Luận văn: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho HS trung học

Đánh giá post

Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học cơ sở quận hai bà trưng thành phố Hà Nội

2.1. Khái quát tình hình kinh tế xã hội và giáo dục của quận Hai Bà Trưng

2.1.1. Tình hình kinh tế – xã hội quận Hai Bà Trưng

Quận Hai Bà Trưng nằm trên nền đất xưa vốn thuộc các tổng: Hậu Nghiêm (sau đổi là Thanh Nhàn), Tả Nghiêm (sau đổi là Kim Liên), Tiền Nghiêm (sau đổi là Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương, một số tổng của huyện Thanh Trì và vùng thái ấp của thượng tướng Trần Khát Chân từ Ô Cầu Dền (đầu đường Trần Khát Chân) đi xuống hết Bạch Mai, tới các phường có tên Mai (Mai Động, Tương Mai nay thuộc quận Hoàng Mai). Từ tháng 6 năm 1981 mang tên là quận Hai Bà Trưng. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô Hà Nội đến năm 2035, quận Hai Bà Trưng có vị trí đặc biệt quan trọng. Đây là nơi có nhiều trung tâm kinh tế của Thủ đô và cả nước. Quận Hai Bà Trưng gồm 20 phường, phía đông giáp sông Hồng, qua bờ sông là quận Long Biên, phía Tây chủ yếu giáp quận Đống Đa, một phần nhỏ giáp quận Thanh Xuân, phía Nam giáp quận Hoàng Mai, phía Bắc giáp quận Hoàn Kiếm. Với diện tích 14,6 km2, dân số là 378.000 người (số liệu của UBND quận Hai Bà Trưng năm 2025)

Trong những năm gần đây, khi xu thế toàn cầu hoá, hội nhập với thời cơ và cơ hội mới, nền kinh tế nước ta nói chung và kinh tế quận Hai Bà Trưng có những bước phát triển, đời sống nhân dân ngày được nâng cao, công tác giáo dục luôn được Đảng, Nhà nước chú trọng và chăm lo. Nền kinh tế quận Hai Bà Trưng đang trên đà phát triển, cơ cấu kinh tế nhìn chung đang chuyển nhanh theo xu thế tiên tiến, trong đó công nghiệp và xây dựng cũng như dịch vụ du lịch phát triển. Các công trình văn hoá của quận cũng phát triển nhanh: với số lượng công viên lớn trong Hà Nội (02 công viên), nhiều đình chùa đã được nhà nước đầu tư kinh phí để tu tạo và công nhận di tích hạng Quốc gia. Các trường đại học lớn và danh tiếng của cả nước như: Đại học Kinh Tế Quốc Dân, Đại học Bách Khoa… đều được toạ lạc trên nền đất quận Hai Bà Trưng. Các trung tâm thương mại lớn ngày càng phát triển như Vincom City Tower, Times City… Hiện trên địa bàn quận có hơn 3.300 doanh nghiệp, trong đó 70% là thương mại, dịch vụ, còn lại là hoạt động công nghiệp. Năm 2025, giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 14,5%; doanh thu thương mại, du lịch, dịch vụ tăng hơn15%; tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn quận đạt 933,841 tỷ đồng.

Về công tác xã hội: Hơn 5 năm qua quận đã hỗ trợ sửa chữa và xây dựng 167 nhà đại đoàn kết, hỗ trợ cho 1.201 hộ gia đình thoát nghèo, trên 33.000 lao động được giới thiệu việc làm. Đến nay, số hộ nghèo trong toàn quận còn 1.022 hộ (chiếm 1,35%). Công tác y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình; công tác giáo dục đào tạo; công tác thông tin tuyên truyền và tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao tiếp tục giữ vững và đạt kết quả tốt trong nhiều năm qua.

Năm 2025, các chỉ tiêu kinh tế – xã hội của quận Hai Bà Trưng đều cơ bản hoàn thành. Giá trị sản xuất, thương mại, dịch vụ đạt 1.325 tỷ đồng (đạt 96% kế hoạch). Vào những tháng cuối năm 2025, quận cũng đã tập trung chỉ đạo giải ngân cho các dự án đầu tư cho giáo dục.

2.1.2. Tình hình giáo dục và những định hướng về phát triển giáo dục đào tạo quận Hai Bà Trưng

Ủy ban nhân dân quận Hai Bà Trưng – Phòng GD&ĐT quận Hai Bà Trưng tổ chức hội nghị xây dựng định hướng kế hoạch giai đoạn 2025-2035 ở cấp THCS, chia các trường THCS trong quận thành hai cụm. Cụm 1 gồm trường THCS Nguyễn Phong Sắc (cụm trưởng), Ngô Gia Tự, Ngô Quyền, Quỳnh Mai, Lê Ngọc Hân, Đoàn Kết, Vĩnh Tuy.Cụm 2 gồm: Trưng Nhị (cụm trưởng), Tây Sơn, Lương Yên, Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Huy Tập, Tô Hoàng, Vân Hồ. Việc xây dựng thành hai cụm như vậy để công tác quản lý dễ dàng hơn theo khu vực phường và đặc điểm học sinh.

Từ năm học 2025 – 2035, định hướng đảm bảo chất lượng giáo dục toàn diện, đẩy mạnh kiên cố hoá trường lớp, xây dựng hệ thống các trường chuẩn quốc gia, cải tạo hệ thống chiếu sáng học đường. Phòng GD&ĐT đã được Sở GD&ĐT Hà Nội đánh giá là đơn vị xuất sắc trong công tác: Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực, thực hiện tốt các cuộc vận động và công tác công Đoàn. Đây là điểm đáng tự hào của ngành giáo dục và cũng là động lực cho ngành GD&ĐT quận Hai Bà Trưng cần nỗ lực hơn nữa để giữ vững danh hiệu này. Giai đoạn 2025 – 2035, ngành tiếp tục đổi mới quản lý và phương pháp dạy học nhằm nâng cao giáo dục toàn diện, mục tiêu đến năm 2035 xếp hạng cao trong toàn Thành phố. Tổ chức đánh giá, phân loại GV, CBQL theo các chuẩn quy định. Qui mô các ngành học phát triển toàn diện và vững chắc trong toàn Quận. Theo thống kê của phòng GD&ĐT quận Hai Bà Trưng năm 2025, số lượng học sinh THCS trong Quận: các năm từ 2017 đến năm 2023 có 17.621 học sinh; các năm từ 2023 đến năm 2025 có khoảng 19.074 học sinh; năm học 2025 – 2026 có khoảng 22. 073 học sinh.

2.1.3. Những thuận lợi, khó khăn trong quản lý giáo dục đạo đức học sinh trung học cơ sở quận Hai Bà Trưng

Song song với việc phát triển kinh tế xã hội và du lịch, quận Hai Bà Trưng luôn chú trọng nâng cao chất lượng quản lý giáo dục nói chung và chất lượng quản lý GDĐĐ cho học sinh các trường THCS nói riêng. Qua khảo sát, việc QLGDĐĐ học sinh có những thuận lợi:

  • Thuận lợi:

Quận uỷ, HĐND, UBND Quận, các ban ngành đoàn thể trong Quận đều quan tâm tới công tác phát triển giáo dục – đào tạo. Công tác chỉ đạo của ngành GD&ĐT có nhiều định hướng đổi mới và đúng hướng, đồng thời tổ chức thực hiện có hiệu quả. Trình độ văn hóa mang nét đặc trưng của các Quận nội thành nhưng cũng có nét văn hóa riêng của khu vực ngoại thành. Vì vậy có sự giao lưu văn hóa của hai khu vực, tác động đến văn hóa, phong cách, lối sống của thanh thiếu niên, ảnh hưởng đến việc QLGDĐĐ học sinh. Nhân dân quận Hai Bà Trưng tuy còn khó khăn về đời sống nhưng có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo.

Dưới sự định hướng của cấp trên, phòng GD&ĐT quận Hai Bà Trưng đã chỉ đạo cụ thể bằng công văn và hướng dẫn trực tiếp đến các trường tiểu học, THCS trên địa bàn. Nhận thức được vai trò của mình trong công cuộc phát triển ngành giáo dục của quận Hai Bà Trưng, các trường đã triển khai sôi nổi công tác thi đua dạy tốt học tốt cả tri thức và đạo đức.

  • Khó khăn:

Bên cạnh những mặt thuận lợi còn có những mặt khó khăn: Quận Hai Bà Trưng là một quận có số dân cao trong thành phố nên công tác quản lý gặp nhiều khó khăn. Giáo dục và Đào tạo của quận còn có sự bất đồng đều giữa các phường, các khu vực trong quận. Cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập của các nhà trường đã được quận và thành phố đầu tư với nguồn kinh phí lớn, tuy nhiên nhiều trường còn chưa được xây dựng, có trường còn phải học nhờ, đa số các trường mầm non công lập và một số trường phổ thông trong quận đang quá tải, trang thiết bị phục vụ dạy và học đã được đầu tư lớn nhưng chưa đáp ứng được với yêu cầu giảng dạy. Đội ngũ CBQL và GV các nhà trường đã được kiện toàn, tuy nhiên một số vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới giáo dục.

Để đạt được chất lượng quản lý các hoạt động giáo dục tốt thì các điều kiện đi kèm như đội ngũ CBQL, cơ sở vật chất, kinh phí… cần được đầu tư trang bị tốt, thuận lợi cho công tác quản lý hơn nữa.

2.2. Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức của hiệu trưởng các trường trung học cơ sở Quận Hai Bà Trưng

2.2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng

Mục đích nghiên cứu: Đánh giá thực trạng biện pháp của hiệu trưởng trong QLGDĐĐ cho học sinh THCS, để làm cơ sở thực tiễn đề xuất các biện pháp quản lý GDĐĐ cho học sinh THCS đáp ứng yêu cầu nâng cao GDĐĐ, góp phần giáo dục toàn diện học sinh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập Quốc tế.

Nội dung khảo sát: Tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng đạo đức học sinh THCS Quận Hai Bà Trưng Thành phố Hà Nội. Tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng QLGDĐĐ cho học sinh THCS của hiệu trưởng các trường THCS quận Hai Bà Trưng Thành phố Hà Nội. Khảo sát những thuận lợi, khó khăn và các yếu tố ảnh hưởng đến QLGDĐĐ cho học sinh THCS. Về cơ bản, nội dung khảo sát được dựa trên nội dung quản lý đã được xác định ở chương 1 của luận văn này.

Phương pháp điều tra thực trạng: Xây dựng các mẫu phiếu điều tra, khảo sát thực trạng QLGDĐĐ cho học sinh THCS quận Hai Bà Trưng. Tổng kết kinh nghiệm của hiệu trưởng các trường THCS trên đại bàn Quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội về biện pháp QLGDĐĐ cho học sinh. Thông qua các hoạt động của nhà trường, các chương trình hoạt động ngoại khóa, hoạt động của các tập thể lớp….quan sát nhằm tìm hiểu công tác QLGDĐĐ cho học sinh.

Nghiên cứu các văn bản giáo dục để có cơ sở khoa học đề xuất biện pháp QLGDĐĐ cho học sinh THCS một cách phù hợp, hiệu quả. Sử dụng các công thức toán thống kê để xử lý kết quả nghiên cứu nhằm rút ra những nhận xét khoa học.

Địa bàn khảo sát: các trường THCS trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng. Gồm các trường: THCS Lương Yên, THCS Quỳnh Mai, THCS Lê Ngọc Hân, THCS Trưng Nhị, THCS Tô Hoàng.

Khách thể tham gia khảo sát: là CBQL các trường THCS (BGH, trưởng các đoàn thể, khối trưởng khối chủ nhiệm, GVCN, GVBM các trường THCS).

2.2.2. Thực trạng Hiệu trưởng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh THCS Quận Hai Bà Trưng.

2.2.2.1.Thực trạng Hiệu trưởng quản lý kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh

Xây dựng kế hoạch GDĐĐ cho học sinh THCS là vô cùng quan trọng, chúng tôi đã tiến hành khảo sát bằng phiếu đối với 200 CBQL. Câu hỏi đặt ra là: “Xin vui lòng cho biết ở trường đồng chí đã xây dựng những kế hoạch quản lý GDĐĐ cho học sinh nào dưới đây?”.

  • Bảng 2.2.1. Kế hoạch quản lý GDĐĐ cho học sinh

Kết quả ở bảng trên cho thấy: 96,0% ý kiến cho rằng hiệu trưởng các trường đã chủ động quản lý việc xây dựng kế hoạch GDĐĐ cho học sinh trong cả năm học, kế hoạch GDĐĐ qua các ngày lễ kỉ niệm, các đợt thi đua theo chủ đề 92,5%; kế hoạch GDĐĐ cho từng kỳ học 76,5%; kế hoạch GDĐĐ cho từng tháng là 48,0%; cuối cùng là kế hoạch GDĐĐ cho từng tuần là 36,0%.

Kết quả trên đã khẳng định hiệu trưởng các trường THCS quận Hai Bà Trưng chỉ chú trọng quản lý việc xây dựng kế hoạch GDĐĐ cho cả năm học và kế hoạch GDĐĐ qua các ngày lễ kỉ niệm, các đợt thi đua theo chủ đề với thời gian dài. Còn kế hoạch GDĐĐ học sinh theo từng tháng chưa được chú ý thường xuyên. Kế hoạch GDĐĐ học sinh theo từng tuần ít được sử dụng. Trong bối cảnh xã hội hiện nay nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế có nhiều biến động, các tệ nạn xã hội tác động xấu đến học sinh. Các trường cần chú trọng tăng cường kế hoạch hóa công tác GDĐĐ cho học sinh chi tiết, cụ thể hơn trong thời gian ngắn hạn tuần và tháng. Vừa giáo dục, vừa kiểm soát sát sao, nhắc nhở kỉ luật nghiêm, khen thưởng động viên kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho học sinh.

2.2.2.2. Thực trạng hiệu trưởng tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức.

Chúng tôi tiến hành điều tra thực trạng quản lý khâu tổ chức thực hiện kế hoạch GDĐĐ cho học sinh qua CBQL, Tổng phụ trách nhà trường, GVCN: “ Xin đồng chí vui lòng cho biết ở trường của đồng chí, Hiệu trưởng chỉ đạo tổ chức giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua các hình thức nào?”

  • Bảng 2.2.2. Thực trạng quản lý các hình thức GDĐĐ học sinh của Hiệu trưởng các trường THCS

Qua kết quả khảo sát chúng tôi thấy Hiệu trưởng các trường THCS quận Hai Bà Trưng đều quan tâm tới công tác quản lý hình thức GDĐĐ cho học sinh rất sát sao.

Việc chỉ đạo được coi là tốt hiện nay là chỉ đạo GDĐĐ thông qua dạy học trên lớp với điểm trung bình là 2,80 xếp bậc 1. Các giáo viên bộ môn đều có ý thức trách nhiệm GDĐĐ cho học sinh nhất là những bộ môn KHXH&NV; trong giờ học giáo viên uốn nắn thái độ, hành vi đạo đức cho học sinh; Chỉ đạo GDĐĐ thông qua tiết chào cờ đầu tuần với điểm trung bình 2,70 xếp bậc 2. Đây là tiết sinh hoạt ngoại khóa trong phạm vi toàn trường, để tổng kết những hoạt động học tập, tu dưỡng của các tập thể học sinh trong một tuần. Trước tập thể học sinh, Ban giám hiệu đánh giá những ưu khuyết điểm của các tập thể lớp và cá nhân học sinh. Khen thưởng, động viên học sinh, kỷ luật học sinh, uốn nắn, nhắc nhở học sinh thực hiện tốt nội qui trường, lớp… Đây là hoạt động có hiệu quả GDĐĐ cao nên các trường đều thực hiện tốt.

Chỉ đạo GDĐĐ thông qua hoạt động của Đoàn thanh niên có điểm trung bình là 26,5 xếp bậc 3. Đây là hoạt động có hiệu quả cao. Dưới sự chỉ đạo của Chi ủy, Ban giám hiệu, Ban thiếu niên có nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, đạo đức lối sống cho học sinh và trực tiếp theo dõi, đánh giá thi đua một cách toàn diện, khách quan hoạt động học tập tu dưỡng của học sinh. Chỉ đạo GDĐĐ thông qua tiết sinh hoạt lớp có điểm trung bình là 2,60 xếp bậc 4. Nhà trường quản lý chặt chẽ sinh hoạt lớp mỗi tuần một lần. GVCN cùng đội ngũ cán bộ lớp tổ chức sinh hoạt. Nhận xét những ưu khuyết điểm, khen chê kịp thời, uốn nắn những hành vi đạo đức cho học sinh, giúp học sinh phát triển nhân cách một cách toàn diện. Chỉ đạo GDĐĐ thông qua mục tiêu, nội dung giáo dục, theo chủ điểm tháng có điểm trung bình là 2,50 xếp bậc 5. Chỉ đạo giáo viên đánh giá rèn luyện đạo đức học sinh có điểm trung bình là 2,40 xếp bậc 6. Hoạt động này làm chưa được tốt, Ban giám hiệu chưa thường xuyên kiểm tra hồ sơ, sổ sách công tác của GVCN. Có chủ nhiệm lớp không xếp học sinh theo tháng nên cuối năm đánh giá sự rèn luyện đạo đức của từng học sinh không chuẩn xác, dẫn đến không ít hành động tiêu cực của học sinh. Ban giám hiệu có quản lý, kiểm tra thì GVCN mới có ý thức công tác tốt.

Việc chỉ đạo phối hợp các lực lượng GDĐĐ học sinh chưa được tốt có điểm trung bình là 2,10 xếp bậc 7. Nhà trường có thực hiện phối hợp lực lượng giáo dục nhưng hiệu quả chưa cao, các trường chủ yếu phối hợp các tổ chức, các lực lượng trong nhà trường. Nhà trường chưa phối hợp chặt chẽ với các lực lượng xã hội để GDĐĐ cho học sinh. Đây là hạn chế cần phải được khắc phục trong suốt thời gian tới.

Chỉ đạo đầu tư về cơ sở vật chất kinh phí cho hoạt động GDĐĐ có điểm trung bình là 2,00 xếp bậc 8. Các nhà trường còn hạn chế về kinh phí, hiện nay chưa có trường nào có phòng truyền thống học sinh không có điều kiện tìm hiểu về truyền thống nhà trường, bề dày thành tích của nhà trường, việc đầu tư tuyên truyền GDĐĐ tổ chức hội nghị trao đổi về kinh nghiệm GDĐĐ tọa đàm nói chuyện về người tốt việc tốt… bị hạn chế do không có kinh phí. Các trường cần linh hoạt, sáng tạo làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục để phục vụ cho mục tiêu giáo dục nói chung và GDĐĐ nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

2.2.2.3. Thực trạng hiệu trưởng điều khiển chỉ đạo việc phối hợp của nhà trường với các lực lượng giáo dục.

Để đánh giá thực tế sự phối hợp của nhà trường tới các lực lượng giáo dục, chúng tôi tham khảo ý kiến của các CBQL, GV và phụ huynh. Câu hỏi được đặt ra là:“ Đồng chí cho biết ý kiến về thực trạng phối hợp giữa nhà trường với các lực lượng giáo dục để GDĐĐ học sinh?”

  • Bảng 2.2.3. Phối hợp nhà trường với các lực lượng GDĐĐ học sinh

Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt đẹp được. Gia đình và các lực lượng có vai trò quan trọng trong quá trình GDĐĐ học sinh. Nhưng thực tế khảo sát cho thấy nhà trường mới chỉ phối hợp tốt với gia đình qua điểm trung bình 2,61; với Hội phụ huynh có điểm trung bình 2,57 và với công an có điểm trung bình 2,42. Nhà trường chủ động kết hợp, đa số phụ huynh quan tâm tới việc học tập và rèn luyện của con. Nhưng không ít các bậc phụ huynh phó mặc con cho nhà trường, không quan tâm thường xuyên tới việc học tập, tu dưỡng đạo đức của con em mình. Không ít phụ huynh trong các năm học không đi họp cho con, hay nhờ người khác họp, gây khó khăn cho giáo viên chủ nhiệm với việc nắm bắt thông tin hai chiều trong quá trình GDĐĐ học sinh. Hội phụ huynh chưa hoạt động tích cực, để giúp nhà trường tìm các giải pháp hữu hiệu trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nói chung và chất lượng GDĐĐ nói riêng. Cha mẹ đi họp thì mới có thông tin hai chiều để biết thực lực học tập, rèn luyện của con và chủ trương của nhà trường thông báo từ đó có biện pháp để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Như vậy, sự kết hợp giữa nhà trường và gia đình mới tương đối tốt.

Nhà trường kết hợp với công an tương đối tốt có điểm trung bình là 2,42. Thực tế, các trường hàng năm vẫn mời cán bộ công an các cấp đến nói chuyện giáo dục học sinh về ý thức chấp hành pháp luật, phòng chống tội phạm tuổi học đường, phòng chống tệ nạn xã hội và tuyên truyền thực hiện luật lệ giao thông và giúp nhà trường bảo vệ trật tự an ninh nhà trường góp phần GDĐĐ học sinh.

Việc kết hợp với một số lực lượng giáo dục khác trong việc GDĐĐ học sinh chưa thực sự tốt, còn nhiều hạn chế như cơ sở văn hóa điểm trung bình là 2,29; dòng họ địa phương điểm trung bình 1,36; chính quyền địa phương điểm trung bình 2,26; địa bàn dân cư điểm trung bình 1,54; đài phát thanh điểm trung bình 1,30; đoàn thể địa phương điểm trung bình 1,65. Điều đó chưa đáp ứng được đòi hỏi của công tác GDĐĐ học sinh. Thời gian học tập và sinh hoạt của học sinh THCS khoảng từ 4 đến 6 tiếng tại trường, thời gian còn lại của các em là ở gia đình và ngoài xã hội. Nếu nhà trường không phối hợp tốt với chính quyền địa phương, địa bàn dân cư và gia đình học sinh sẽ thiếu thông tin hai chiều về tình hình đạo đức của học sinh nhất là trong bối cảnh xã hội phức tạp hiện nay.

Giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống cho học sinh, tổ chức lôi cuốn các em vào những hoạt động lành mạnh, có tính chất giáo dục là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của nhà trường. Để đạt mục tiêu giáo dục, vấn đề đặt ra là nhà trường phải tổ chức kết hợp với gia đình và xã hội, huy động sức mạnh của toàn xã hội để góp phần nâng cao hiệu quả GDĐĐ cho học sinh “Mọi tổ chức gia đình và công dân đều có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và môi trường lành mạnh, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục”

Qua số liệu điều tra chúng tôi thấy, đa số hiệu trưởng các nhà trường quản lý về xếp loại hạnh kiểm của học sinh trong trường, tuy nhiên chỉ là theo từng học kì, từng khối lớp. Việc làm này cần phải theo từng tháng, từng lớp để kịp thời điều chỉnh và uốn nắn.

2.3. Đánh giá thực trạng

2.3.1.Thuận lợi, khó khăn trong quản lý giáo dục đạo đức của Hiệu trưởng các trường THCS quận Hai Bà Trưng

Bảng 2.3.1. Tổng hợp ý kiến về thuận lợi trong QLGDĐĐ cho học sinh của Hiệu trưởng các trường THCS

Nhận xét: Thuận lợi của công tác QLGDĐĐ học sinh rất nhiều và tập trung chủ yếu vào các hoạt động của nhà trường. Mức độ thuận lợi được CBQL và GV đánh giá rất khác nhau. Thuận lợi nhất là ” Phối hợp tốt các lực lượng trong và ngoài nhà trường trong quản lý giáo dục đạo đức” với 44,5% ý kiến rất đồng ý và 49,1% ý kiến đồng ý; ” Xây dựng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm có năng lực, tận tâm với việc giáo dục đạo đức học sinh” với 26,3% ý kiến rất đồng ý và 68,2% ý kiến đồng ý.

Bảng 2.3.2. Tổng hợp ý kiến về khó khăn trong công tác quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh THCS của Hiệu trưởng các trường

Khó khăn của công tác QLGDĐĐ rất nhiều và tập trung chủ yếu vào hoạt động của nhà trường. Mức độ khó khăn cũng được CBQL và GV đánh giá rất khác nhau: Khó khăn mà các ý kiến rất đồng ý là “Việc xây dựng, triển khai kế hoạch GDĐĐ chưa hiệu quả” với 61,8 %; “Công tác kiểm tra, đánh giá chưa thường xuyên” với 88,2 % ý kiến đồng ý.

2.3.2. Những ưu điểm và hạn chế trong quản lý giáo dục đạo đức học sinh THCS quận Hai Bà Trưng

2.3.2.1. Ưu điểm

Nhìn chung học sinh THCS quận Hai Bà Trưng có nhận thức đúng đắn về các chuẩn mực đạo đức. Được sự giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội, đa số các em đều có phẩm chất đạo đức tốt: kính trọng ông bà, cha mẹ, thầy cô, đoàn kết thân ái, sẵn sàng giúp đỡ bạn bè và người thân xung quanh, có lối sống lành mạnh, khiêm tốn học hỏi, tự giác tích cực học tập, có ý thức chấp hành kỉ luật, biết tuân theo pháp luật, tuân theo quy định của cuộc sống, xã hội, cộng đồng.

Các trường THCS quận Hai Bà Trưng đã có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng, vai trò, vị trí của công tác QLGDĐĐ cho học sinh trong quá trình giáo dục toàn diện, nên đã có một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng GDĐĐ cho học sinh.

Nhà trường triển khai kế hoạch GDĐĐ cho CBQL, GV, GVCN, đoàn thanh niên…liên tục phát động các đợt thi đua để các tập thể lớp và các cá nhân học sinh tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức trong nhà trường.

2.3.2.2. Hạn chế

Những năm gần đây, nền giáo dục nước nhà còn nhiều bất cập, chất lượng giáo dục đào tạo còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Công tác GDĐĐ cho học sinh còn hạn chế, các trường chủ yếu chú trọng giáo dục trí tuệ, chưa quan tâm đúng mức đến mặt đạo đức. Nội dung GDĐĐ thiên về kiến thức mà xem nhẹ việc rèn ý thức, thái độ, hành vi cho học sinh,việc quản lý hoạt động GDĐĐ ngoài giờ lên lớp của nhà trường mới chỉ dừng lại ở kế hoạch tổng thể, tức là lựa chọn những ngày lễ lớn để tổ chức hoạt động giáo dục, chưa cụ thể hóa các hình thức tổ chức có tính sáng tạo. Các hình thức tổ chức chưa phong phú, đa dạng, có chiều sâu để cuốn hút học sinh và nâng cao nhận thức sâu sắc, tình cảm và niềm tin mạnh mẽ để hình thành và phát triển những hành vi đạo đức. Sự phối hợp các lực lượng chưa đồng bộ, thiếu sự nhất quán giữa nhà trường và các đoàn thể xã hội.

2.3.2.3. Những nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến sự hạn chế của việc quản lý GDĐĐ cho học sinh

  • Nhóm nguyên nhân khách quan

Sự phát triển của nền kinh tế thị trường, chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế đã phát huy các mặt tích cực của nó, nhưng ngược lại sẽ kéo theo sự biến đổi hệ thống định hướng giá trị đạo đức của mỗi người trong xã hội, ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức của học sinh. Do sự chỉ đạo từ trên xuống còn chưa thường xuyên và sát sao, do thiếu văn bản pháp quy nên công tác QLGDĐĐ cho học sinh chưa được coi là một tiêu chí quan trọng, chưa được đặt ngang hàng với giáo dục văn hóa. Thực trạng các trường học chưa chỉ đạo sát sao việc thực hiện các văn bản hướng dẫn về việc đánh giá hạnh kiểm của học sinh; tình trạng không ít giáo viên chủ nhiệm trẻ lúng túng trong việc xếp loại hạnh kiểm học sinh và việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm học sinh còn mang tính hình thức. Thiếu các văn bản pháp quy của nhà nước và địa phương chỉ đạo các ban ngành thực hiện phối hợp với nhà trường và gia đình trong công tác GDĐĐ học sinh.

Cơ sở vật chất, điều kiện kinh tế, chính trị xã hội còn chưa thuận lợi cho việc QLGDĐĐ cho học sinh THCS.

  • Nhóm nguyên nhân chủ quan

Nguyên nhân chủ yếu do nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của hoạt động GDĐĐ; vì nhận thức còn hạn chế nên nhiều cán bộ quản lý, giáo viên chưa thật nhiệt tình trong công tác QLGDĐĐ cho học sinh, có GVCN buông lỏng công tác GDĐĐ học sinh. Năng lực tổ chức, chỉ đạo của nhiều hiệu trưởng còn hạn chế, thiếu phương pháp, chưa chú trọng đến công tác quản lý. Việc đầu tư kinh phí cho công tác GDĐĐ cho học sinh chưa cao mà chỉ chú trọng đầu tư vào việc dạy đội tuyển học sinh giỏi, đội văn nghệ, đội thể dục thể thao… để đem về thành tích cho nhà trường, trong khi đó công tác GDĐĐ cần có kinh phí nhiều hơn để tổ chức các hội nghị lớn, các buổi tổng kết kinh nghiệm giáo dục học sinh, khen thưởng, động viên, bồi dưỡng kinh nghiệm nghiệp vụ sư phạm, năng lực công tác cho đội ngũ CBQL và đội ngũ GVCN thì chưa được đầu tư nhiều.

Bên cạnh đó năng lực của hiệu trưởng trong việc xây dựng kế hoạch, mạng lưới tổ chức quản lý; công tác thanh tra, kiểm tra chưa thường xuyên. Quản lý mà không kiểm tra thì coi như không quản lý; trong quá trình hoạt động không thường xuyên kiểm tra thì không thể biết được mặt mạnh, mặt yếu, những thiếu sót để uốn nắn bổ sung; công tác kế hoạch hóa còn yếu, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường thì hiệu quả QLGDĐĐ học sinh chưa cao.

Công tác đánh giá, khen thưởng chưa khách quan kịp thời, chưa động viên, kích lệ được phong trào thi đua của giáo viên và học sinh. Chủ yếu các trường kế hoạch hóa ở tầm vĩ mô, chưa chi tiết cụ thể. Nguyên nhân chủ quan cuối cùng là do đội ngũ cán bộ thiếu và yếu. Thiếu và yếu chủ yếu là GVCN, thiếu những giáo viên tâm huyết với nghề, yêu trẻ và kinh nghiệm công tác GDĐĐ học sinh.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà công tác quản lý giáo dục vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Các nguyên nhân đó ảnh hưởng trực tiếp đến công việc QLGDĐĐ và gián tiếp ảnh hưởng đến công tác quản lý giáo dục tại nhà trường: Gia đình: có nhiều gia đình cha mẹ sống không gương mẫu, buông lỏng giáo dục, phó mặc cho xã hội, nhà trường. Nhà

trường: có nơi, có lúc, uy tín của người thầy sa sút, các giá trị tôn sư trọng đạo bị nhìn nhận một cách méo mó, vật chất hoá, thực dụng, người thầy không giữ được tư thế đáng kính trọng trong quan hệ thầy trò, tác động đến uy tín của người thầy, từ đó gây suy nghĩ không tốt cho học sinh và không ít phụ huynh. Xã hội: những hạn chế, tác động xấu từ môi trường của thời kì mở cửa, những tư tưởng văn hoá xấu, ngoại lai, mặt trái của cơ chế thị trường tác động đến học sinh. Lối sống buông thả, tệ nạn xã hội, nhân cách tha hoá, băng hoại đạo đức. Tác động xấu đến giá trị đạo đức truyền thống, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác QLGDĐĐ cho học sinh.

Một số trường còn hạn chế việc tổ chức triển khai kế hoạch QLGDĐĐ cho học sinh. Công tác kiểm tra đôn đốc chưa thường xuyên, việc khen thưởng, kỉ luật chưa kịp thời nên chưa động viên, kích thích được các lực lượng tích cực tham gia giáo dục thế hệ trẻ. Nhiều CBQL, GVCN, GV nhân viên chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác GDĐĐ gắn với kết quả quá trình dạy học với hoạt động giáo dục toàn diện.

Học sinh các trường THCS ứng với lứa tuổi thiếu niên từ 12 đến 15 tuổi. Đây là quãng thời gian mà các em phát triển nhanh về thể chất, nhưng chưa kịp phát triển đầy đủ về tâm lý, ý thức, có những biểu hiện khủng khoảng về tâm, sinh lý. Các em còn nhỏ nhưng đã muốn vươn lên tự khẳng định mình, ý thức học tập, trí tuệ và tình cảm phát triển nhanh.

Tình hình kinh tế chính trị xã hội của quận Hai Bà Trưng vừa có cái chung vừa có tính đặc thù riêng vì vậy việc QLGDĐĐ cho học sinh vừa phải tuân theo quy luật chung, vừa phải nghiên cứu tìm ra nét đặc trưng riêng để có sự tác động đến quản lý cho phù hợp và đạt hiệu quả cao.

Đặc điểm lứa tuổi cùng với đặc điểm tình hình kinh tế, văn hoá xã hội trên địa bàn quận Hai Bà Trưng đã có tác động khá mạnh mẽ vào hoạt động của Hiệu trưởng trong QLGDĐĐ cho học sinh THCS trên địa bàn. Trong đó có những tác động tích cực và những tác động tiêu cực. Những kết quả nghiên cứu về thực trạng GDĐĐ và thực trạng QLGDĐĐ của Hiệu trưởng các trường THCS trên địa bàn quận Hai Bà Trưng đã cung cấp cho chúng ta một bức tranh tổng thể, khá toàn diện về vấn đề này. Thực trạng đó đã đặt ra cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu đề xuất các biện pháp của Hiệu trưởng trong QLGDĐĐ cho học sinh THCS trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội trong tình hình hiện nay.

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0972114537