Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT

Mục lục

Đánh giá post

Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Thực trạng quản lý hoạt động BD HSNK ở một số trường trường THPT tại tỉnh Bình Phước dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.

2.1. Khái quát tình hình kinh tế – xã hội, giáo dục tỉnh Bình Phước

2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế – xã hội tỉnh Bình Phước

  • Theo Dư địa chính Bình Phước (2023) [36]:

Bình Phước là tỉnh miền núi trung du nằm về phía Tây của vùng Đông Nam Bộ, tiếp từ bậc thềm phù sa cổ đến đồi núi thấp dạng vòm phủ bazan và đến đồi núi trung bình thấp dạng dải kéo dài của các trầm tích lục nguyên và phun trào bazan khe nứt, tiếp giáp với các cao nguyên Bảo Lộc, Di Linh và Đắk Nông; phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai; phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Campuchia; phía Nam giáp tỉnh Bình Dương và phía Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk và Campuchia, với chiều dài biên giới là 240 km. Diện tích đất tự nhiên là 6.835,35 km2, phần lớn là đất đỏ bazan và đất xám phù sa cổ. Bình Phước là vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên với đồng bằng nên địa hình thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Độ cao địa hình trung bình từ 200m – 300m.

Bình phước nằm trong vùng đới khí hậu cận xích đạo, đặc trưng của đới khí hậu này là nền nhiệt độ cao quanh năm nóng ẩm. Mặt khác, Bình Phước cũng chịu ảnh hưởng của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa. Đặc trưng nổi bật nhất của dạng khí hậu này là sự phân chia làm 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4.

Bình Phước có địa hình khá cao, là nơi bắt nguồn của nhiều sông, suối chảy trong vùng, trong đó có 3 con sông lớn là sông Bé, sông Sài Gòn và sông Đồng Nai. Mạng lưới sông, suối khá dày với mật độ 0,7 – 0,8 km/km2

Dân cư Bình Phước hình thành và phát triển trong thời gian dài, sống xen kẻ, đa dân tộc, đa tôn giáo, phát triển cả hai hướng tự nhiên và cơ học. Đến năm 2023, tỉnh Bình phước có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 3 thị xã và 8 huyện, với 111 đơn vị hành chính cấp xã. Đến tháng 12/2021 tổng số nhân khẩu của tỉnh Bình Phước là 927.126 người.

Hiện nay, với việc khai thác lợi thế về nguồn tài nguyên, tỉnh Bình Phước luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đưa quy mô nền kinh tế tỉnh tăng lên nhanh chóng, nâng cao vị thế của nền kinh tế tỉnh Bình Phước trong vùng Đông Nam Bộ

Song song với việc lãnh đạo và chỉ đạo phát triển kinh tế, tỉnh ủy và chính quyền Bình Phước cũng rất coi trọng việc phát triển các lĩnh vực GD. Một trong những nhiệm vụ chính trị được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Phước lần thứ X (2023) là: “Đẩy mạnh thực hiện các lĩnh vực xã hội, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân”, trong đó, “tiếp tục ưu tiên phát triển GD-ĐT”. [14, tr.83] Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

2.1.2. Khái quát về tình hình GD-ĐT tỉnh Bình Phước

2.1.2.1. Khái quát chung về tình hình GD-ĐT tỉnh Bình Phước

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Phước lần thứ X (2023) đã nêu ra những nét khái quát nhất về tình hình GD-ĐT ở tỉnh Bình Phước giai đoạn 2018 – 2023 như sau [14]:

Về thành tựu: Sự nghiệp GD chuyển biến tích cực theo hướng nâng cao chất lượng GD toàn diện đi đôi với GD mũi nhọn, góp phần đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, BD nhân tài phục vụ phát triển KT-XH của tỉnh. Mạng lưới trường lớp, quy mô, chất lượng GD-ĐT tiếp tục phát triển ở các ngành học, cấp học,…vv.

Về hạn chế: Đội ngũ nhà giáo, CBQL còn thiếu về số lượng, chất lượng không đồng đều; CSVC phục vụ cho GD-ĐT còn thiếu…vv.

2.1.2.2. Tình hình chất lượng HSNK của tỉnh Bình Phước qua kỳ thi HSG các cấp

Tình hình chất lượng HSNK của tỉnh Bình Phước qua kỳ thi HSG cấp quốc gia trong 5 năm (từ năm 2021 đến năm 2025)

Qua bảng tổng hợp kết quả thi chọn HSGQG của tỉnh Bình Phước qua 5 năm (phụ lục 9) và biểu đồ 2.1, chúng tôi nhận thấy, số lượng HSNK của tỉnh Bình Phước đạt giải HSGQG trong 5 năm từ 2021 đến 2025 khá ổn định, tỷ lệ HSNK đạt giải đạt từ 60% đến 70% trên tổng số HSNK tham gia dự thi, cao hơn các tỉnh trong khu vực Đông Nam Bộ nhưng còn ít so với nhiều tỉnh miền Bắc và miền Trung, ví dụ: Năm 2024, thành phố Hà Nội đạt 659 giải, thành phố Hải Phòng đạt 401 giải, tỉnh Nghệ An đạt 391 giải, tỉnh Nam Định đạt 390 giải. Bên cạnh đó, Số lượng HS của tỉnh đạt giải Nhất, Nhì của còn thấp, trong 5 năm chỉ có 2 giải Nhất chiếm 0,9% trên tổng số giải. Điều này đòi hỏi ngành GD tỉnh Bình Phước cần có sự đầu tư nhiều hơn nữa cho HĐ BD HSNK.

  • Biểu đồ 2.1. Số lượng HSGQG của tỉnh Bình Phước qua các năm

Ngoài ra, chúng tôi còn thu nhận được thông tin, số lượng HS tỉnh Bình Phước đạt giải HSGQG hầu hết đều là các HS trường chuyên, chỉ có duy nhất 1 HS trường THPT không chuyên đạt giải HSGQG môn Toán năm 2021 và cả 6 trường được khảo sát, trong 5 năm gần đây đều không có HS đạt giải HSGQG. Qua phỏng vấn, tất cả 6 CBQL từ CB1 đến CB6 đều cho biết: “Tỉnh Bình Phước có dân số ít, khoảng cách về địa lý giữa các huyện thị trong tỉnh không quá lớn, do đó, hầu hết các HS có năng khiếu vượt trội đều dự thi và học ở 2 trường chuyên của tỉnh. Vì vậy nguồn HS xuất sắc ở các trường THPT không chuyên không còn nhiều, mặt khác khi HS ở các trường THPT không chuyên tham gia thi và được chọn vào đội tuyển dự thi HSGQG thì phải tập trung về các trường chuyên để GV dạy chuyên ôn luyện, GV ở các trường THPT không chuyên không được phân công, không được tạo điều kiện và cũng không có chế độ để thực hiện việc BD HSNK dự thi HSGQG, điều này là nguyên nhân dẫn đến việc các trường THPT không chuyên không có HSGQG”.

Tình hình chất lượng HSNK của tỉnh Bình Phước qua kỳ thi HSG cấp tỉnh trong 5 năm (từ năm 2020 đến năm 2024)

  • Biểu đồ 2.2. Số lượng HSG cấp tỉnh của Bình Phước qua các năm

Qua bảng thống kê kết quả thi chọn HSG cấp tỉnh Bình Phước qua 5 năm từ năm 2020 đến năm 2024 (phụ lục 10) và biểu đồ 2.2, chúng tôi nhận thấy, số lượng HS đạt giải HSG tỉnh Bình Phước trong 5 năm từ 2020 đến 2024 có sự gia tăng về tổng số giải và số giải Nhất. Điều này chứng tỏ ngành GD tỉnh Bình Phước cũng như các trường THPT trong tỉnh ngày càng quan tâm và đầu tư tốt hơn cho HĐ BD HSNK.

2.2 Tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

2.2.1. Đối với phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

2.2.1.1. Mẫu khảo sát

Tại tỉnh Bình Phước có 23 trường THPT (không tính các trường THPT chuyên, phổ thông Dân tộc nội trú, trường THCS&THPT, trung tâm Giáo dục Thường xuyên) và cơ bản được chia làm 3 cụm thi đua, mỗi cụm gồm một số trường có điều kiện tương đồng nhau về nguồn lực (đội ngũ (GV, HS), CSVC, …vv).

Để tìm hiểu thực trạng QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 3 nhóm đối tượng là CBQL (HT, PHT, TTCM, tổ phó chuyên môn), GV tham gia BD HSNK và HS tham gia các đội tuyển HSNK ở 6 trường THPT, trong mỗi trường được chọn, chúng tôi lại rút thăm ngẫu nhiên 20 CBQL, 30 GV và 25 HS. Cụ thể như sau:

Mẫu khảo sát được chọn theo kỹ thuật lấy mẫu “Phân tầng không theo tỷ lệ” [34, tr.29], 6 trường được chọn khảo sát là:

  • Cụm 1: Trường THPT Đồng Xoài (mã hóa: 1A), trường THPT Đồng Phú (mã hóa: 1B).
  • Cụm 2: Trường THPT Nguyễn Khuyến (mã hóa: 2A), trường THPT TX Phước Long (mã hóa: 2B).
  • Cụm 3: Trường THPT Thanh Hòa (mã hóa: 3A), trường THPT Nguyễn Huệ (mã hóa: 3B).

Mẫu khảo sát với đối tượng là CBQL gồm 120 người, với 20 CBQL đại diện cho mỗi đơn vị trường được chọn nghiên cứu. Trong mỗi đơn vị nghiên cứu, đảm bảo tỷ lệ về số lượng chức danh bao gồm: HT, PHT là 03 người; TTCM, Tổ phó chuyên môn là 17 người. (Phụ lục 6).

Mẫu khảo sát với đối tượng là GV gồm 180 người, với 30 GV đại diện cho mỗi đơn vị trường được chọn nghiên cứu. Trong mỗi đơn vị nghiên cứu, đảm bảo tỷ lệ về số môn có tham gia các kỳ thi HSG, HSNK. (Phụ lục 7).

Mẫu khảo sát với đối tượng là HS gồm 150 người, với 25 HS đại diện cho mỗi đơn vị trường được chọn nghiên cứu. Trong mỗi đơn vị nghiên cứu, đảm bảo tỷ lệ về số môn có tham gia các kỳ thi HSG, HSNK (Phụ lục 8).

2.2.1.2. Thiết kế bảng hỏi Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Để tìm hiểu thực trạng QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước, chúng tôi đã xây dựng bảng hỏi dựa trên cơ sở lý luận về HĐ BD HSNK đã được xây dựng ở chương I.

  • Bảng hỏi dành cho CBQL (phụ lục 1) gồm 12 câu hỏi, bao gồm 2 phần:

Phần I. Thực trạng về HĐ BD HSNK gồm 08 câu hỏi liên quan về: Tầm quan trọng, mục đích, nội dung, phương pháp và hình thức BD HSNK, cách thức tuyển chọn HSNK và các điều kiện đảm bảo cho HĐ BD HSNK

Phần II. Thực trạng QL HĐ BD HSNK gồm 3 câu hỏi liên quan về: Tầm quan trọng và mục đính QL HĐ BD HSNK, các nội dung QL HĐ BD HSNK (QL kế hoạch và chương trình BD HSNK, QL việc tuyển chọn HSNK, QL HĐ dạy BD HSNK của GV trên lớp, QL việc KTĐG kết quả học BD của HSNK, QL sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK, QL hoạt động đào tạo, BD cho GV tham gia BD HSNK, QL việc học BD của HSNK, QL một số yếu tố ảnh hưởng đến HĐ BD HSNK).

  • Bảng hỏi dành cho GV (phụ lục 2) gồm 15 câu hỏi, bao gồm 2 phần:

Phần I. Thực trạng về HĐ BD HSNK gồm 11 câu hỏi, trong đó có 8 câu hỏi như bảng hỏi đối với CBQL và thêm 3 câu hỏi liên quan đến: Thuận lợi, khó khăn trong HĐ BD HSNK, sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK.

Phần II. Thực trạng QL HĐ BD HSNK gồm 4 câu hỏi như bảng hỏi đối với CBQL.

Bảng hỏi dành cho HS (phụ lục 3) gồm 7 câu hỏi liên quan về: Lý do tham gia đội tuyển HSNK, ảnh hưởng của việc học BD đội tuyển HSNK đến việc học tập nói chung, sự quan tâm của gia đình đối với việc học BD HSNK, thời gian tự BD ở nhà, hình thức khen thưởng và sự thỏa đáng trong công tác khen thưởng đối với HS tham gia các đội tuyển HSNK, thời gian học BD tại trường.

2.2.1.3. Phương pháp xử lý số liệu thu được từ bảng hỏi

Trình tự xử lý: Sau khi thu phiếu trưng cầu ý kiến, chúng tôi tiến hành làm sạch dữ liệu, đánh số thứ tự các phiếu trưng cầu ý kiến và sử dụng phần mềm thống kê IBM SPSS 20.0 (Statistical Package for the Social Sciences) để xử lý số liệu, từ đó đánh giá, nhận xét và rút ra kết luận về thực trạng QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tỉnh Bình Phước.

Các chỉ số thống kê được sử dụng bao gồm: Bảng phân bố tần số (Frequencies), tỉ lệ phần trăm (%); trị trung bình (Mean) (TTB); độ lệch chuẩn (Std. Deviation) (ĐLC); số trung vị (Median); số yếu vị (Mode); hệ số tương quan tuyến tính Pearson (Rp); kiểm định trung bình (T-Test).

  • Về cách tính trị trung bình và ý nghĩa của trị trung bình:

Giá trị khoảng cách: (Maximum-Minimun)/n = 0,8. Đối với thang đo Likert bậc 5 sắp theo mức độ tăng dần: Điểm số được quy đổi theo thang bậc 5. Điểm thấp nhất là 1, cao nhất là 5 và chia làm 5 mức, theo đó ta có cách cho điểm như sau:

  • 1 điểm: Không thực hiện/ Không sử dụng/ Không quan tâm/ Không quan trọng/ Không thỏa đáng / Không học BD/ Ít hơn 20h/tuần/ Kém. Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.
  • 2 điểm: Ít thực hiện/ Ít sử dụng/ Ít quan tâm/ Ít quan trọng/ Ít thỏa đáng/ Học HD 1 buổi/tuần/ Từ 20-30h/tuần/ Yếu.
  • 3 điểm: Khá thường xuyên/ Khá quan tâm/ Khá quan trọng/ Khá thỏa đáng/ Học BD 2 buổi/tuần/ Từ 30-40h/tuần/ Trung bình.
  • 4 điểm: Thường xuyên/ Quan tâm/ Quan trọng/ Thỏa đáng/ Học BD 3 buổi/tuần/ Từ 40h/tuần trở lên/ Khá.
  • 5 điểm: Rất thường xuyên/ Rất quan tâm/ Rất quan trọng/ Rất thỏa đáng/ Học BD từ 3 buổi/tuần trở lên/ Không xác định/ Tốt

Thang đo trị trung bình và mức ý nghĩa cụ thể như sau:

Hệ số tương quan tuyến tính Pearson (Rp): Giá trị của Rp nằm trong [-1; +1]. Hệ số tương quan tuyến tính Pearson dùng để đo lường chiều hướng và độ mạnh của mối liên hệ tuyến tính giữa hai biến, cụ thể như sau:

  • Trường hợp 1: Tương quan thuận
  • Trường hợp 2: Tương quan nghịch
  • Trường hợp 3: Nếu giá trị Rp = 0 thì không có mối liên hệ tuyến tính nào giữa hai biến.

Kiểm định trị trung bình

  • Đặt giả thuyết:

H0: Không có sự khác biệt mang ý nghĩa về mặt thống kê trong việc đánh giá một chỉ tiêu nghiên cứu giữa hai hay nhiều nhóm đối tượng được khảo sát.

H1: Có sự khác biệt mang ý nghĩa về mặt thống kê trong việc đánh giá một chỉ tiêu nghiên cứu giữa hai hay nhiều nhóm đối tượng được khảo sát.

  • Kết quả:

Nếu giá trị Sig. (2-tailed) nhỏ hơn 0.05, ta bác bỏ H0 và chấp nhận H1. Nếu giá trị Sig. (2-tailed) lớn hơn hoặc bằng 0.05, ta chấp nhận H0.

  • Lưu ý:

Dùng kiểm định One-Way Anova kiểm tra sự khác biệt về mặt ý nghĩa trong việc đánh giá một chỉ tiêu nghiên cứu giữa 6 đơn vị trường được chọn khảo sát.

Dùng kiểm định Independent-samples T-test kiểm tra sự khác biệt về mặt ý nghĩa trong việc đánh giá một chỉ tiêu nghiên cứu giữa CBQL và GV.

2.2.2. Đối với phương pháp phỏng vấn Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

2.2.2.1. Mẫu khảo sát

Thực hiện phỏng vấn trên 2 nhóm đối tượng CBQL và GVBD HSNK. Mẫu khảo sát gồm 06 CBQL và 12 GVBD HSNK đang công tác ở 6 trường THPT đã được chọn nghiên cứu. Trong đó, mỗi trường chọn 01 CBQL là PHT phụ trách chuyên môn, 01 GVBD HSNK thuộc các môn KHTN và 01 GVBD HSNK thuộc các môn KHXH.

2.2.2.2. Thiết kế bộ câu hỏi phỏng vấn

Chúng tôi xây dựng bảng hỏi gồm 10 câu hỏi phỏng vấn các nội dung liên quan đến QL HĐ BD HSNK như: Việc phân cấp trong QL HĐ BD HSNK; QL kế hoạch và chương trình BD HSNK; QL việc tuyển chọn HSNK; QL giờ dạy HSNK của GV trên lớp; QL công tác đào tạo, BD cho GV tham gia BD HSNK; QL sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK; chế độ đãi ngộ đối với GV BD và HSNK; huy động nguồn lực đầu tư cho HĐ BD HSNK; CSVC, tài liệu phục vụ cho HĐ BD HSNK (phụ lục 4).

2.2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu phỏng vấn

Trình tự: Tác giả chọn mẫu, trực tiếp gặp, trao đổi, thu âm và ghi nhận dữ liệu, sau đó so sánh, đối chiếu để có những phân tích phù hợp với thực tế, làm rõ kết quả điều tra về thực trạng QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước.

Xử lý số liệu phỏng vấn: Chúng tôi mã hóa mẫu phỏng vấn của 6 CBQL theo thứ tự từ CB1 đến CB6 tương ứng với 6 CBQL thuộc 6 Trường 1A, 1B, 2A, 2B, 3A và Mã hóa mẫu phỏng vấn của 12 GV từ GV1 đến GV12, Trường 1A có 2 GV được phỏng vấn, mã hóa từ GV1-GV2; Trường 1B có 2GV được phỏng vấn, mã hóa từ GV3-GV4; Trường 2A có 2 GV được phỏng vấn, mã hóa từ GV5-GV6; Trường 2A có 2 GV được phỏng vấn, mã hóa từ GV7-GV8; Trường 3A có 2 GV được phỏng vấn, mã hóa từ GV9-GV10; Trường 3B có 2 GV được phỏng vấn, mã hóa từ GV11-GV12.

2.3. Thực trạng hoạt động bồi dưỡng học sinh năng khiếu ở một số trường THPT tỉnh Bình Phước Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

2.3.1. Thực trạng đội ngũ GV tham gia BD HSNK ở 6 trường khảo sát

  • Biểu đồ 2.3. Tỉ lệ % tuổi GV tham gia BD HSNK ở 6 trường khảo sát

Qua bảng thống kê tình hình đội ngũ GV tham gia BD các đội tuyển HSNK theo môn học ở 6 trường khảo sát (phụ lục 11) và biểu đồ 2.3, chúng tôi nhận thấy, xét về tuổi đời và kinh nghiệm giảng dạy, đội ngũ GVBD HSNK từ 30 đến 40 tuổi chiếm 84%, lực lượng GV này có độ tuổi vàng, có kinh nghiệm giảng dạy, đang trong giai đoạn phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp và có rất nhiều thuận lợi trong BD HSNK. Đây là thế mạnh của các trường được khảo sát về mặt nguồn nhân lực. Tuy nhiên, lực lượng GV có độ tuổi từ 41 đến 50, là lực lượng có nhiều kinh nghiệm, chín muồi trong chuyên môn lại có tỷ lệ tham gia BD HSNK ít (chỉ chiếm 12%) và đội ngũ GV trẻ (tuổi đời dưới 30) tham gia BD HSNK rất ít (chỉ chiếm 3%). Qua thực trạng trên, HT cần có biện pháp để phát huy thế mạnh của tất cả các thế hệ GV, cần có chính sách khuyến khích, vận động các GV có nhiều kinh nghiệm tham gia BD HSNK và có kế hoạch BD, đồng thời đào tạo lực lượng GV trẻ tham gia BD HSNK để tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả đội ngũ trong HĐ BD HSNK.

Xét về trình độ đào tạo, số GVBD HSNK đạt chuẩn 100% trong đó chỉ có 6% trên chuẩn, số GV tham gia BD HSNK môn Tiếng Anh đều được đào tạo chính quy và đạt chuẩn C1 theo khung năng lực Ngoại ngữ châu Âu. Kết quả trên đòi hỏi HT cần quan tâm nhiều đến công tác đào tạo, BD cho GV nói chung và cho GV tham gia BD HSNK nói riêng; cần có những biện pháp QL cụ thể, thiết thực, khả thi để nâng cao chất lượng đội ngũ.

2.3.2. Kết quả BD HSNK ở 6 trường khảo sát

  • Biểu đồ 2.4. So sánh số lượng HSG cấp tỉnh của các trường khảo sát qua các năm

Qua bảng thống số lượng HS đạt giải HSG cấp tỉnh các năm từ 2020 đến 2023 ở 6 trường khảo sát (phụ lục 12) và biểu đồ 2.4, chúng tôi nhận thấy, số lượng HS đạt giải HSG cấp tỉnh của 6 trường khảo sát có sự chênh lệch khá lớn. Trường 1A luôn dẫn đầu với số HS đạt giải ổn định và tăng dần mỗi năm; 5 trường còn lại có số lượng HS đạt giải HSG sắp xếp theo thứ tự giảm dần về thành tích là:

Trường 2A, 2B, 3A, 1B và 3B. Số liệu còn cho ta thấy được, số lượng HSG đạt giải của mỗi trường hàng năm cơ bản là không có sự thay đổi nhiều.

2.3.3. Nhận thức của CBQL, GV và HS về HĐ BD HSNK Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

  • Bảng 2.1. Nhận thức của CBQL và GV về tầm quan trọng của HĐ BD HSNK

Qua bảng 2.1 chúng tôi nhận thấy, có đến 299 CBQL và GV được khảo sát đánh giá HĐ BD HSNK ở trường THPT là “Quan trọng” và “Rất quan trọng” chiếm tỷ lệ 99,7% . Tuy nhiên, vẫn còn 0.3% đối tượng khảo sát cho rằng HĐ BD HSNK là “Ít quan trọng”. Với Trị trung bình đạt 4.54, cho thấy đội ngũ CBQL và GV đánh giá tầm quan trọng của HĐ BD HSNK ở mức “Rất quan trọng”. Hơn nữa, với ĐLC tương đối thấp (0.519) cho thấy đánh giá của đội ngũ CBQL và GV khá tập trung. Điều này tạo nên sự thuận lợi cho HT thực hiện công tác QL HĐ BD HSNK, đồng thời cũng thuận lợi cho việc nghiên cứu đề tài của tác giả.

Trong điều kiện GD tỉnh Bình Phước nói chung và HĐ BD HSNK nói riêng đang gặp rất nhiều khó khăn về đội ngũ, về điều kiện học tập, về CSVC; trong khi kết quả đạt được trong các kỳ thi HSGQG của tỉnh và kết quả đạt được của các trường THPT trong kỳ thi HSG cấp tỉnh còn khiêm tốn thì HT cần phải thường xuyên tác động đến nhận thức của CBQL, GV, HS và CMHS về tầm quan trọng của HĐ BD HSNK để tạo nên sự đồng thuận trong tập thể sư phạm, HS và CMHS cùng chung tay, góp sức nâng cao chất lượng BD HSNK của tỉnh nói chung và từng nhà trường nói riêng.

Bảng 2.2 dưới đây cho chúng tôi số liệu khảo sát nhận thức của CBQL và GV về mục đích HĐ BD HSNK, qua đó, chúng tôi nhận thấy, mục đích (5): Góp phần thực hiện công tác đào tạo nhân tài cho đất nước được CBQL và GV đánh giá cao nhất với 77,3%; mục đích (2): Động viên, khích lệ giáo viên nâng cao trình độ xếp thứ hai với 74.3% ý kiến; mục đích (1): Động viên, khích lệ học sinh của trường xếp thứ ba với 73.7% ý kiến; xếp thứ 4 là mục đích (4): Góp phần thúc đẩy việc cải tiến, nâng cao chất lượng dạy và học chiếm 67.3%. Kết quả trên thể hiện CBQL và GV đã nhận thức khá đầy đủ về mục đích của HĐ BD HSNK. Bên cạnh đó, vẫn còn 50% cho rằng HĐ BD HSNK nhằm đạt mục đích (6): Đáp ứng tiêu chí thi đua của Ngành và chỉ có 27.3% cho rằng HĐ BD HSNK nhằm góp phần thúc đẩy việc cải tiến công tác quản lý. Ngoài ra, còn có ý kiến cho rằng HĐ BD HSNK còn nhằm mục đích giúp HS phát huy năng khiếu, sở trường; giúp HS nâng cao điểm số thi THPTQG, định hướng nghề nghiệp cho HS…vv.

  • Bảng 2.2. Nhận thức của CBQL và GV về mục đích hoạt động BD HSNK

Nhận thức trên của CBQL và GV đòi hỏi HT nhà trường phải nâng cao hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến đến CBQL, GV, HS và CMHS về mục đích BD HSNK để CBQL, GV, HS và CMHS nhận thức đúng và biến nhận thức thành hành động để HĐ BD HSNK ở các trường THPT đạt được mục đích thực sự của nó. Hơn nữa, HT cần chú ý thông tin 73,4% CBGV được hỏi ý kiến cho rằng, thông qua HĐ BD HSNK GV được động viên, khích lệ nâng cao trình độ, điều này khẳng định thêm tầm quan trọng của HĐ BD HSNK trong việc góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ GV; từ đó, HT cần đẩy mạnh HĐ BD HSNK trong nhà trường nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ – giải pháp then chốt để chấn hưng giáo dục.

  • Bảng 2.3. Nhận thức của HS về HĐ BD HSNK Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Động cơ học tập đúng đắn sẽ góp phần quan trọng tạo nên thành tích thực sự của HS. Qua bảng số liệu 2.3, chúng tôi thấy, về động cơ tham gia đội tuyển HSNK, cơ bản HSNK có động cơ học tập đúng đắn, thể hiện qua số liệu: 90.0% ý kiến muốn mở rộng kiến thức; 49.5% ý kiến muốn được khen thưởng, có học bổng; 46.7% ý kiến muốn có thành tích cao trong các kỳ thi; 45.3% ý kiến muốn có được ưu tiên để xét tuyển, thi tuyển vào đại học. Bên cạnh đó, vẫn còn có 13.3% ý kiến HS tham gia đội tuyển với lý do không tích cực muốn được ưu tiên về điểm số trong các bài kiểm tra của các môn khác. Ngoài ra, HS còn nêu thêm vài lý do khác như: Bản thân yêu thích môn học, muốn khẳng định bản thân, muốn được ba mẹ thừa nhận, muốn được thử sức và cọ xát trước các kỳ thi,…vv. Qua số liệu phân tích, HT cần chỉ đạo GVBD quan tâm, tìm hiểu để xác định mục đích thực sự của các HS tham gia đội tuyển HSNK, từ đó, kịp thời có biện pháp cổ vũ, giáo dục HS có động cơ học tập đúng đắn nhằm nâng cao hiệu quả học BD của HSNK, đồng thời kịp thời phát hiện và uốn nắn, điều chỉnh những động cơ học tập chưa tích cực.

Với nội dung khảo sát về ảnh hưởng của việc học BD HSNK tới việc học tập nói chung, đa số HSNK có ý kiến cho rằng việc học BD HSNK có ảnh hưởng tốt, thể hiện qua các số liệu: 74,0% ý kiến cho rằng việc học BD HSNK giúp các em có điều kiện tìm hiểu sâu rộng kiến thức một môn học; 66% ý kiến cho rằng học BD HSNK giúp phát huy năng lực học tập, năng khiếu của cá nhân. Bên cạnh đó, cũng có những ý kiến cho rằng việc học BD HSNK mất nhiều thời gian và công sức cho việc học tập (18,0%) và 22.1% cho rằng tham gia vào các đội tuyển HSNK thì sẽ học lệch, có thể thi trượt đại học. Ngoài ra, còn có những ý kiến khác như: Được nhà trường và các thầy cô quan tâm tạo nên động lực học tập tốt hơn; áp lực, căng thẳng, khó sắp xếp và cân đối thời gian giữa các môn học; …vv.

Tìm hiểu mức độ quan tâm của gia đình đến việc học BD của HSNK, với TTB 3.8 cho chúng tôi thấy, HS đánh giá sự quan tâm của gia đình đến việc học BD của HS ở mức “Quan tâm” và quan sát đồ thị hình 2.1 có dạng hình chuông nhọn với đỉnh hơi nghiêng về bên phải cho chúng ta thấy đa số các gia đình.

Hình 2.1: Mức độ quan tâm của gia đình đến việc học BD HSNK của HS

  • “Quan tâm” và “Rất quan tâm” đến việc học BD HSNK của HS. Bên cạnh đó, vẫn có những gia đình chỉ
  • “Khá quan tâm”, “Ít quan tâm”, thậm chí “Không quan tâm” đến việc học BD của HSNK.

Như vậy, hầu hết CBQL, GV đều nhận thức đúng về vị trí, tầm quan trọng và mục đích của HĐ BD HSNK trong nhà trường. Đa số HS có động cơ đúng đắn khi tham gia các đội tuyển HSNK và hầu hết các gia đình HS đều quan tâm đến việc học BD của HSNK. Bên cạnh đó, vẫn còn GV, HS chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc về HĐ BD HSNK còn cho rằng HĐ này “Ít quan trọng” và còn vì mục đích chạy theo thành tích hoặc đáp ứng các tiêu chí thi đua; một số ít HS còn xác định động cơ học tập chưa đúng đắn (vào đội tuyển để được ưu tiên về điểm số); nhiều học sinh cảm thấy áp lực về mặt thời gian, còn học lệch, chưa pháp triển toàn diện và cũng có những gia đình học sinh chưa quan tâm đến việc học BD của HSNK. Trước thực trạng trên, đòi hỏi HT phải có biện pháp nâng cao hơn nữa nhận thức của CB, GV, HS và CMHS về HĐ BD HSNK, đồng thời, cần có biện pháp để giảm áp lực cho HS về mặt thời gian.

2.3.4. Mức độ thực hiện và hiệu quả đạt được của nội dung, phương pháp, hình thức BD HSNK Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

2.3.4.1 Mức độ thực hiện và kết quả đạt được của các nội dung BD HSNK

Bảng 2.4. Đánh giá của GV về các nội dung BD HSNK

Qua bảng số liệu 2.4, chúng tôi nhận thấy, các nội dung BD HSNK đều được đánh giá ở mức thực hiện “Thường xuyên” với TTB từ 3.73 đến 4.09, hiệu quả đạt được tương ứng cũng được được đánh giá ở mức “Khá” với TTB từ 3.62 đến 3.80, trong đó, nội dung được đánh giá thực hiện nhiều nhất và kết quả đạt được cao nhất là nội dung (2): Nâng cao kiến thức; nội dung được đánh giá thấp nhất là nội dung

  • (1): Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức.

Như vậy, các nội dung BD HSNK đã được các trường triển khai thực hiện “Thường xuyên” và kết quả đạt được ở mức “Khá”. Tuy nhiên, HT cần quan tâm hơn nữa đến việc hoàn thiện nội dung, chương trình BD HSNK để phát triển toàn diện nhân cách cho HSNK.

2.3.4.2. Mức độ sử dụng và hiệu quả đạt được của các phương pháp bồi dưỡng HSNK

  • Bảng 2.5. Đánh giá của GV về phương pháp BD HSNK

Qua bảng số liệu 2.5. Qua đó, chúng tôi nhận thấy, đa số các phương pháp BD HSNK được hỏi ý kiến đều được GV đánh giá sử dụng ở mức “Thường xuyên” và hiệu quả đạt được ở mức “Khá”, dẫn đầu là phương pháp (3): Sử dụng KTĐG để theo dõi sự tiến bộ của HS. Riêng phương pháp (1): Phương pháp dạy học tích cực để kích thích tư duy của HS chỉ được các GV đánh giá ở mức sử dụng “Khá thường xuyên” (TTB 3.38) và hiệu quả đạt được ở mức “Trung bình” (TTB 2.98).

Như vậy, GVBD HSNK đã sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học. Tuy nhiên, phương pháp dạy học tích cực (một trong những phương pháp hiệu quả nhất để dạy HSNK) chưa được các GV sử dụng thường xuyên và hiệu quả đạt được còn hạn chế, điều này dẫn đến hiệu quả giờ dạy BD HSNK của GV chưa cao, chưa kích thích được khả năng đặc biệt của HSNK đó là phát hiện vấn đề, tự học và tự nghiên cứu. Vì vậy, HT cần tổ chức tập huấn GV về các PPDH tích cực nhằm kích thích tư duy HS và GV cần tăng cường hướng dẫn, kiểm tra việc tự học, tự nghiên cứu của HS/nhóm HS.

2.3.4.3. Mức độ sử dụng và kết quả đạt được của các hình thức BD HSNK

  • Bảng 2.6. Đánh giá của GV về hình thức BD HSNK Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Qua bảng số liệu 2.6, chúng tôi nhận thấy, hình thức được GV đánh giá sử dụng nhiều nhất và hiệu quả đạt được cao nhất trong việc BD HSNK là hình thức (2): Bồi dưỡng riêng cho nhóm HS đội tuyển theo chuyên đề nâng cao với đánh giá ở mức thực hiện “Thường xuyên” (TTB: 3.94) và hiệu quả đạt được ở mức “Khá” (TTB: 3.82); các hình thức khác chỉ được đánh giá thực hiện ở mức “Khá thường xuyên” và hiệu quả đạt được “Trung bình”, trong đó hình thức (3): Bồi dưỡng theo các hình thức bổ trợ (theo các câu lạc bộ; các cuộc thi qua mạng; các cuộc thi sáng tạo, thực hiện ước mơ,…) được đánh giá thấp nhất.

Như vậy, bên cạnh hình thức Bồi dưỡng riêng cho nhóm HS đội tuyển theo chuyên đề nâng cao được sử dụng “Thường xuyên” và hiệu quả “Khá”, thì GV cũng đã sử dụng các hình thức BD HSNK khác như Lưu ý đến HSNK trong các giờ học chính khóa (giờ học tại những lớp học bình thường) Bồi dưỡng theo các hình thức bổ trợ. Tuy nhiên, các hình thức này không được thực hiện thường xuyên và hiệu quả đạt được chưa cao. Đây là hạn chế trong HĐ BD HSNK hiện nay, bởi vì, thời gian HSNK học trên lớp chính khóa chiếm rất nhiều trong quỹ thời gian học tập của các em, kiến thức được trang bị trong các giờ học chính khóa là gốc rễ của mọi nguồn tri thức làm nền tảng cho HS tiếp tục BD, nâng cao; hơn nữa, thời đại ngày nay đang là thời đại của công nghệ thông tin, hội nhập, do đó có rất nhiều hình thức học tập hiện đại thông qua các câu lạc bộ, các diễn đàn, các cuộc thi trực tuyến,…vv. Thông qua những hình thức này HSNK sẽ có cơ hội tự học, tự BD mọi lúc mọi nơi nhằm giảm áp lực về mặt thời gian. Trước thực trạng trên, đòi hỏi HT cần chỉ đạo các TCM, GV đa dạng hóa các hình thức BD HSNK, thực hiện phân công chuyên môn hợp lý để GVBD có thể trực tiếp dạy HSNK ở các lớp chính khóa, từ đó có điều kiện theo dõi và BD các em ngay trong các tiết dạy chính khóa; đồng thời HT cần quan tâm tổ chức các câu lạc bộ học thuật để GV, HS có thể trao đổi, chia sẻ, học tập và nghiên cứu; chỉ đạo GV thực hiện tự BD thông qua việc học tập và trao đổi tại các câu lạc bộ học thuật, các diễn đàn giáo dục trên internet và tạp chí chuyên ngành, qua đó hướng dẫn HSNK cùng tham gia tự học, tự BD.

2.3.5. Thực trạng việc phát hiện và tuyển chọn HSNK

Thực trạng việc phát hiện và tuyển chọn HSNK ở các trường THPT tỉnh Bình Phước được thể hiện tại bảng 2.7, qua đó, chúng tôi nhận thấy: Các trường thực hiện tuyển chọn HSNK bằng nhiều hình thức, trong đó hình thức (2): Tuyển chọn thông qua thi tuyển, hình thức (3): GVBM phát hiện, sau đó động viên, khuyến khích học sinh tham gia thi tuyển để thành lập đội tuyển và hình thức (4): Kiểm tra chất lượng đội tuyển để chọn lọc, bổ sung đội tuyển được đánh giá ở mức “Thường xuyên” (TTB lần lượt là 3.86, 3.84, 3.65) và hiệu quả đạt được ở mức “Khá” (TTB lần lượt là 3.92, 3.84, 3.72). Hình thức (1): GVBM trực tiếp phát hiện và đưa vào đội tuyển không qua thi tuyển được đánh giá ở mức “Ít thực hiện”; Tuy nhiên, số liệu khảo sát còn cho thấy, 7.3% CBQL và GV được hỏi cho rằng hình thức (1) được thực hiện Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

“Thường xuyên”, đây là một hạn chế trong việc tuyển chọn HSNK vì sử dụng hình thức (1) thể hiện sự chủ quan của GVBM trong việc tuyển chọn HSNK, thiếu tính cạnh trạnh giữa các HS dẫn đến chất lượng đội tuyển chưa đảm bảo.

  • Bảng 2.7. Đánh giá của CBQL và GV về hình thức phát hiện và tuyển chọn HSNK

Tìm hiểu sâu hơn về hình thức (2): Tuyển chọn thông qua thi tuyển, với ĐLC là 0.901, chúng tôi nhận thấy có sự phân tán lớn trong đánh giá. Để kiểm tra sự phân tán, chúng tôi kiểm tra TTB ở mỗi trường và nhận thấy: Trường 1A, 2A, 2B đánh giá ở mức thực hiện “Rất thường xuyên” với TTB lần lượt là 4.74, 4.54 và 4.38; trường 3A đánh giá ở mức thực hiện “Thường xuyên” với TTB 3.50; các Trường 1B, 3B chỉ đánh giá ở mức “Khá thường xuyên” với TTB lần lượt là 3.02 và 2.98 (phụ lục 13a). Thực hiện kiểm định T-test Way Anova để kiểm tra sự khác biệt giữa các trường là có ý nghĩa hay không có ý nghĩa thống kê, chúng tôi nhận được kết quả ở phụ lục 13b, cụ thể là: Có sự khác biệt giữa Trường 1A với các Trường 1B, 3A, 3B; giữa Trường 1B với các Trường 2A, 2B, 3A; giữa Trường 2A với các trường 3A, 3B; giữa Trường 2B với các Trường 3A, 3B và giữa Trường 3A với trường 3B.

Kết quả kiểm định mối tương quan giữa mức độ thực hiện và hiệu quả đạt được của nội dung (2), với hệ số tương quan Rp = 0.834, ta thấy có mối tương quan thuận rất cao giữa mức độ thực hiện và hiệu quả đạt được của việc tổ chức tuyển chọn HSNK thông qua thi tuyển.

Như vậy, các trường THPT tỉnh Bình Phước đã thực hiện tuyển chọn HSNK tham gia các đội tuyển, tuy nhiên việc lựa chọn hình thức và mức độ thực hiện ở các trường có sự khác biệt khá nhiều. Kết hợp với kết quả đạt được trong các kỳ thi HSG cấp tỉnh, chúng tôi thấy rằng, các trường thực hiện nghiêm túc việc thi tuyển để chọn HSNK đều có có kết quả HSG tốt hơn và ngược lại. Từ thực tế trên, yêu cầu các HT cần xác định sự cần thiết trong việc tổ chức thi tuyển để tuyển chọn HSNK, đồng thời đội tuyển cần thường xuyên được kiểm tra, sàng lọc, từ đó, chỉ đạo bộ phận khảo thí trong nhà trường xây dựng kế hoạch tuyển chọn HSNK nhằm chọn được những đội tuyển tốt nhất cho quá trình BD.

2.3.6. Thực trạng cơ sở vật chất đáp ứng cho HĐ BD HSNK

  • Bảng 2.8. Đánh giá của CBQL và GV về CSVC đáp ứng cho HĐ BD HSNK

Qua bảng số liệu trên ta thấy, chỉ có 2 yếu tố cơ sở vật chất lớp học phòng bộ môn, phòng Lap, phòng vi tính được đánh giá ở mức “Khá” với TTB lần lượt là 3.57 và 3.41, còn lại các yếu tố khác như sách tham khảo, tài liệu; thiết bị dạy học đều chỉ được đánh giá ở mức “Trung bình”. Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Khi được phỏng vấn, các GV3, GV4, GV9, GV10, GV11 và GV12 đều cho chúng tôi biết: “Nhà trường không có sự đầu tư CSVC riêng cho BD HSNK, việc BD HSNK được thực hiện tại các phòng học của những lớp học chính khóa với những CSVC được phục vụ chung cho tất các hoạt động của nhà trường”, riêng GV1, GV2 và GV6 cho biết: “Việc BD HSNK được thực hiện tại các phòng bộ môn, tại đó có một số thiết bị được đầu tư riêng cho HĐ BD HSNK như bảng tương tác. Sách tham khảo sử dụng cho HĐ BD HSNK được nhà trường bổ sung thường xuyên theo đề nghị của các TCM”, ngoài ra, GV1 còn cho biết thêm: “GVBD và HSNK còn được hỗ trợ kinh phí cho việc photo tài liệu tham khảo, được hỗ trợ nước uống trong các buổi BD tại trường”.

Như vậy, việc đầu tư CSVC cho HĐ BD HSNK chưa được quan tâm đúng mức, mới cơ bản đảm bảo những nhu cầu thiết yếu như các hoạt động khác trong nhà trường; sự đầu tư về CSVC cho HĐ BD HSNK trong mỗi nhà trường cũng có sự khác biệt đáng kể. Từ thực trạng trên, HT các nhà trường cần chú trọng tới việc đầu tư mua sắm thêm CSVC, trang thiết bị, tài liệu tham khảo để tạo điều kiện tốt nhất cho HĐ BD HSNK.

2.4. Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng học sinh năng khiếu ở các trường THPT tỉnh Bình Phước

2.4.1 Nhận thức của CBQL và GV về tầm quan trọng và mục đích quản lý hoạt động bồi dưỡng học sinh năng khiếu

  • Bảng 2.9a. Nhận thức của CBQL và GV về tầm quan trọng của QL HĐ BD HSNK

Qua bảng 2.9a, ta thấy, có đến 296 CBQL và GV được khảo sát đánh giá QL HĐ BD HSNK ở trường THPT là “Quan trọng” và “Rất quan trọng” chiếm tỷ lệ 98,7% . Trị trung bình đạt 4.54 cho thấy đội ngũ CBQL và GV đánh giá tầm quan trọng của công tác QL HĐ BD HSNK ở mức “Rất quan trọng”. Hơn nữa, với độ lệch chuẩn tương đối thấp (0.525) cho thấy đánh giá của đội ngũ CBQL và GV khá tập trung.

  • Bảng 2.9b. Nhận thức của CBQL và GV về mục đích QL HĐ BD HSNK

Qua bảng số liệu 2.9b, chúng tôi nhận thấy, mục đích (2) Nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn trong nhà trường được đánh giá cao nhất với 85.2% ý kiến đồng ý; mục đích (1): Đạt mục tiêu của trường về HĐ BD HSNK được 67.4% CBQL và GV lựa chọn; 52.7% ý kiến cho rằng QL HĐ BD HSNK nhằm mục đích (3): Nâng cao chất lượng giáo toàn diện trong nhà trường. Số liệu trên thể hiện CBQL và GV đã nhận thức tương đối đầy đủ về mục đích QL HĐ BD HSNK. Tuy nhiên, vẫn còn 59.7% cho rằng QL HĐ BD HSNK nhằm đạt mục đích (4): Đáp ứng tiêu chí thi đua của ngành.

Như vậy, hầu hết CBQL và GV đã nhận thức tương đối đầy đủ về vị trí, tầm quan trọng và mục đích QL HĐ BD HSNK. Bên cạnh đó, vẫn còn những suy nghĩ, nhận thức lệch lạc, mang tính chất tiêu cực làm ảnh hưởng tới hiệu quả QL HĐ BD HSNK. Vì vậy, HT cần có biện pháp để CBQL, GV nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về vị trí, tầm quan trọng, mục đích QL HĐ BD HSNK. Từ đó, họ sẽ thống nhất, cùng nhau cố gắng để góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả QL HĐ BD HSNK.

2.4.2. Thực trạng quản lý kế hoạch và chương trình BD HSNK Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Qua bảng số liệu 2.10, chúng tôi nhận thấy, các nội dung quản lý kế hoạch và chương trình BD HSNK đều được đánh giá chưa cao, chủ yếu tập trung ở mức độ thực hiện “Thường xuyên” và “Khá thường xuyên”; hiệu quả đạt được cũng chỉ được đánh giá ở mức “Trung bình” và “Khá”.

  • Bảng 2.10. Đánh giá của CBQL và GV về các nội dung QL kế hoạch và chương trình BD HSNK

Về mức độ thực hiện, các nội dung (1): HT thành lập Ban chỉ đạo xây dựng kế hoạch, nội dung, chương trình BD HSNK; nội dung (5): BGH duyệt kế hoạch, chương trình BD HSNK của các TCM và nội dung (6): BGH, TTCM kiểm tra việc thực hiện kế hoạch, chương trình, giáo án BD HSNK của các TCM và GV BD chỉ được đánh giá ở mức “Khá thường xuyên”; nội dung (2): PHT xây dựng kế hoạch HĐ BD HSNK toàn trường; nội dung (3): TTCM xây dựng kế hoạch, chương trình BD HSG của các TCM và nội dung (4): TCM chỉ đạo, hướng dẫn GVBD xây dựng kế hoạch, chương trình và giáo án dạy BD HSNK được đánh giá ở mức “Thường xuyên”.

Về hiệu quả đạt được, đa số các nội dung được đánh giá ở mức “Khá” với TTB từ 3.42 đến 3.70; riêng nội dung (6): BGH, TTCM kiểm tra việc thực hiện kế hoạch, chương trình, giáo án BD HSNK của các TCM và GVBD chỉ được đánh giá ở mức “Trung bình”.

TTB của CBQL và GV có sự chênh lệch không đáng kể, và bằng kiểm định T-test Independent-samples với giá trị Sig. (2-tailed) đều lớn hơn 0.05, cho thấy không có sự khác biệt trong đánh giá giữa đội ngũ CBQL và GV.

Nghiên cứu sâu hơn về nội dung (1), chúng tôi kiểm định mối tương quan giữa mức độ thực hiện và hiệu quả đạt được, kết quả phân tích tương quan (Rp=0.849) cho thấy, có mối tương quan thuận rất cao giữa mức độ thực hiện và hiệu quả đạt được của nội dung (1). Quan sát TTB hiệu quả đạt được nội dung (1) giữa các trường khảo sát tại phụ lục 14a, chúng tôi nhận thấy; Trường 1A được đánh giá ở mức “Tốt” với TTB 4.56, các Trường 2A, 3A được đánh giá ở mức “Khá” với TTB lần lượt là 3.50 và 3.64; Trường 1B, 2B được đánh giá ở mức “Trung bình” và Trường 3B chỉ được đánh giá ở mức “Yếu”. Sử dụng kiểm định T-test Way Anova để kiểm tra sự khác biệt, kết quả thu được cho thấy sự khác biệt giữa Trường 1A với tất cả các trường còn lại; giữa Trường 1B với các Trường 3A, 3B; giữa Trường 2A với Trường 3B; giữa Trường 2B với Trường 3B và giữa Trường 3A với Trường 3B là có ý nghĩa thống kê. (Kết quả chi tiết được thể hiện tại phụ lục 14b).

Qua phỏng vấn, CB1 và CB3 cho biết: “HT rất quan tâm đến việc QL kế hoạch và chương trình bồi dưỡng HSNK, ban chỉ đạo xây dựng kế hoạch và chương trình BD HSNK được thành lập vào đầu năm học và các thành viên trong ban được phân công nhiệm vụ rất cụ thể trong việc xây dựng kế hoạch, ban hành các quy định liên quan đến HĐ BD HSNK, tổ chức triển khai, khuyến khích, hướng dẫn và kiểm tra việc xây dựng kế hoạch, chương trình BD HSNK trong nhà trường. Tuy nhiên, còn chưa kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện kế hoạch và chương trình BD HSNK”, trong khi đó, CB2, CB4, CB5 và CB6 lại cho biết: “HT ít khi thành lập ban chỉ đạo xây dựng chương trình và kế hoạch BD HSNK; kế hoạch BD HSNK chỉ được nhắc đến trong kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học như những nhiệm vụ chuyên môn khác; việc xây dựng chương trình BD HSNK thường giao cho TCM và GVBD, BGH rất ít khi kiểm tra, ký duyệt kế hoạch cũng như chương trình BD HSNK của TCM và đồng thời ít khi kiểm tra việc thực thực hiện kế hoạch, chương trình của GVBD bởi vì cho rằng GVBD chuyên môn giỏi và có ý thức tự giác cao nên sẽ tự giác thực hiện nhiệm vụ”. Các GV2, GV3, GV9 và GV10 cho biết: “Nhà trường giao cho TCM xây dựng kế hoạch, chương trình BD HSNK và triển khai tới GVBD để thực hiện”, trong khi đó, GV12 cho biết: “Nhà trường không có chương trình BD HSNK, GVBD HSNK hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn nội dung bồi dưỡng”. Điều này cho thấy, việc phân cấp QL và thực hiện QL kế hoạch và chương trình BD HSNK của HT các trường chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ.

Như vậy, nội dung QL kế hoạch và chương trình BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước đã đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên, còn bộc lộ khá nhiều hạn chế, bất cập, có sự chênh lệch lớn trong QL giữa các trường trong tỉnh. So sánh với kết quả HS đạt giải HSG trong 5 năm qua của các trường khảo sát đã thống kê ở trên, có thể thấy, các trường thực hiện tốt hơn nội dung QL kế hoạch và chương trình BD HSNK đều có số lượng HS đạt giải HSG nhiều hơn, đặc biệt điều này càng thể hiện rõ nét giữa 2 trường có điều kiện tương đồng nhau ở cùng 1 cụm thi đua như Trường 1A và Trường 1B, Trường 2A và Trường 2B, Trường 3A và Trường 3B. Từ thực trạng trên, đòi hỏi HT các trường cần phải có biện pháp nâng cao hiệu quả QL kế hoạch và chương trình BD HSNK, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến biện pháp thành lập ban chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch BD HSNK và đảm bảo hiệu quả HĐ của ban. Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

2.4.3. Thực trạng quản lý việc tuyển chọn HSNK

Đánh giá của CBQL và GV về mức độ thực hiện và hiệu quả đạt được của việc tuyển chọn HSNK được thể hiện tại bảng số liệu 2.11. Qua đó, chúng tôi nhận thấy:

Về mức độ thực hiện, chỉ có nội dung(3): TTCM triển khai đến GV để GV giới thiệu các HS có năng khiếu BGH ra quyết định thành lập các đội tuyển HSNK và nội dung (6): BGH ra quyết định thành lập các đội tuyển HSNK được đánh giá ở mức “Thường xuyên”, các nội dung còn lại đều được đánh giá ở mức “Khá thường xuyên”. Đặc biệt, nội dung (4): Thành lập hội đồng và tổ chức thi tuyển cho các HS được giới thiệu được đánh giá thấp nhất với TTB 3.11, nội dung (1): BGH lập kế hoạch tuyển chọn HSG cũng chỉ được đánh giá thấp thứ hai với TTB 3.21.

  • Bảng 2.11. Đánh giá của CBQL và GV về các nội dung QL việc tuyển chọn HSNK

Về hiệu quả đạt được, đa số các nội dung được đánh giá ở mức “Khá” với TTB từ 3.42 đến 3.68; riêng nội dung(1): BGH lập kế hoạch tuyển chọn HSNK và Thành lập hội đồng và nội dung(4): Tổ chức thi tuyển cho các HS được giới thiệu chỉ được đánh giá ở mức “Trung bình” với TTB lần lượt là 3.22 và 3.30.

Qua phỏng vấn, chúng tôi nhận được thêm các thông tin sau: CB3, CB4 và CB5 đều cho biết: “Nhà trường lập kế hoạch tuyển chọn HSNK vào đầu năm học lớp 10 và tổ chức thi tuyển tất cả các môn trong 1 buổi nên 1 HS chỉ có thể tham gia thi tuyển ở một môn”; CB1 thì cho biết: “Vào đầu mỗi năm học, nhà trường đều xây dựng kế hoạch tuyển chọn HSNK trong đó quy định rõ các vấn đề liên quan đến thành lập đội tuyển như thời gian thi tuyển, hình thức thi tuyển, quy định số lượng HS trong một đội tuyển,chỉ đạo các TCM phát hiện, vận động, giới thiệu HS có năng khiếu…vv. Hơn nữa việc tổ chức thi tuyển được thực hiện riêng biệt cho mỗi môn, 1 HS có thể tham gia thi tuyển ở tất cả các môn mà các em yêu thích và có năng khiếu”; trong khi đó, CB2 và CB6 lại cho biết: “Nhà trường ít khi thậm chí không lập kế hoạch tuyển chọn HSNK và không tổ chức thi chọn đội tuyển HSNK, việc này giao hoàn toàn cho TCM thực hiện”; Qua mỗi học kỳ, nhà trường tổ chức kiểm tra chất lượng đội tuyển để chọn lọc và bổ sung đội tuyển”. Tìm hiểu thêm, GV1, GV2, GV5, GV6, GV7 và GV8 cho chúng tôi biết: “Việc phát hiện và giới thiệu HSNK được các TCM quan tâm từ rất sớm, ngay khi có danh sách HS trúng tuyển vào lớp 10 của trường, nhà trường đã thu thập những thông tin liên quan đến việc phát hiện HSNK, qua đó GV thực hiện vận động và định hướng HS tham gia thi tuyển ở những môn phù hợp”. Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Như vậy, công tác QL việc phát hiện và tuyển chọn HSNK còn thiếu đồng bộ giữa các trường; việc xây dựng kế hoạch tuyển chọn HSNK và thành lập hội đồng để tổ chức thi chọn đội tuyển HSNK chưa được quan tâm đúng mức. So sánh với kết quả HSG đã khảo sát ở trên, chúng tôi thấy các trường thực hiện tốt hơn nội dung QL việc tuyển chọn HSNK đều có kết quả HSG tốt hơn, đặc biệt điều này càng thể hiện rõ nét giữa 2 trường có điều kiện tương đồng nhau ở cùng 1 cụm thi đua như Trường 1A và Trường 1B, Trường 3A và Trường 3B. Từ thực trạng trên, đòi hỏi HT các trường cần phải có biện pháp QL tốt công tác tuyển chọn HSNK và đặc biệt quan tâm đến khâu lập kế hoạch tuyển chọn, thành lập hội đồng tổ chức thi tuyển và ra quyết định thành lập các đội tuyển HSNK.

2.4.4. Thực trạng quản lý giờ dạy HSNK của GV trên lớp

Kết quả khảo sát tại bảng 2.12 dưới đây cho thấy, các nội dung QL giờ dạy HSNK của GV trên lớp được đánh giá ở mức rất thấp.

Về mức độ thực hiện, chỉ được đánh giá ở mức “Ít thực hiện” và “Khá thường xuyên”, trong đó, nội dung (3): BGH tổ chức dự giờ, phân tích giờ dạy HSNK và nội dung (4): Xử lý việc thực hiện không đúng yêu cầu giờ lên lớp của GV chỉ được đánh giá ở mức “Ít thực hiện”.

Về kết quả đạt được, nội dung (3) chỉ được đánh giá ở mức “Yếu”, các nội dung khác được đánh giá ở mức “Trung Bình”.

Bảng 2.12. Đánh giá của CBQL và GV về các nội dung QL giờ dạy HSNK của GV trên lớp

Nghiên cứu sâu nội dung (1): HT phân công PHT xây dựng TKB cho các lớp BD HSNK, chúng tôi kiểm định mối tương quan giữa mức độ thực hiện và hiệu quả đạt được, kết quả hệ số tương quan là 0.804 chứng tỏ có mối liên hệ theo chiều thuận rất chặt chẽ giữa mức độ thực hiện và kết quả đạt được của việc thực hiện và kết quả đạt được trong việc xếp TKB BD HSNK. Xét về mức độ thực hiện nội dung (1), ta thấy ĐLC là 1.324 khẳng định có sự phân tán rất lớn trong đánh giá. Để rõ hơn, chúng tôi kiểm tra TTB của các trường tại phụ lục 15a và nhận được kết quả: Trường 1A, 2A được đánh giá ở mức “Rất thường xuyên” với TTB lần lượt là 4.34 và 4.32; Trường 2B được đánh giá ở mức “Thường xuyên”; Trường 1B, 3A được đánh giá ở mức “Ít thực hiện” và Trường 3B được đánh giá ở mức “Không thực hiện”; sử dụng kiểm định T-test Anova way chúng tối nhận thấy sự khác biệt giữa Trường 1A, 2A với các Trường 1B, 2B, 3A, 3B; giữa Trường 1B, 2B, 3A, 3B với tất cả các trường khác là có ý nghĩa thống kê (Kết quả chi tiết được thể hiện tại phụ lục 15b). Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Phỏng vấn CBQL và GV về nội dung dự giờ tiết dạy BD HSNNK, chúng tôi nhận được các thông tin sau: CB1, CB3 và CB4 cho biết: “BGH rất ít khi dự giờ tiết dạy BD HSNK”; CB2, CB5, CB6 cho biết: “BGH và TCM không thực hiện dự giờ tiết dạy BD HSNK”, riêng CB5 cho biết thêm: “Thỉnh thoảng có dự giờ dạy BD HSNK đúng chuyên môn được đào tạo vì sắp xếp cho dạy BD HSNK ngay trong phòng làm việc của CB5”, GV1, GV6 cho biết: “Thỉnh thoảng các GVBD trong cùng 1 nhóm tự dự giờ nhau để học tập kinh nghiệm”.

Như vậy, nội dung QL HĐ giờ dạy BD HSNK của GV trên lớp đã được HT các trường THPT tỉnh Bình Phước thực hiện, một số trường đã làm rất tốt nội dung xếp TKB cho các lớp BD HSNK. Bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế như: Một số trường chưa sắp xếp TKB dạy BD HSNK, giao toàn bộ cho TCM và GV tự bố trí, không kiểm tra việc dạy BD của GV và hầu hết các trường đều chưa quan tâm đến nội dung dự giờ, phân tích giờ dạy BD HSNK. Thực tế ở tỉnh Bình Phước, hầu hết các trường THPT đều tổ chức dạy học 2 buổi/ngày tại trường (Buổi sáng học theo chương trình chính khóa, buổi chiều dạy thêm học thêm ôn thi THPT Quốc gia). Số phòng học của các trường cơ bản chỉ đủ đảm bảo cho các lớp học chính khóa và dạy thêm. Vì vậy, nếu HT không quan tâm đến công tác QL giờ dạy HSNK, không xếp TKB BD HSNK thì chắc chắn GVBD và HSNK sẽ hết sức khó khăn trong việc bố trí thời gian cũng như địa điểm để BD HSNK, dẫn đến kết quả BD HSNK sẽ không đạt yêu cầu. Kết hợp với thống kê kết quả đạt được về số lượng HSG cấp tỉnh của các trường khảo sát, một lần nữa chúng tôi thấy, các trường có kết quả BD HSNK cao hơn đều quan tâm bố trí tốt lịch BD HSNK và có thực hiện việc dự giờ, phân tích giờ dạy BD HSNK. Qua thực trạng trên, yêu cầu HT các trường cần có biện pháp QL giờ dạy BD HSNK tốt hơn, đặc biệt chú ý tới việc xếp TKB dạy BD HSNK và thực hiện dự giờ, phân tích tiết dạy BD HSNK, trong đó phải chú trọng đến việc đổi mới phương pháp dạy học của GV đảm bảo phù hợp với đối tượng HSNK nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy BD HSNK của GV trên lớp.

2.4.5. Thực trạng quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học bồi dưỡng của HSNK Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Bảng 2.13. Đánh giá của CBQL và GV về các nội dung QL HĐ KTĐG kết quả học BD của HSNK

Qua bảng số liệu 2.13, chúng tôi nhận thấy: Về mức độ thực hiện, các nội dung QL HĐ KTĐG kết quả học BD của HSNK đều được đánh giá ở mức “Khá thường xuyên” (TTB từ 3.11 đến 3.33). Về kết quả đạt được, nội dung (1): BGH lập kế hoạch KTĐG kết quả học BD của HSNK và nội dung (3): Tổ chức KTĐG kết quả học BD của HSNK được đánh giá ở mức “Khá” với TTB lần lượt là 3.50 và 3.43; nội dung (2): BGH phân công các bộ phận phụ trách công tác KTĐG kết quả học BD của HSNK và nội dung (4): Họp rút kinh nghiệm công tác KTĐG kết quả học BD của HSNK chỉ được đánh giá ở mức “Trung bình” với TTB lần lượt là 3.37 và 3.35. ĐLC cũng khá cao (từ 0.750 đến 1.030) cho thấy sự đánh giá cũng có sự phân tán khá lớn giữa các đơn vị trường.

Như vậy, về cơ bản, HT các trường THPT tại tỉnh Bình Phước đã quan tâm thực hiện QL HĐ KTĐG kết quả học BD của HSNK và đạt được những kết quả tương đối tốt. Bên cạnh đó, vẫn còn hạn chế trong việc chưa thường xuyên họp rút kinh nghiệm công tác KTĐG kết quả học BD của HSNK. Vai trò của bộ phận khảo thí trong việc thực hiện nhiệm vụ KTĐG kết quả học BD của HSNK cũng cần được quan tâm, tăng cường.

2.4.6 Thực trạng quản lý hoạt động sinh hoạt tổ chuyên môn về công tác BD HSNK

Bảng 2.14a. Đánh giá của CBQL và GV về mức độ thực hiện và hiệu quả đạt được các nội dung QL HĐ sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK

Qua bảng số liệu 2.14a, chúng tôi nhận thấy: Về mức độ thực hiện, đa số các nội dung QL HĐ sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK đều được đánh giá ở mức “Khá thường xuyên” với TTB từ 2.96 đến 3.22, riêng nội dung (3): BGH dự giờ buổi sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK chỉ được đánh giá ở mức “Ít thực hiện” (TTB 2.43). Về hiệu quả đạt được, tất cả các nội dung đều được đánh giá ở mức “Trung bình” (TTB từ 2.72 đến 3.3). ĐLC cũng khá cao (ĐLC thấp nhất 0.778, ĐLC cao nhất 0.925), điều này thể hiện sự phân tán cao trong đánh giá giữa các đơn vị.

Bảng 2.14b. Đánh giá của GV về mức độ sinh hoạt TCM về HĐ BD HSNK

Khảo sát 180 GV với câu hỏi “Thầy/cô vui lòng cho biết mức độ sinh hoạt TCM về HĐ BD HSNK tại trường”, kết quả khảo sát được thể hiện tại bảng 2.14b. Qua đó, chúng tôi nhận thấy, GV đánh giá mức độ sinh hoạt TCM về HĐ BD HSNK ở mức “Khá thường xuyên”, hơn nữa với giá trị trung vị và yếu vị đều là 3 có thể khẳng định đánh giá của GV chủ yếu tập trung ở mức “Khá thường xuyên”. GV đánh giá thấp nhất ở mức “Không thực hiện” và cao nhất ở mức “Thường xuyên”. ĐLC là 0.686 cho thấy đánh giá của GV cũng khá tập trung.

Qua phỏng vấn chúng tôi được CB1, CB3, CB4, CB5 cho biết: “Vào đầu năm học, BGH có chỉ đạo các TCM xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên đề của TCM, trong đó chú trọng các chuyên đề về công tác BD HSNK và thực hiện ký duyệt kế hoạch sinh hoạt chuyên đề của TCM. Tuy nhiên, BGH ít dự giờ sinh hoạt TCM về HĐ BD HSNK, chủ yếu chỉ thực hiện đối với các môn thuộc chuyên môn của CBQL và các buổi sinh hoạt chuyên đề cấp trường về HĐ này”, riêng CB2, CB6 cho biết: “Vào đầu năm học, BGH có chỉ đạo các TCM xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên đề của TCM, trong đó chú trọng các chuyên đề về công tác BD HSNK và thực hiện ký duyệt kế hoạch sinh hoạt chuyên đề của TCM. Tuy nhiên, hầu như BGH không kiểm tra việc thực hiện kế hoạch và không dự giờ HĐ này”. Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Như vậy, nội dung QL HĐ sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK chưa được các trường thực hiện thường xuyên, hiệu quả đạt được còn thấp và còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập, đặc biệt đối với nội dung BGH dự giờ buổi sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK. Đầu năm học, HT có chỉ đạo các TCM lập kế hoạch sinh hoạt chuyên đề BD HSNK, có thực hiện ký duyệt kế hoạch của TCM. Tuy nhiên, ít kiểm tra việc thực hiện kế hoạch, đồng thời ít tham gia dự giờ các buổi sinh hoạt chuyên đề của TCM để phân tích, góp ý, đánh giá và rút kinh nghiệm. Thực trạng trên, yêu cầu các HT phải có biện pháp để QL tốt hơn HĐ sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK nhằm nâng cao chất lượng HĐ dạy BD của GV.

2.4.7. Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng, đào tạo cho giáo viên tham gia bồi dưỡng HSNK

Qua bảng 2.15, chúng tôi nhận thấy, nội dung (1): BGH xây dựng kế hoạch đào tạo, BD cho GV tham gia công tác BD HSNK và nội dung (2): BGH phân công bộ phận phụ trách công tác BD cho GV tham gia công tác BD HSNK được đánh giá ở mức thực hiện “Khá thường xuyên” với TTB lần lượt là 2.95 và 2.77 và kết quả đạt được ở mức “Trung bình”, riêng nội dung (3): Tổ chức hoạt động BD cho GV chỉ được đánh giá ở mức “Ít thức hiện” (TTB 2.16) và kết quả đạt được cũng chỉ được đánh giá ở mức “Yếu” (TTB 2.39). ĐLC khá cao cho thấy cũng có sự phân tán lớn trong sự đánh giá của các đơn vị trường.

  • Bảng 2.15. Đánh giá của CBQL và GV về các nội dung QL HĐ BD, đào tạo GV

Qua phỏng vấn, các GV từ GV1 đến GV9 đều cho biết: “Mỗi năm nhà trường tổ chức giao lưu với các trường bạn một lần để trao đổi, học tập kinh nghiệm trong đó có kinh nghiệm trong công tác BD HSNK”, riêng GV6 còn cho biết: “Nhà trường khuyến khích các TCM tự chủ động liên hệ và tìm đơn vị giao lưu, học tập kinh nghiệm, nhà trường sẽ hỗ trợ kinh phí”, GV2 còn cho chúng tôi biết thêm: “Nhà trường có nhiều định hướng giúp GV tự BD như: Yêu cầu GV báo cáo chuyên đề BD HSNK trước tổ chuyên môn, báo cáo tham luận về công tác BD HSNK; tổ chức các chuyên đề các buổi tọa đàm cấp trường giữa các bộ môn khác nhau để trao đổi, học tập kinh nghiệm; đưa ra chủ đề và nội dung tự học, tự BD hàng tháng để GV tập trung nghiên cứu, học tập và nhà trường thường xuyên kiểm tra kết quả tự BD của GV thông qua các bài kiểm tra, sát hạch”, trong khi đó GV12 cho biết: “Nhà trường hầu như không có kế hoạch đào tạo, BD GV một cách thống nhất trong toàn trường”.

Phỏng vấn CB2, CB4, CB5 và CB6 chúng tôi được biết: “Hàng năm nhà trường có xây dựng kế hoạch đào tạo, BD cho GV theo yêu cầu của Sở GD-ĐT nhưng lại không bám sát vào kế hoạch đó để tổ chức thực hiện việc BD, đào tạo GV; nhà trường chưa có những động thái tích cực để thúc đẩy việc tự học, tự BD của GV”; trong khi đó CB1 cho biết: “Nhà trường đặc biệt quan tâm đến công tác tự học, tự BD của GV; tự học tự BD là yêu cầu tất yếu và bắt buộc đối với mỗi CBQL, GV đã được đưa vào nghị quyết Chi bộ và Nghị quyết hội nghị công chức đầu năm học. Tùy theo yêu cầu từng thời điểm khác nhau mà nhà trường chỉ đạo công tác tự học với những nội dung và hình thức khác nhau”

Như vậy, nội dung QL HĐ đào tạo, BD cho GV tham gia BD HSNK được thực hiện chưa đồng đều ở các trường, một số trường rất quan tâm và thực hiện tương đối tốt nội dung này, bên cạnh đó, một số trường lại chưa quan tâm và chưa QL tốt, do đó GVBD HSNK ở những trường này chưa có điều kiện để trao đổi, chia sẽ kinh nghiệm BD HSNK nên GV trẻ khi tham gia hoạt động BD HSNK gặp rất nhiều khó khăn và áp lực, hơn nữa nhà trường chưa làm tốt công tác đào tạo đội ngũ kế cận. Từ thực trạng trên, đòi hỏi HT cần quan tâm đúng mức và có biện pháp để nâng cao hiệu quả QL HĐ đào tạo, BD cho GV tham gia BD HSNK.

2.4.8. Thực trạng quản lý hoạt động học bồi dưỡng của HSNK Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Số liệu tại bảng 2.16a cho chúng tôi thấy, các nội dung QL HĐ học BD của HSNK được đánh giá chưa cao và khá phân tán. Về mức độ thực hiện, được đánh giá ở 3 mức là thực hiện “Thường xuyên”, “Khá thường xuyên” và “Ít thực hiện” với TTB thấp nhất là 2.07 và cao nhất là 3.56. Về kết quả đạt được cũng được đánh giá làm 3 mức “Yếu”, “Trung bình” và “Khá” với TTB thấp nhất là 2.21 và cao nhất là 3.69. Đặc biệt nội dung (5): HS tham gia viết bài, giải bài trên các tạp chí hoặc báo chuyên ngành và nội dung (6): Xây dựng các câu lạc bộ học thuật cho HS trong đội tuyển chỉ được đánh giá ở mức “Ít thực hiện” và hiệu quả đạt được “Yếu”. ĐLC thấp nhất là 0.644 và cao nhất là 0.848 cho thấy sự đánh giá cũng có sự phân tán tương đối cao giữa các đơn vị khảo sát.

  • Bảng 2.16a. Đánh giá của CBQL và GV về các nội dung QL HĐ học BD của HSNK

Khảo sát HS về thời gian học BD tại trường, chúng tôi nhận được kết quả tại bảng 2.16b, Qua đó, chúng tôi nhận thấy, việc học BD của HSNK được thực hiện trong suốt năm học, trong thời gian hè và đặc biệt tập trung ôn tập trước khi thi. Thời gian hè, trung bình các trường thực hiện BD 2 buổi/tuần (TTB: 3.01) và số yếu vị là 4 cho thấy, thời gian BD tập trung nhiều ở mức 3 buổi/tuần; trong năm học, trung bình BD 2 buổi/tuần (TTB 2.93) và số yếu vị là 3, cho thấy thời gian bồi dưỡng tập trung nhiều ở mức 2 buổi/tuần; thời điểm cao điểm trước khi thi, trung bình BD 3 buổi/tuần (TTB 3.96) và số yếu vị là 5, cho thấy thời gian BD tập trung nhiều ở mức trên 3 buổi/tuần.

  • Bảng 2.16b. Thời gian học BD ở trường của HSNK Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Tìm hiểu về thời gian tự học BD ở nhà của HS chúng tôi nhận được kết quả khảo sát ở bảng 2.16b. Với TTB là 3.44, cho thấy trung bình các em tự học BD khoảng 40 tiết/tuần và số yếu vị là 5, cho thấy nhiều HSNK không xác định được thời gian tự học BD ở nhà, còn tùy tiện về mặt thời gian, chưa có kế hoạch cụ thể.

Để tìm hiểu sâu hơn về việc học BD của HS, chúng tôi tiến hành phỏng vấn GVBD HSNK, 12 GV được phỏng vấn đều cho biết: “Bên cạnh việc học chính khóa vào các buổi sáng, tất cả HS đều học thêm tại trường 4 buổi chiều/tuần và như vậy HS tham gia đội tuyển HSNK phải học kín hết tất cả các ngày trong tuần tại trường, thêm vào đó, buổi tối, nhiều HS trong các đội tuyển HSNK còn đi học thêm ở ngoài để chuẩn bị cho các môn thi THPT Quốc gia, xét tuyển đại học. Vì vậy, HS trong các đội tuyển thiếu thời gian tự học, tự nghiên cứu, phải chịu rất nhiều áp lực về thời gian và rất khó khăn để cân bằng việc học nhằm đảm bảo kết quả học tập toàn diện. Điều này dẫn tới, không ít HS trong các đội tuyển HSNK chưa toàn tâm, toàn ý cho việc học BD, còn bị phân tâm và cảm thấy quá tải”.

Như vậy, nội dung QL việc học BD của HSNK được các trường thực hiện khá tốt ở một số nội dung, bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế như: Chưa quan tâm đến việc xây dựng các câu lạc bộ học thuật cho HS trong đội tuyển và hướng dẫn HS tham gia viết bài, giải bài trên các tạp chí hoặc báo chuyên ngành; HSNK còn bị áp lực nhiều về mặt thời gian; việc tự học, tự bồi dưỡng của HSNK chưa tốt. Từ thực trạng trên, đòi hỏi HT các trường cần có chỉ đạo và sắp xếp thời gian BD HSNK phù hợp hơn, tăng cường các hình thức BD thông qua các câu lạc bộ học thuật, tạo điều kiện để HSNK phát huy được tính chủ động tích cực của HS trong việc tự học, tự nghiên cứu thông qua sách, báo, tạp chí khoa học nhằm biến quá trình BD thành tự BD, có như vậy các em mới chủ động, tích cực và giảm được áp lực của việc học …vv.

2.4.9. Thực trạng QL một số yếu tố ảnh hưởng đến HĐ BD HSNK

  • Bảng 2.17a. Đánh giá của GV về những thuận lợi trong HĐ BD HSNK

Bảng số liệu 2.17a, cho chúng tôi những thông tin cơ bản về các yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho GV trong HĐ BD HSNK. Cụ thể như sau: 69.3% GV cho rằng GV có lòng đam mê, chịu khó nghiên cứu, có sự hỗ trợ của TCM là yếu tố thuận lợi nhất; tiếp đến là yếu tố (1): HSNK được chọn lựa kỹ qua thi tuyển được 67.6% GV lựa chọn. Chỉ có 35.2% GV cho rằng GV được BD, tập huấn nâng cao chuyên môn và chỉ có 28.5% GV cho rằng Chế độ ưu đãi, quan tâm của Tỉnh, Ngành và Nhà trường đến GV BD HSNK tạo thuận lợi cho GV trong HĐ BD HSNK. Như vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho GV BD HSNK, HT cần QL tốt việc chọn lọc đội tuyển, phát triển lòng đam mê của GV giỏi đối với HĐ BD HSNK; đồng thời còn phải đặc biệt chú ý đến việc bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ cho GV, tăng cường chế độ, chính sách ưu đãi đối với GV BD HSNK.

Với câu hỏi: “Thầy/cô vui lòng cho biết những khó khăn trong HĐ BD HSNK”, chúng tôi nhận được kết quả khảo sát trên 180 GV như sau: Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

  • Bảng 2.17b. Đánh giá của GV về những khó khăn trong HĐ BD HSNK

Qua bảng 2.17b ta thấy, có tới 74.9% ý kiến cho rằng HĐ BD HSNK gặp khó khăn do chương trình BD HSNK quá nặng, thiếu tài liệu tham khảo; 55,9% ý kiến cho rằng HĐ BD HSNK gặp khó khăn do HS 12 không muốn tập trung vào 1 môn thi HSNK mà muốn học đều ít nhất là 3 môn để chuẩn bị cho đầu vào đại học; 47.5% ý kiến cho rằng HĐ BD HSNK gặp khó khăn do thiếu thốn về CSVC, trang thiết bị dạy học và có tới 24.6% cảm thấy bị áp lực về công việc của bản thân, về bệnh thành tích của nhà trường. Với số liệu phân tích ở trên, để tháo gỡ những khó khăn cho GVBD HSNK và HS tham gia đội tuyển HSNK, HT cần tham mưu các cấp QL trong việc xem xét, đổi mới chương trình và cách thức thi chọn HSNK, thay đổi thời gian thi chọn HSG (thực hiện sớm vào đầu mỗi năm học) để sau kỳ thi HSG các cấp, HSNK có thể tập trung vào các môn thi THPTQG tránh học lệch. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến việc mua sắm các trang thiết bị dạy học phục vụ riêng cho HĐ BD HSNK, bố trí TKB và phòng học BD HSNK một cách khoa học, phù hợp và cần xác định đúng mục đích của HĐ BD HSNK để hạn chế tối đa áp lực của GV, HS vì bệnh thành tích của nhà trường.

Tìm hiểu về các điều kiện CSVC cho HĐ BDHSNK, qua phỏng vấn, với câu hỏi: “Nhà trường đảm bảo tài liệu dạy học, các điều kiện CSVC – thiết bị cho HĐ BD HSNK như thế nào?”, chúng tôi được CB1, CB3 và CB5 cho biết: “Nhà trường quan tâm và tạo điều kiện rất tốt cho HĐ BD HSNK thông qua việc bố trí các phòng cố định cho việc BD HSNK từng môn, chỉ đạo TCM đề xuất các tài liệu cần thiết và mua bổ sung sách tham khảo thường xuyên, hỗ trợ kinh phí phô tô tài liệu cho GVBD và HSNK”; trong khi đó CB2, CB4, CB6 thì cho rằng: “Không có phòng riêng để BD HSNK, tùy thực tế dạy – học của nhà trường, phòng nào trống thì dùng BD HSNK, phòng học của các đội tuyển không cố định; tài liệu tham khảo được bổ sung hàng năm”; đặc biệt, GV3, GV4, GV11 và GV12 cho biết: “Phòng học để BD HSNK rất bị động, có buổi đi dạy HSNK mà GV và HS mất rất nhiều thời gian để tìm phòng và bố trí phòng học giữa các đội tuyển; GV dạy HSNK phải thường xuyên phô tô tài liệu cho các em nhưng không có kinh phí hỗ trợ từ nhà trường, GV phải bỏ tiền túi ra để phô tô cho HS hoặc HS phải tự về phô tô”.

Tìm hiểu về công tác khen thưởng trong HĐ BD HSNK, chúng tôi tiến hành khảo sát trên 150 HS và thu được kết quả ở bảng 2.17c

  • Bảng 2.17c: Đánh giá của HS về mức độ thỏa đáng của các hình thức khen thưởng HSNK

Kết quả khảo sát cho thấy, HS đánh giá nhà trường đã khen thưởng HSNK “Khá thỏa đáng”. Tuy nhiên cũng có sự chênh lệch khá lớn giữa các trường. Trường 1A được đánh giá ở mức “Rất thỏa đáng”, Trường 2A, 2B, 3A được đánh giá ở mức “Thỏa đáng”, Trường 1B, 3B chỉ được đánh giá ở mức “Khá thỏa đáng”. Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Qua phỏng vấn, tất cả CBQL và GV đều cho biết: “Nhà trường có quỹ khuyến học để thực hiện khen thưởng GVBD và HSNK đạt thành tích cao”. CB1, CB2, CB3, CB4 và CB5 cho biết: “Kinh phí khen thưởng GV và HS trong HĐ BD HSNK được huy động chủ yếu từ CMHS. Ngoài ra, có sự ủng hộ của Cựu học sinh, các mạnh thường quân, các cơ quan”, trong khi đó CB6 cho biết: “Kinh phí khen thưởng GV và HS trong HĐ BD chỉ được huy động từ các mạnh thường quân”. Hỏi về sự kịp thời trong việc khen thưởng, CB1, CB3, CB4 và CB5 đều cho biết: “Nhà trường tổ chức Lễ tuyên dương khen thưởng GVBD và HSNK có thành tích tốt rất long trọng ngay khi có kết quả các cuộc thi HSG, HSNK”, đặc biệt CB1 cho biết thêm “Nhà trường giao chỉ tiêu HSG cho mỗi bộ môn và nếu môn nào đạt hoặc vượt chỉ tiêu nhà trường còn thực hiện khen thưởng tập thể tổ chuyên môn”, trong khi đó CB2, CB6 lại cho biết “Nhà trường thực hiện khen thưởng vào các dịp Lễ 20/11, Sơ kết hoặc tổng kết năm học”. Các GV1, GV2, GV5 và GV6 cho biết: “Nhà trường thực hiện khen thưởng GVBD và HSNK đạt thành tích rất thỏa đáng, tạo được động lực cho GV và HS”, trong khi đó, các GV còn lại thì cho rằng: “Việc khen thưởng GVBD và HSNK chưa thỏa đáng với công sức mà họ bỏ ra, không đủ tạo được động lực”. Tất cả CBQL và GV được phỏng vấn đều cho biết: “Thành tích về HĐ BD HSNK đều được nhà trường đưa vào xét thi đua cá nhân, thi đua tập thể tổ cuối mỗi năm học; GV bồi dưỡng HSNK được ưu tiên trong một số công tác khiêm nhiệm của trường như hạn chế làm công tác phong trào, công tác chủ nhiệm lớp, …vv.”

Tìm hiểu về chế độ đối với GV tham gia BD HSNK và HSNK, qua phỏng vấn, CB1 và CB3 cho chúng tôi biết: “Nhà trường có nhiều chế độ đãi ngộ đối với HS trong đội tuyển HSNK và GV tham gia BD HSNK, kể cả vật chất và tinh thần (tuyên dương khen thưởng kịp thời, với hình thức phù hợp; GVBD và HSNK được thừa nhận và được ưu tiên trong nhiều chính sách (giảm công tác kiêm nhiệm cho GV, miễn tiền học phí dạy thêm học thêm trong nhà trường cho HS, …); chi trả và hỗ trợ kinh phí các tiết dạy BD HSNK bằng tiền ngân sách và tiền vận động từ CMHS; …); HSNK và GV giỏi công tác tại trường được tạo mọi điều kiện để cống hiến và phát triển, vì vậy, nhiệt huyết của GVBD và HSNK rất cao”. CB2, CB4, CB5 cũng cho biết: “Trong những năm qua, nhà trường đã quan tâm đến chế độ của GVBD và HSNK, tuy nhiên, do kinh phí ngân sách nhà nước có hạn nên chưa thể đáp ứng được nhu cầu chính đáng của GV và HS, mức thưởng chưa phù hợp, khen thưởng chưa kịp thời, các GVBD đội tuyển HSNK khối 10, 11 không có kinh phí để chi trả tiết dạy, hầu hết là GV dạy không công. Hiện nay, nhà trường đang tìm cách vận động xã hội hóa huy động kinh phí từ CMHS để hỗ trợ chi trả tiết dạy BD HSNK cho GVBD các đội tuyển 10, 11 và nâng cao mức khen thưởng GV và HS đạt thành tích”; CB2 còn cho biết thêm: “Năm 2024 trường 2B có sự thay đổi trong vị trí CBQL, luân chuyển Hiệu trưởng nên đã có rất nhiều đổi mới như:Tăng định mức khen thưởng cho GVBD và HSNK đạt giải; hỗ trợ nước uống cho GV và HS trong các buổi BD HSNK tại trường, do đó thành tích về HSNK tăng nhiều so với các năm trước”. Ngoài ra, chúng tôi còn được GV1 cho biết: “HT rất quan tâm đến GV và HS tham gia HĐ BD HSNK, trước mỗi kỳ thi, nhà trường thường tổ chức gặp mặt GVBD và HS trong các đội tuyển để động viên, khích lệ bằng cả tinh thần và vật chất; HT chỉ đạo các TCM chăm sóc tận tình, chu đáo HS trước khi thi; HT còn vận động kinh phí từ CMHS để tổ chức liên hoan cho GVBD và HS ngay sau khi thi xong để trao đổi, rút kinh nghiệm sau khi làm bài thi, đồng thời tăng thêm tình cảm, sự gắn bó giữa lãnh đạo nhà trường với GV, HS”

Khảo sát nội dung quản lý công tác phối hợp trong hoạt động BD HSNK, chúng tôi thu được kết quả thể hiện ở bảng 2.18. Qua đó, chúng tôi thấy: Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Về mức độ thực hiện, các nội dung QL công tác phối hợp được đánh giá ở mức “Khá thường xuyên” và “Thường xuyên” (TTB thấp nhất 3.34, TTB cao nhất 3.70)

Về kết quả đạt được, hầu hết các nội dung được đánh giá ở mức “Khá” (riêng nội dung phối hợp trong việc xây dựng kế hoạch chỉ được đánh giá ở mức “Trung bình” (TTB 3.40)). Với ĐLC thấp nhất 0.658 và cao nhất 0.836 ta thấy cũng có sự phân tán trong đánh giá của các cụm trường, tuy nhiên vẫn tập trung hơn các nội dung QL khác.

  • Bảng 2.18. Đánh giá của CBQL và GV về các nội dung QL công tác phối hợp trong HĐ BD HSNK

Như vậy, có thể thấy, ở hầu hết các trường khảo sát, HT đã có các biện pháp để QL các yếu tố ảnh hưởng đến HĐ BD HSNK như công tác thi đua khen thưởng, công tác phối hợp, ….vv. Tuy nhiên, có trường thực hiện tốt, có trường lại thực hiện chưa tốt, hiệu quả mang lại chưa cao thể hiện trong việc tổ chức tuyên dương khen thưởng chưa kịp thời, hình thức khen thưởng chưa thỏa đáng, huy động xã hội hóa chưa thành công. Thực trạng trên đòi hỏi HT nhà trường phải có biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả QL các yếu tố ảnh hưởng đến HĐ BD HSNK và cần đặc biệt quan tâm đến các biện pháp tạo động lực cho GVBD và HS, phát triển đam mê của GV và HS trong công tác BD HSNK.

2.5. Nhận định đánh giá chung về thực trạng

2.5.1 Ưu điểm

Nhận thức của đa số CBQL, GV, HS, CMHS về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và mục đích của hoạt động BD HSNK cũng như công tác QL HĐ BD HSNK khá đầy đủ và toàn diện; từ đó có những nổ lực, cố gắng góp phần nâng cao hiệu quả HĐ BD HSNK.

Hiệu trưởng các trường THPT tỉnh Bình Phước đã thực hiện đủ các chức năng QL (lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra) trong từng nội dung quản lý HĐ BD HSNK (QL kế hoạch và chương trình BD HSNK; QL việc tuyển chọn HSNK; QL giờ dạy BD HSNK của GV trên lớp; QL hoạt động KTĐG kết quả học BD của HSNK; QL HĐ sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK; QL HĐ BD, đào tạo GV, QL hoạt động học BD của HSNK; QL một số yếu tố ảnh hưởng đến HĐ BD HSNK).

2.5.2. Hạn chế, tồn tại Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Vẫn còn một số CBQL, GV, HS, CMHS nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và mục đích của hoạt động BD HSNK cũng như công tác QL HĐ BD HSNK.

Các nhà trường chưa thực hiện tốt việc giáo dục toàn diện cho HSNK, còn tập trung nhiều vào việc nâng cao kiến thức mà chưa quan tâm đúng mức đến nội dung GD phẩm chất đạo đức.

Số lượng GV tham gia BD HSNK có trình độ trên chuẩn còn ít, lực lượng GV trẻ tham gia BD HSNK chưa nhiều. Phương pháp dạy học tích cực chưa được các GV BD thực hiện thường xuyên, chưa hướng dẫn tốt cho HSNK phương pháp tự học, tự giải quyết vấn đề và tập dượt nghiên cứu khoa học. Hình thức bồi dưỡng HSNK chủ yếu là BD riêng cho nhóm HS đội tuyển theo chuyên đề nâng cao, chưa khai thác tốt hình thức BD HSNK thông qua các giờ học chính khóa và thông qua các câu lạc bộ học thuật, các diễn đàn trên Internet, …vv. HT các trường THPT ở tỉnh Bình Phước đã thực hiện đủ các chức năng QL trong công tác QL HĐ BD HSNK nhưng hiệu quả quản lý chưa cao, đặc biệt là các nội dung QL giờ dạy HSNK của GV trên lớp, QL HĐ sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK, QL HĐ BD, đào tạo cho GV tham gia BD HSNK và QL một số yếu tố ảnh hưởng đến HĐ BD HSNK. Cụ thể như sau:

Chưa có sự đồng bộ trong thực hiện các nội dung QL HĐ BD HSNK (đã có những nội dung thực hiện tương đối tốt, có nội dung thực hiện chưa tốt, thậm chí yếu kém; chưa có sự đồng bộ giữa các trường).

Phân công, phân nhiệm trong QL HĐ BD HSNK chưa rõ ràng, chưa phát huy được hiệu quả.

Hiệu quả QL kế hoạch và chương trình BD HSNK chưa cao; thiếu sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và duy trì việc thực hiện kế hoạch, chương trình BD HSNK.

Việc tuyển chọn HSNK chưa đồng bộ, một số trường không lập kế hoạch tuyển chọn đội tuyển, nhà trường không thành lập hội đồng để tổ chức thi tuyển mà giao cho các TCM tự tuyển chọn hoặc nhà trường có tổ chức tuyển chọn nhưng chưa khoa học nên chưa chọn được tất cả các đội tuyển mạnh nhất, chưa có sự cân đối, hài hòa giữa các đội tuyển trong toàn trường, khi đã tuyển chọn HSNK lại không ra quyết định thành lập các đội tuyển mà chỉ thông báo bằng miệng hoặc lập danh sách không có tính pháp lý.

Một số trường giao hoàn toàn cho TCM phân công GVBD HSNK, tự bố trí lịch BD; HT không ra quyết định phân công GVBD HSNK, không chỉ đạo PHT xếp TKB BD HSNK, không nắm được tổng thể lịch BD chung toàn trường, thiếu sự kiểm tra, kiểm soát trong việc thực hiện lịch BD HSNK.

BGH dự giờ tiết dạy BD HSNK, dự giờ sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK còn rất ít, thậm chí không dự, vì vậy chưa nắm bắt được những hạn chế, tồn tại để kịp thời điều chỉnh đồng thời không phát hiện được những ưu điểm, mặt mạnh để kịp thời phổ biến và nhân rộng trong toàn trường.

Các hình thức tổ chức BD, đào tạo cho GV tham gia BD HSNK chưa đa dạng, chưa phong phú; HT chưa có nhiều biện pháp để phát huy tốt nhất khả năng tự học, tự BD của GV.

Việc tạo động lực cho GV đã được các trường quan tâm, tuy nhiên còn chưa tương xứng với công sức của GV và HS, công tác thi đua khen thưởng đôi khi còn chưa kịp thời, công tác xã hội hóa giáo dục còn hạn chế, chưa huy động được mạnh mẽ nguồn kinh phí chăm lo cho HĐ BD HSNK.

2.5.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

2.5.3.1 Nguyên nhân khách quan:

Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng (2021) đã khẳng định một trong những nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong GD-ĐT đó là: Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và gia đình chưa chặt chẽ. Nguồn lực quốc gia và khả năng của phần đông gia đình đầu tư cho GD-ĐT còn thấp so với yêu cầu, … tư duy bao cấp còn nặng, làm hạn chế khả năng huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục, đào tạo [2].

Công tác QL xã hội của Nhà nước về HĐ BD HSNK chưa thật sự chặt chẽ, chưa ngăn chặn được triệt để tiêu cực trong HĐ BD HSNK đã làm giảm nhiệt huyết của một số CBQL, GVBD và HS tham gia BD HSNK.

Sự quan tâm của Nhà nước đối với công tác khuyến tài nói chung và HĐ BD HSNK nói riêng chưa đúng mức, hầu hết còn đang “hô khẩu hiệu”, chưa có những chính sách cụ thể, hợp lý, khả thi để chăm lo, phát hiện và BD HSNK, phát triển tiềm năng nhân tài cho xã hội.

Cách thức tổ chức các kỳ thi, hội thi năng khiếu hiện nay còn chưa phù hợp, còn mang nặng tính hàn lâm. Do đó, nội dung chương trình BD HSNK chủ yếu chú trọng đến phát triển kiến thức nâng cao, chưa chú trọng nhiều đến giáo dục đạo đức, phát triển năng lực nghiên cứu, kỹ năng, kỹ xảo cho HS.

Kinh phí ngân sách đầu tư cho HĐ của các nhà trường còn rất hạn hẹn do đó không có kinh phí để chăm lo cho HĐ BD HSNK.

2.5.3.2. Nguyên nhân chủ quan:

Sự phân cấp, phân quyền trong QL HĐ BD HSNK ở các trường còn chưa phù hợp, chưa có những quy định cụ thể để quy định trách nhiệm và hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ của từng cá nhân, tổ chức trong HĐ BD HSNK. Ví dụ: HT ủy quyền cho TCM chọn đội tuyển, phân công GVBD HSNK, bố trí lịch dạy BD HSNK là chưa phù hợp, TCM chỉ đóng vai trò tham mưu, tất cả mọi việc cần phải được chỉ đạo thống nhất trong toàn trường dưới sự điều hành của HT; ủy quyền cho TCM ký duyệt giáo án dạy HSNK nhưng hiệu quả chưa cao, …vv. Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

Năng lực đội ngũ GV chưa đồng đều, trình độ ngoại ngữ và công nghệ thông tin còn hạn chế, chậm đổi mới phương pháp dạy học, chưa đáp ứng yêu cầu dạy học trong thời kỳ mới; đa số CBQL chưa được đào tạo bài bản về công tác QL, chỉ thực hiện công tác QL theo kinh nghiệm. Trong khi đó, công tác BD, đào tạo cho CBQL và GV tham gia BD HSNK lại chưa được HT quan tâm đúng mức. BGH rất ít dự giờ sinh hoạt chuyên đề nâng cao, dự giờ BD, vì họ cho đây là việc của tổ, nhóm chuyên môn, HT chủ yếu quan tâm đến công tác tổ chức và tài chính, ủy quyền QL chuyên môn cho PHT, nhưng PHT lại ủy quyền tiếp cho TTCM, dẫn đến chất lượng BD chuyên môn chưa cao; đòi hỏi cần có cần sự tham gia trực tiếp chỉ đạo hoạt động chuyên môn của HT.

BGH vẫn còn thiếu sự quan tâm, theo dõi, động viên, khuyến khích, hướng dẫn các TCM, GVBD và HSNK thực hiện HĐ BD HSNK. HĐ BD HSNK trong các nhà trường chưa được tổ chức đánh giá, sơ kết, tổng kết thường xuyên để kịp thời nhân rộng những ưu điểm và khắc phục những hạn chế, yếu kém. Các Hội thảo, báo cáo chuyên đề về công tác BD HSNK hầu như không được thực hiện cấp Sở, Trường và cũng ít được thực hiện ở các TCM.

Điều kiện CSVC và thiết bị, sách tham khảo, tài liệu còn thiếu thốn, chưa đáp ứng tốt HĐ BD HSNK

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Trên cơ sở khái quát về tình hình kinh tế – xã hội, GD-ĐT của tỉnh Bình Phước, luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng HĐ BD HSNK và thực trạng QL HĐ BD HSNK ở một số trường THPT tại tỉnh Bình Phước.

Nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ rõ, trong thời gian qua, HT các trường THPT tại tỉnh Bình Phước đã sử dụng các biện pháp QL HĐ BD HSNK phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, của nhà trường, nhìn chung đã đạt được hiệu quả nhất định trong thực hiện nhiệm vụ GD HSNK. Tuy nhiên, mức độ thực hiện và mức độ tác dụng của các biện pháp còn ở mức độ thấp hơn so với mức độ nhận thức, việc sử dụng các biện pháp quản lý chưa đồng bộ nên hiệu quả QL còn chưa cao.

Nghiên cứu lý luận QL HĐ BD HSNK và kết quả điều tra, phân tích thực trạng là cơ sở gợi mở cho việc đề xuất, hoàn thiện các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước trong chương 3 của đề tài này. Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT.

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:  

===>>> Luận văn: Biện pháp bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x
()
x
Contact Me on Zalo
0972114537