây, chúng ta không nhắc lại toàn bộ Nghị quyết của Đảng ta về vấn đề văn hoá và con người mà chỉ đề cập đến một số vấn đề trọng tâm cần chú ý hiện nay.
Ý thức rõ về sức mạnh của văn hóa đối với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, ngay trong thời kỳ kháng chiến chống pháp, Đảng ta đã đưa ra cương lĩnh đầu tiên về văn hóa, đó là “Đề cương văn hóa Việt Nam” năm 1943. Đề cương xác định rõ: “văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hóa”; vì vậy, “phải hoàn thiện cách mạng văn hóa mới hoàn thành được công cuộc cải tạo xã hội” và Đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hóa tiên phong”; đồng thời đề ra ba nguyên tắc cuộc vận động văn hóa mới: Dân tộc, đại chúng, khoa học. Đến thời kỳ hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Đại hội IV của Đảng đã tiếp tục khẳng định: Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó tập trung “Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa” với những giá trị đạo đức, niềm tin, lý tưởng, lẽ sống cao đẹp. Trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta chủ trương đổi mới tư duy trên mặt trận văn hóa. Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 05 về văn hóa – văn nghệ trong cơ chế thị trường và những chỉ thị quan trọng về đổi mới và nâng cao chất lượng phê bình văn học nghệ thuật, công tác quản lý văn học – nghệ thuật và một số nhiệm vụ văn hóa – văn nghệ. Đến Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) tháng 7 năm 1998, Đảng ra Nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, khẳng định vai trò của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc và tương lai đất nước, “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội” với mục đích “Làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp”. Hội nghị Trung ương 10 (Khóa IX) khẳng định: “không ngừng nâng cao văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước” [46, tr.212-217]. Đại hội X của Đảng tiếp tục nhấn mạnh chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong quá trình hội nhập và phát triển, bên cạnh những cơ hội thuận lợi, Đảng ta đã kịp thời ban hành Nghị quyết 23-NQ/TƯ “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” và Chỉ thị số 46-CT/TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quyết tâm giữ gìn, bảo vệ “bản sắc văn hóa” trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Đảng ta khẳng định: Nền văn hóa Việt Nam đã phát triển trong sự tiếp thu có chọn lọc và biến thành của mình nhiều tinh hoa văn hóa của những nền văn hóa lớn trên thế giới. Ông cha ta đã tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trên tinh thần độc lập dân tộc, với lòng tự hào sâu sắc về những giá trị của con người Việt Nam, của truyền thống lịch sử và văn hóa Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đề ra: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển… Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh chống những biểu hiện phản văn hóa [33, tr.73-84].
Trong thời gian qua, công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở thu được những thành tựu khả quan, góp phần tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Với mục tiêu phát triển văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ra Kết luận Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm sắp tới. Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” [29, tr.106]. Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Nhận thức toàn diện và sâu sắc về phương hướng, đặc trưng, nhiệm vụ và giải pháp để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những yêu cầu cấp thiết để tạo nên sự thống nhất và đồng thuận xã hội, tạo động lực cho việc triển khai các nghị quyết của Đảng về lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để chúng ta kế thừa những quan điểm và thành tựu lý luận này để xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020. Văn kiện Đại hội Đảng XII xác định: Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa. Phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân tộc. Chủ động hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hóa, quảng bá văn hoá Việt Nam, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện và môi trường văn hoá lành mạnh, văn minh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục các biểu hiện xuống cấp về đạo đức xã hội. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội [35, tr.87].
Như vậy, vai trò của văn hóa nói chung và vấn đề quản lý văn hóa nói riêng đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định với quan điểm khá thống nhất và luôn chú trọng trong cả thời chiến lẫn thời bình, đặc biệt là trong thời đại hội nhập ngày nay.
1.3.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về văn hóa
1.3.5.1. Yếu tố con người:
Con người là nguồn lực vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả cơ quan quản lý nhà nước cũng như mục tiêu chung của tổ chức, nếu cán bộ công chức nắm bắt tốt công việc thì công việc của tổ chức sẽ được thực hiện thuận lợi nhanh chóng. Ngược lại nếu có nhiều cán bộ công chức ở các bộ phận không nắm rõ yêu cầu của công việc hoặc không có thái độ đúng đắn với công việc thì công việc của cơ quan gặp rất nhiều khó khăn. Trong cơ quan hành chính nhà nước nhiều cán bộ chuyên môn không là tốt công tác lập hồ sơ văn bản, không có ý thức tuân thủ các quy trình chuyển giao văn bản trong công việc hàng ngày một cách đầy đủ. Do vậy công việc kiểm tra hoạt động các bộ phận khác gặp rất nhiều khó khăn.
1.3.5.2. Yếu tố môi trường pháp lý:
Đề cập đến vấn đề này trước hết cần nói đến pháp luật, tức là những quy định của pháp luật liên quan đến công tác quản lý nhà nước về văn hóa và cán bộ công chức. Mỗi ngành nghề đều có những văn bản pháp luật điều chỉnh riêng. Những quy định mang tính chất pháp lý sẽ được điều chỉnh, quy định và định hướng hoạt động của cán bộ công chức sẽ tuân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Ảnh hưởng của môi trường pháp lý đến công tác quản lý nhà nước về văn hóa và cán bộ công chức là những văn bản quy phạm pháp luật quy định: Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
- + Luật về tổ chức bộ máy quản lý văn hóa đối với các Hội đồng, các Ủy ban, các Bộ;
- + Luật di sản văn hóa;
- + Luật bảo hộ quyền tác giả;
- + Luật điện ảnh;
- + Luật Báo chí;
- + Luật xuất bản;,
- + Pháp lệnh Quảng cáo, pháp lệnh Thư viện v.v..
- + NĐ-CP-NĐ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa thông tin;.
- + Quyền và nghĩa vụ của những người đang giữ chức vụ trong cơ quan Nhà nước;
- + Quan hệ công tác, phối hợp trong cơ quan khi giải quyết công việc (quan hệ giữa người bên trong và người bên ngoài) v.v…
1.3.5.3. Yếu tố môi trường:
Là các thể chế hoặc lực lượng bên ngoài có thể tác động tới hoạt động của tổ chức.
- Môi trường bên trong: Điều kiện làm việc, cán bộ công chức, tiền lương, mối quan hệ giữa các cán bộ công chức trong công sở
- Môi trường bên ngoài: Môi trường trong nước, môi trường Quốc tế, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường chính trị…
1.3.5.4. Yếu tố chỉ huy, cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ:
Đây là yếu tố then chốt, công tác quản lý nhà nước và nhân sự trong công sở như thế nào là do người chỉ huy, họ quyết định mọi vấn đề của công sở và đưa ra các mệnh lệnh hành chính có phù hợp với chức năng nhiệm vụ của công sở hay không.
Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ: Nếu cơ cấu hợp lý thì hoạt động của công sở sẽ nhịp nhàng, thuận tiện, đảm bảo thực hiện công việc tốt hơn. Chức năng nhiệm vụ là yếu tố cơ bản cho công sở, đó là điều kiện thiết yếu cho công sở thực hiện nhiệm vụ cụ thể của mình.
Tiểu kết Chương 1 Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
Quản lý nhà nước về văn hóa có vai trò quan trọng trong việc thực hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng và Nhà nước. Thực chất của công tác quản lý các hoạt động văn hóa là quá trình tác động, điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước thông qua pháp luật trên tất cả các hoạt động văn hóa trong đời sống xã hội nhằm phát triển, đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân. Quản lý nhà nước về văn hóa được thực hiện thông qua ba cơ quan trong bộ máy nhà nước: cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Theo nghĩa hẹp: quản lý nhà nước về văn hóa được thể hiện trong hoạt động quản lý có tính chất nhà nước nhằm điều hành các hoạt động văn hóa, được thực hiện bởi hệ thống bộ máy các cơ quan hành pháp (Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở, Phòng…). Quản lý nhà nước về văn hóa thực chất là quản lý hành chính đối với văn hóa.
Cơ sở khoa học trong quản lý nhà nước về văn hóa rất quan trọng trong công tác quản lý nhà nước mà chủ thể quản lý là các cơ quan Nhà nước. Làm cơ sở pháp lý cho xã hội hoá công tác này; là cơ sở pháp lý cho việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, qua đó bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa.
Tuy vậy, hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa là một vấn đề phức tạp ở nước ta hiện nay nên cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện nhằm nâng cao hơn nữa vai trò của lý luận quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng, sự cần thiết, nguyên tắc đến vai trò lý luận quản lý nhà nước về văn hóa.
Kết quả nghiên cứu về phương diện lý luận và thực tiễn của quản lý văn hóa ở Chương 1 là cơ sở để luận văn khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý văn hóa của huyện trong thời gian qua, làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng của công tác quản lý văn hóa của huyện trong thời gian tới. Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng quản lý nhà nước về văn hoá tại Krông Búk

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: lamluanvan24h@gmail.com
[…] ===>>> Luận văn: Quản lý nhà nước về văn hóa tại huyện Krông Búk […]