Mục lục
Chia sẻ chuyên mục Đề Tài Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT hay nhất năm 2025 cho các bạn học viên ngành đang làm luận văn thạc sĩ tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài luận văn tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm luận văn thì với đề tài Luận Văn: Quản lý hoạt động bồi dưỡng học sinh năng khiếu ở một số trường trung học phổ thông tỉnh Bình Phước dưới đây chắc chắn sẽ giúp cho các bạn học viên có cái nhìn tổng quan hơn về đề tài sắp đến.
TÓM TẮT
Đề tài nhằm khảo sát và đánh giá thực trạng QL HĐ BD HSNK ở một số trường THPT tại tỉnh Bình Phước, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước. Đề tài sử dụng kết hợp hai phương pháp nghiên cứu, đó là phương pháp nghiên cứu lý luận và phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Luận văn đã thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu và đạt được những quả sau:
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận của HĐ BD HSNK và QL HĐ BD HSNK ở các trường phổ thông. Trong đề tài nghiên cứu, chúng tôi nghiên cứu HĐ BD HSNK trên cơ sở các nội dung của HĐ dạy học bao gồm: Mục đích, nhiệm vụ BD HSNK; Nội dung BD HSNK; Phương pháp BD HSNK; Hình thức BD HSNK và Phương pháp kiểm tra đánh giá (KTĐG) kết quả học BD của HSNK; nghiên cứu QL HĐ BD HSNK theo hướng tiếp cận các nội dung QL bao gồm: QL kế hoạch và chương trình BD HSNK, QL việc tuyển chọn HSNK, QL HĐ dạy BD HSNK của GV trên lớp, QL việc KTĐG kết quả học BD của HSNK, QL sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK, QL hoạt động đào tạo, BD cho GV tham gia BD HSNK, QL việc học BD của HSNK và QL một yếu tố ảnh hưởng đến HĐ BD HSNK.
Khảo sát và đánh giá thực trạng QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước. Kết quả nghiên cứu cho thấy: HT các trường THPT tại tỉnh Bình Phước đã thực hiện các chức năng QLGD với nhiều biện pháp cụ thể để QL HĐ BD HSNK, một số biện pháp đã mang lại hiệu quả QL cao, bên cạnh đó, một số biện pháp vẫn chưa được quan tâm, chỉ đạo thực hiện một cách đồng bộ và triệt để. Công tác QL HĐ BD HSNK còn một số hạn chế như:
- Phân công, phân nhiệm trong QL HĐ BD HSNK chưa rõ ràng, chưa phát huy được hiệu quả.
- Hiệu quả QL kế hoạch và chương trình BD HSNK chưa cao; thiếu sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và duy trì việc thực hiện kế hoạch, chương trình BD HSNK.
- Việc tuyển chọn HSNK chưa bài bản, chưa khoa học và chưa chưa đồng bộ giữa các trường.
- BGH ít dự giờ tiết dạy BD HSNK và các buổi sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK.
- Các hình thức tổ chức BD, đào tạo cho GV tham gia BD HSNK chưa đa dạng, chưa phong phú.
Việc tạo động lực cho GV đã được các trường quan tâm, tuy nhiên còn chưa tương xứng với công sức của GV và HS; công tác thi đua khen thưởng đôi khi còn chưa kịp thời; công tác xã hội hóa giáo dục còn hạn chế, chưa huy động được mạnh mẽ nguồn kinh phí chăm lo cho HĐ BD HSNK. Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Từ nghiên cứu lý luận và kết quả khảo sát, đánh giá thực trạng HĐ BD HSNK và QL HĐ BD HSNK ở một số trường THPT tại tỉnh Bình Phước, đề tài đã đề xuất 3 nhóm biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả QL HĐ BD HSNK, đó là:
Nâng cao nhận thức cho đội ngũ CBQL, GV, NV, HS và CMHS về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của HĐ BD HSNK và QL HĐ BD HSNK.
- Tổ chức, thực hiện hiệu quả các nội dung QL HĐ BD HSNK với 6 biện pháp cụ thể như sau:
- Chỉ đạo, tổ chức việc phân công, phân nhiệm hợp lý trong QL HĐ BD HSNK;
- Phát huy vai trò của Ban chỉ đạo xây dựng kế hoạch, chương trình nhằm nâng cao hiệu quả QL kế hoạch và chương trình BD HSNK;
- Tổ chức hiệu quả việc thi tuyển để thành lập các đội tuyển HSNK;
- Tổ chức tốt việc QL giờ dạy BD HSNK của GV trên lớp;
- Chỉ đạo TCM thực hiện tốt sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK;
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt công tác đào tạo, BD cho GV tham gia BD HSNK.
- Nhóm biện pháp hỗ trợ, tạo động lực cho GV và HS tham gia HĐ BD HSNK
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bàn về kiến thiết đất nước, tác giả Hồ Chí Minh (1945) cho rằng: Kiến thiết cần có nhân tài; nhân tài nước ta dù chưa có nhiều nhưng chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển, càng thêm nhiều. Người còn khẳng định: Bồi dưỡng (BD) nhân tài là một quá trình liên tục và việc BD nhân tài này không chỉ nhằm mục đích giải phóng đất nước, giải phóng con người, mà còn phát triển năng lực của mỗi con người [44].
Nhận thức được tính chất quyết định của nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) ngày 4-11-2021 về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục – Đào tạo (GD-ĐT), đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã xác định rõ: Đầu tư cho giáo dục (GD) là đầu tư cho sự phát triển, phải được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, …; phát triển GD – ĐT là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, BD nhân tài [2]. Như vậy, BD nhân tài là một nhiệm vụ quan trọng của ngành GD – ĐT.
Nghiên cứu của Kim Ngọc Minh (2021), đã chứng minh GD năng khiếu (gifted) và tài năng (talented) phải được xem như là một hướng ưu tiên thực sự với ba lý do sau: (1) Bồi dưỡng, phát triển nguồn nguyên khí quốc gia, “gia cố lại” một trong ba chân kiềng quan trọng mà ngành GD đã chỉ ra trong mục tiêu của mình là: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và BD nhân tài. (2) Tập trung một nguồn lực hữu hạn nhất định để làm đầu tầu, hoa tiêu, thí điểm cho công cuộc cải tổ GD trên diện rộng. (3) GD năng khiếu và tài năng không phải là một “đặc ân” cho một số nhỏ “tinh hoa”, mà thực sự là việc đáp ứng quyền và nhu cầu được phát triển theo khả năng và đặc điểm riêng trong học tập và rèn luyện của các HS, sinh viên có năng lực và cố gắng vượt trội [46].
Nghiên cứu của Newfoundland và Bộ Giáo dục Labrador (2021), đã chỉ ra một trong bảy quan niệm sai về GD HS năng khiếu và tài năng là: HSNK sẽ tốt dù có hay không có chương trình đặc biệt [43]. Điều này khẳng định, HSNK cần có một chương trình đặc biệt, cần được BD riêng để đạt được trình độ tương ứng với năng lực đặc biệt của các em.
Như vậy, hoạt động bồi dưỡng học sinh năng khiếu (HĐ BD HSNK) trong trường phổ thông là phù hợp với mục tiêu phát triển chung của ngành GD-ĐT, là nhiệm vụ chuyên môn của các nhà trường nói chung và các trường Trung học Phổ thông (THPT) nói riêng nhằm phát hiện, BD nhân tài đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao của địa phương và đất nước. Quản lý (QL) chuyên môn nói chung trong đó có QL HĐ BD HSNK là một trong những nhiệm vụ cơ bản của Hiệu trưởng (HT) trường Phổ thông được quy định trong khoản đ, điều 19 của Điều lệ trường Trung học cơ sở, THPT và trường Phổ thông có nhiều cấp học [3]. Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Ở tỉnh Bình Phước, trong những năm qua, HĐ BD HSNK đã được các nhà trường quan tâm thực hiện và đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, HĐ BD HSNK ở các trường THPT trong tỉnh còn rất nhiều khó khăn và không ít những hạn chế, yếu kém như: nhận thức của một số cán bộ quản lý (CBQL), giáo viên (GV), học sinh (HS) và cha mẹ học sinh (CMHS) về HĐ BD HSNK còn chưa đầy đủ và sâu sắc; năng lực BD HSNK của đội ngũ GV chưa đồng đều, lực lượng GV trẻ tham gia BD HSNK chưa nhiều; cơ sở vật chất (CSVC), trang thiết bị phục vụ cho HĐ BD HSNK chưa được đầu tư đúng mức; chương trình, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo còn thiếu thốn, chưa phong phú; chế độ chính sách của Nhà nước, Nhà trường dành cho giáo viên bồi dưỡng (GVBD) và HSNK chưa tương xứng với công sức bỏ ra và thành tích đạt được; kết quả BD HSNK ở các trường THPT trong tỉnh chưa đồng đều: có những trường luôn đạt thành tích rất tốt trong tất cả các kỳ thi chọn HSG, HSNK cấp tỉnh; bên cạnh đó, cũng có những trường chất lượng của HĐ BD HSNK lại rất thấp, không tương xứng với nguồn lực sẵn có của nhà trường; đặc biệt, còn có sự chênh lệch lớn trong kết quả BD HSNK giữa những cặp trường có điều kiện tương đồng về hầu hết các nguồn lực như chất lượng đầu vào, chất lượng đội ngũ, CSVC, trang thiết bị dạy học, …vv [31], [32], [33]. Chúng tôi cho rằng, hiệu quả QL HĐ BD HSNK của HT là nguyên nhân quan trọng quyết định sự chênh lệch về thành tích đạt được trong HĐ BD HSNK giữa các trường. Hiện nay, chưa có bất kỳ một đề tài khoa học nào nghiên cứu công tác QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tỉnh Bình Phước. Vì vậy, chúng tôi muốn nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng QL HĐ BD HSNK ở một số trường THPT tại tỉnh Bình Phước để làm rõ giả thuyết trên.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Quản lý hoạt động bồi dưỡng học sinh năng khiếu ở một số trường trung học phổ thông tỉnh Bình Phước” để thực hiện luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành Quản lý giáo dục (QLGD) của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu lý luận về HĐ BD HSNK và QL HĐ BD HSNK, tiến hành khảo sát và đánh giá thực trạng QL HĐ BD HSNK ở một số trường THPT tại tỉnh Bình Phước, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1.Khách thể nghiên cứu
- Quản lý hoạt động dạy học ở trường THPT
3.2. Đối tượng nghiên cứu
- Quản lý HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước
4. Giả thuyết khoa học
Công tác QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước trong thời gian qua có thể đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, công tác này có thể vẫn còn những hạn chế, bất cập trong mỗi nội dung quản lý và còn thiếu sự đồng bộ.
Nếu khảo sát và đánh giá đúng thực trạng QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước thì người nghiên cứu có thể đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả QL HĐ BD HSNK.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về HĐ BD HSNK và QL HĐ BD HSNK ở trường Phổ thông.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng QL HĐ BD HSNK ở một số trường THPT tại tỉnh Bình Phước.
- Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước.
6. Phạm vi nghiên cứu Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
6.1. Về không gian
Do hạn chế về mặt thời gian, đề tài chỉ chọn nghiên cứu công tác QL HĐ BD HSNK của HT ở 6 trường THPT tại tỉnh Bình Phước, bao gồm: Trường THPT Đồng Xoài, trường THPT Đồng Phú, trường THPT Nguyễn Khuyến, trường THPT thị xã Phước Long, trường THPT Thanh Hoà và trường THPT Nguyễn Huệ.
6.2. Về nội dung
Công tác QL được thực hiện bởi nhiều đối tượng như QL của Sở GD-ĐT, HT, phó hiệu trưởng (PHT), tổ trưởng chuyên môn (TTCM) và tổ phó chuyên môn. Trong đề tài chỉ nghiên cứu công tác QL HĐ BD HSNK của HT trường THPT.
Đối tượng HSNK rất đa dạng, phong phú. Do hạn chế về thời gian, trong đề tài này tôi chỉ tập trung nghiên cứu HSNK là đối tượng HS được lựa chọn vào các đội tuyển HSNK để ôn tập, bồi dưỡng và tham gia kỳ thi chọn HSG các môn khoa học do Sở GD-ĐT, Bộ GD-ĐT tổ chức.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài, người viết dựa trên các phương pháp luận là quan điểm hệ thống – cấu trúc, quan điểm lịch sử – logic và quan điểm thực tiễn.
7.1.1. Quan điểm hệ thống – cấu trúc Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Vận dụng quan điểm hệ thống cấu trúc vào phạm nghi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi nhận thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa QL HĐ BD HSNK với QL các HĐ sư phạm khác trong trường. Nghiên cứu QL HĐ BD HSNK cần nghiên cứu một số nội dung cụ thể như: QL kế hoạch và chương trình BD HSNK, QL việc tuyển chọn HSNK, QL HĐ dạy BD HSNK của GV trên lớp, QL việc KTĐG kết quả học BD của HSNK, QL sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK, QL hoạt động đào tạo, BD cho GV tham gia BD HSNK, QL một số yếu tố ảnh hưởng đến HĐ BD HSNK, QL việc học BD của HSNK. Khi đề xuất nhóm biện pháp, các biện pháp phải được nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm tạo ra sự hỗ trợ hợp lý giữa các biện pháp trong việc nâng cao hiệu quả QL HĐ BD HSNK.
7.1.2. Quan điểm lịch sử – logic
Vận dụng quan điểm lịch sử – logic vào phạm vi đề tài, nhằm nghiên cứu thực trạng QL HĐ BD HSNK bằng cách tìm hiểu, phát hiện sự nảy sinh, phát triển vào những khoảng thời gian, không gian và điều kiện cụ thể. Việc này giúp cho công tác khảo sát, đánh giá thực trạng được chính xác, phù hợp với mục đích nghiên cứu.
7.1.3. Quan điểm thực tiễn
Vận dụng quan điểm thực tiễn vào phạm vi đề tài, chúng tôi nghiên cứu và đánh giá thực trạng QL HĐ BD HSNK trong điều kiện cụ thể ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước. Việc đề xuất các biện pháp phải dựa vào điều kiện thực tế của nhà trường, của địa phương về nhân lực, tài lực, vật lực, tin lực, …vv, để đạt được tính cấp thiết, tính khả thi và tính hiệu quả.
7.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài kết hợp việc sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận, phương pháp nghiên cứu thực tiễn và phương pháp thống kê toán học dựa trên cơ sở khoa học về phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục của tác giả Dương Thiệu Tống (2013) [34], cụ thể như sau:
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận nhằm phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa lý luận có liên quan về HĐ BD HSNK và QL HĐ BD HSNK ở trường Phổ thông để làm cơ sở xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
- Mục đích điều tra: Đây là phương pháp chính để thu thập số liệu, dữ liệu về thực trạng QL HĐ BD HSNK ở một số trường THPT tại tỉnh Bình Phước nhằm chứng minh cho giả thuyết khoa học của đề tài; đồng thời để khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất.
- Đối tượng điều tra: CBQL Sở GD-ĐT; CBQL, GV ở 6 trường THPT tại tỉnh Bình Phước.
- Nội dung điều tra: Thực trạng HĐ BD HSNK và QL HĐ BD HSNK ở một số trường THPT tỉnh Bình Phước.
7.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn
- Mục đích phỏng vấn: Thu thập thông tin về công tác QL HĐ BD HSNK làm sáng tỏ thêm giả thuyết khoa học của đề tài. Đây là phương pháp bổ trợ cho phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
- Đối tượng phỏng vấn: CBQL và GV ở 6 trường THPT tại tỉnh Bình Phước.
- Nội dung phỏng vấn: Các nội dung QL HĐ BD HSNK
7.2.2.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phần mềm thống kê IBM SPSS 20 để xử lý, phân tích số liệu thu thập được từ phiếu trưng cầu ý kiến để nhận định,
đánh giá về thực trạng HĐ BD HSNK và thực trạng QL HĐ BD HSNK ở một số trường THPT tại tỉnh Bình Phước trên cơ sở tài liệu lý luận về thống kê ứng dụng trong kinh tế – xã hội của tác nhóm tác giả Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2019) [37] và tài liệu hướng dẫn về thống kê ứng dụng trong nghiên cứu tâm lí học của tác giả Nguyễn Thị Hảo (2023) [17].
8. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, mục lục, danh mục các chữ viết tắt và các bảng phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động BD HSNK và công tác quản lý hoạt động BD HSNK ở trường THPT
- Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động BD HSNK ở một số trường trường THPT tại tỉnh Bình Phước
- Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước
9. Đóng góp của đề tài Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Đề tài nghiên cứu sẽ góp phần vào việc bổ sung, tổng hợp và hệ thống những vấn đề lý luận liên quan đến HĐ BD HSNK ở các trường Phổ thông. Ngoài ra, nghiên cứu về QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước sẽ giúp giải quyết được một số vấn đề thực tiễn liên quan đến QL HĐ BD HSNK nói riêng và QL chuyên môn nói chung ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Tổng quan về các nghiên cứu ở nước ngoài
Việc phát hiện, tuyển chọn và BD HSNK đã được thực hiện từ rất lâu và rất được coi trọng ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển. Ngay từ bậc học phổ thông, các nhà trường đã đưa việc phát hiện, tuyển chọn và BD HSNK vào chiến lược GD. Nhiều nước xem BD HSNK là một dạng GD đặc biệt. Chính việc phát hiện, tuyển chọn và BD HSNK đã giúp các nước phát triển nhanh chóng [35].
Nghiên cứu của Graffam (2014) trên 2 nhóm GV giỏi, có kinh nghiệm và có thành tích tốt trong GD HSNK với những trải nghiệm khác nhau, đều đưa đến quan điểm chung về những việc mà họ cảm thấy cần thiết cho GD HSNK: (1) GD HSNK đòi hỏi GV phải xây dựng việc học cá nhân và việc học nhóm cùng lúc. (2) Cách thức mà một người thực hiện để thở thành GV dạy HSNK rất quan trọng: Kiến thức bản thân, đào tạo trước đây và phản xạ chuyên nghiệp sẽ giúp cho GVBD chuẩn bị các nhiệm vụ giảng dạy. (3) Một số yếu tố về tiêu chuẩn của việc GD năng khiếu mà được xem như là các khái niệm cá nhân thì được đúc kết trong việc thực hành của GV giỏi khi dạy HSNK. (4) Phát triển mối quan hệ giữa GVBD và HSNK là chìa khóa khơi dậy niềm đam mê, đưa tới các thách thức, thúc đẩy cao và sự đầu tư cá nhân cho quá trình học tập của HSNK [41].
Nghiên cứu của Ford (2014), cho rằng: Để giảm khoảng cách về thành tích học tập đối với 2 đối tượng HS khác nhau ở Hoa Kỳ (HS da trắng và HS da đen) thì trong GD HSNK cần: (1) Chính xác hóa chương trình GD. (2) Đảm bảo chất lượng GV và sự chuẩn bị cho HĐ GD. (3) Kinh nghiệm của GV và sự tham gia. (4) Số lượng HS trong lớp học. (5) Ứng dụng Công nghệ thông tin. (6) Sự an toàn trường học [42]. Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Nghiên cứu của Newfoundland và Bộ Giáo dục Labrador (2021), đã chỉ ra những quan niệm sai về GD HS năng khiếu và tài năng như: (1) HSNK là những người có thành tựu cao/thành tích tốt. (2) Tất cả HS/mọi người đều có năng khiếu và tài năng. (3) HSNK sẽ tốt dù có hay không có chương trình đặc biệt. (4) HSNK xuất thân từ những gia đình có điều kiện. (5) Học hợp tác hoặc các hình thức học nhóm khác là phương pháp hiệu quả đáp ứng được nhu cầu HSNK. (6) HSNK thường gặp khó khăn trong việc hòa đồng với bạn bè. (7) GD năng khiếu là chiếm lĩnh hàng đầu. Đồng thời đưa ra khái niệm “Năng khiếu” theo nghĩa hẹp và chỉ ra những đặc tính của HS có năng khiếu [43].
Tác giả Đỗ Ngọc Thống (2015), cho rằng: phần lớn các nước trên thế giới đều chú ý BD HSNK từ Tiểu học. Cách tổ chức dạy học cũng rất đa dạng: Có nước tổ chức thành lớp, trường riêng; một số nước tổ chức dưới hình thức tự chọn hoặc khóa học (course) học mùa hè; một số nước do các trung tâm tư nhân hoặc các trường đại học đảm nhận, …vv. Tuy vậy, cũng có một số nước không có trường lớp chuyên cho HSNK như Nhật Bản và một số bang của Hoa kỳ. Chẳng hạn: Từ 2001, với đạo luật “Không một đứa trẻ nào bị bỏ rơi” (No Child Left Behind) GD HSNK ở Georgia về cơ bản bị phá bỏ. Nhiều trường không còn là trường riêng, lớp riêng cho HSNK, với tư tưởng các HSNK cần có trong các lớp bình thường nhằm giúp các trường lấp lỗ hổng về chất lượng và nhà trường có thể đáp ứng nhu cầu GD HSNK thông qua các nhóm và các khóa học với trình độ cao. Chính vì thế, vấn đề BD HSNK đã trở thành vấn đề thời sự gây nhiều tranh luận, nhiều nhà GD đề nghị đưa HSNK vào các lớp bình thường với nhiều HS có trình độ và khả năng khác nhau, với một phương pháp GD như nhau [35].
Vấn đề mà tôi quan tâm và rút ra được qua việc nghiên cứu các tài liệu, bài viết về GD HSNK ở các nước phát triển, đó là, cách thức phát hiện, tuyển chọn và BD HSNK ở các nước rất đa dạng phong phú, có thể là tổ chức thành trường chuyên lớp chọn; có thể khuyến khích và hướng dẫn HS đam mê, sáng tạo, tự BD; có thể đưa vào tất cả các trường học bình thường với những lớp học bình thường,…vv. Tuy nhiên, tất cả các nước trên thế giới đều có một điểm chung là họ đều rất quan tâm đến việc phát hiện, tuyển chọn và BD HSNK để đào tạo ra những nhân tài phục vụ cho sự phát triển và phồn thịnh của Quốc gia. Cụ thể như sau:
Ở Mỹ, việc phát hiện, tuyển chọn, BD và sử dụng nhân tài được xác định thành chiến lược quốc gia, được đầu tư lớn và áp dụng rộng rãi từ HS phổ thông cho đến những người trưởng thành và thành đạt, trong đó khâu đào tạo và BD nhân tài trẻ tuổi được thực hiện rất hiệu quả thông qua các chương trình đào tạo nhân tài phổ biến trong các trường đại học lớn. Hình thức GD linh hoạt đối với HSNK được ghi nhận ở Mỹ đầu tiên là việc cho phép một số HSNK được học chương trình 6 năm chỉ trong vòng 4 năm tại Trường St. Public School Louis 1868. Trong Thế kỷ XX, tại Mỹ có hàng loạt các trung tâm nghiên cứu, BD HSNK được thành lập. Đến năm 2002, đã có 38 bang có đạo luật về GD HSNK (Gifted and Talented Student Act). Bên cạnh đó, Hoa Kỳ là một trong những quốc gia hàng đầu trong việc thu hút các HSNK từ nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam thông qua các chương trình học bổng du học. Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Các nước châu Âu như Anh, Pháp, Đức, Nga tiến hành phân loại đối tượng theo mức độ phát triển trí tuệ và áp dụng những chương trình GD đặc biệt đối với những đối tượng có năng lực trí tuệ cao. Một trong những điển hình của trường lớp đặc biệt kiểu này là trường Hành chính Quốc gia Pháp, nơi đào tạo nhiều quan chức cao cấp cho nhà nước Pháp và một số nước khác. Tại đây, việc bổ nhiệm chức vụ tương xứng ngay sau khi tốt nghiệp chương trình đào tạo đặc biệt được áp dụng một cách trực tiếp, thậm chí không cần cấp văn bằng, chứng chỉ cho học viên tốt nghiệp khoá học.
Đào tạo, BD tài năng cũng rất được chú trọng ở nhiều nước châu Á, trước hết là thông qua các trường lớp, chương trình GD chất lượng cao dành cho những HSNK và các kỳ thi tuyển chọn HSG.
Nhật Bản không có hệ thống trường riêng dành cho HSNK, nhưng Nhật Bản coi vận mệnh của nước mình trong tương lai là việc BD thế hệ thanh niên có đạo đức, có tài năng, có sức sáng tạo để gánh vác trọng trách của Thế kỷ XXI. Việc cạnh tranh suất vào các trường đại học danh tiếng đã trở nên rất gay gắt. Chính vì vậy, HS và các gia đình buộc phải nỗ lực đầu tư công sức, trí tuệ, tài chính cho việc học tập.
Ở Trung Quốc, từ năm 1985 người ta đã thừa nhận phải có chương trình GD đặc biệt dành riêng cho hai đối tượng khác nhau là HS yếu kém và HSNK, trong đó cho phép HSNK có thể học vượt lớp. Chiến lược phát triển nhân tài của Trung Quốc đã được triển khai từ rất sớm trên phạm vi cả nước. Chiến lược đó được thực hiện bài bản từ khâu tuyển chọn đến xây dựng chương trình, phương thức đào tạo, sử dụng và chế độ đãi ngộ, đặc biệt chú trọng gửi sinh viên, cán bộ tài năng đi du học và tu nghiệp dài hạn, ngắn hạn ở những nước phát triển.
1.1.2. Tổng quan về các nghiên cứu trong nước Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Ở Việt Nam, GD HSNK là một nội dung quan trọng của ngành GD-ĐT được quy định trong các Văn kiện của Đảng, Điều lệ trường trung học cơ sở, THPT và trường Phổ thông có nhiều cấp học và trong nhiệm vụ trọng tâm năm học của Bộ GD-ĐT, Sở GD-ĐT. Với phạm vi nghiên cứu có hạn, chúng tôi nhận thấy có một số tác giả sau nghiên cứu vấn đề này:
Về GD HSNK, tác giá Đỗ Tiến Đạt (2018), đã phân tích kỹ giáo dục năng khiếu ở Hoa Kỳ và Hồng Kông, tìm hiểu khái quát một số nước châu Âu, châu Úc và châu Á để xác định xu thế BD HSNK trên thế giới. Đồng thời, tổng kết kinh nghiệm và tìm hiểu nhu cầu về GD năng khiếu ở Việt Nam. Có thể tóm lược những nội dung cơ bản trong nghiên cứu của ông như sau: (1) Các nước phát triển và Việt Nam đều rất coi trọng GD năng khiếu. Điều này thể hiện ở các điều Luật, ở chương trình GD năng khiếu riêng. (2) Các nước đều cho rằng, năng khiếu thường nảy nở từ rất sớm nên phát triển hệ thống nhận dạng, phát hiện năng khiếu từ tiểu học là một nhiệm vụ trọng đại quốc gia. (3) Việt Nam và tất cả các quốc gia khác đều phát triển chương trình giáo dục năng khiếu từ chương trình giáo dục phổ thông. [47]
Tác giả Kim Ngọc Minh (2021), đã nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp tiền đề trong phát triển giáo dục năng khiếu và tài năng tại Việt Nam, có tính đến hướng liên kết và thúc đẩy phát triển trong khu vực ASEAN, áp dụng các mô hình thành công quốc tế tại Hoa Kỳ, Châu Âu và Úc, nghiên cứu của ông đề cập đến 3 vấn đề: (1) Tại sao phải xác định GD năng khiếu và tài năng như là một hướng ưu tiên thực sự ?. (2) Một số giải pháp tiền đề trong GD năng khiếu và tài năng ?. (3) Hướng tới việc thành lập Cộng đồng ASEAN trong thời gian gần, việc thiết lập mô hình nghiên cứu và ứng dụng mang tầm khu vực về GD năng khiếu và tài năng là điều cần thiết [46].
Chúng tôi tìm hiểu và nhận thấy những nghiên cứu về QL HĐ BD HSNK chủ yếu là nghiên cứu khoa học của các học viên cao học trong luận văn tốt nghiệp thạc sỹ khoa QLGD, với một số đề tài sau:
Tác giả Đỗ Thị Ba (2021), đã nghiên cứu thực trạng QL BD HSG ở 3 trường THPT ở thành phố Hồ Chí Minh (Trung Phú, Củ Chi và An Nhơn Tây); từ đó đề xuất 5 giải pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng HSG ở một số trường THPT huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh với các nguyên tắc: mục tiêu, toàn diện, thực tiễn và hiệu quả [1].
Tác giả Bạch Ngọc Linh (2023), đã nghiên cứu thực trạng HĐ BD HSG và QL HĐ BD HSG ở các trường THPT chuyên vùng Đông Nam Bộ (THPT chuyên Quang Trung – Bình Phước, THPT chuyên Lương Thế Vinh – Đồng Nai, THPT chuyên Lê Quý Đôn – Bà Rịa Vũng Tàu). Từ đó, đề xuất sáu nhóm biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả QL HĐ BD HSG bao gồm: Nâng cao nhận thức cho đội ngũ CBQL, GV, HS và gia đình HS về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của HĐBDHSG; Đẩy mạnh QL HĐ dạy BDHSG của GV; Thúc đẩy QL HĐ học BD của HSG; Chú trọng việc BD năng lực dạy chuyên cho đội ngũ GV; Tăng cường quản lý CSVC, phương tiện dạy học; Xây dựng và hoàn thiện chế độ đãi ngộ, tạo động lực cho đội ngũ GV và HSG. [27]
Tác giả Nguyễn Văn Dũng (2023), đã nghiên cứu thực trạng QL HĐ BD HSG ở trường THPT chuyên Thái Bình trong bối cảnh đổi mới GD hiện nay và đề xuất 6 biện pháp nâng cao hiệu quả QL HĐ BD HSG ở trường THPT chuyên Thái Bình, bao gồm: Phát hiện, tuyển chọn, thành lập đội dự tuyển và đội tuyển; Thu hút, tuyển chọn và BD GV dạy chuyên; Xây dựng chương trình, kế hoạch giảng dạy, tổ chức thực hiện công tác HSG; Đầu tư cơ sở vật chất cho công tác HSG; Xã hội hóa trong công tác HSG; Kiểm tra, đánh giá HĐ BD HSG [11].
Tác giả Đoàn Quang Hải (2023), đã nghiên cứu làm rõ thực trạng QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, từ đó đã đề xuất 6 biện pháp QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT thành phố Cẩm Phả trên cơ sở đảm bảo tính kế thừa, tính phù hợp, tính hiệu quả và tính khả thi [16].
Như vậy, GD HSNK, đào tạo và phát triển nhân tài đã được thực hiện rất lâu trên toàn thế giới, đã có những bài nghiên cứu, bài báo ở trong nước và nước ngoài nghiên cứu về GD HSNK và công tác QL HĐ BD HSNK. Tuy nhiên, nghiên cứu về HĐ BD HSNK và QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT không chuyên chưa nhiều, đặc biệt tại tỉnh Bình Phước, chưa có bất kỳ một đề tài khoa học nào nghiên cứu về HĐ BD HSNK và QL HĐ BD HSNK tại các trường THPT không chuyên của tỉnh. Vì vậy, trong đề tài này, chúng tôi muốn đi sâu khảo sát, đánh giá thực trạng QL HĐ BD HSNK ở một số trường THPT tỉnh Bình Phước, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước.
1.2. Những khái niệm cơ bản Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
1.2.1. Quản lý
Có rất nhiều tác giả, nhà nghiên cứu tiếp cận thuật ngữ QL với những góc nhìn khác nhau. Vì vậy, định nghĩa về QL rất đa dang, phong phú.
Theo Từ điển Giáo dục học, nhà xuất bản Từ điển Bách khoa Hà Nội, (2001): “QL là HĐ hay tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể QL đến khách thể QL trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [39, tr.326].
Mary Parker Follett đã đưa ra định nghĩa khá nổi tiếng về quản lý: “QL là nghệ thuật hoàn thành công việc thông qua người khác” [22, tr.12]. Và một định nghĩa được chấp nhận khá rộng rãi khác về quản lý xét dưới góc độ chức năng:“QL là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên trong tổ chức và sử dụng mọi nguồn lực có sẵn của tổ chức để đạt được những mục tiêu của tổ chức” (Stoner, 1995) [22, tr.12]. Một số tác giả cho rằng:“QL là tập hợp các hoạt động (bao gồm cả lập kế hoạch, ra quyết định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra) nhằm sử dụng tất cả các nguồn lực của tổ chức (con người, tài chính, vật chất và thông tin) để đạt được những mục tiêu của tổ chức một cách có hiệu quả” (Griffin, 1998) [22, tr.13].
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí – Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “QL là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” [8, tr.9].
Như vậy, mặc dù khái niệm QL được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau nên có khác nhau về cách diễn đạt nhưng đều có những điểm chung và được nhiều giáo trình, nhà nghiên cứu sử dụng, đó là: QL được xem là quá trình tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể QL đến đối tượng QL nhằm sử dụng tất cả các nguồn lực của tổ chức (con người, tài chính, vật chất và thông tin) để đạt được những mục tiêu của tổ chức. [20].
Tiếp cận theo chức năng QL, thì Quản lý được xem là quá trình lập Kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên trong tổ chức và sử dụng mọi nguồn lực có sẵn của tổ chức để đạt được những mục tiêu của tổ chức. Các chức năng QL cơ bản được tác giả Nguyễn Lộc (2018) nghiên cứu cụ thể như sau:
Chức năng lập kế hoạch: Đây là chức năng đầu tiên của hoạt động QL để xác định giai đoạn cho các chức năng tiếp theo. Đó là quá trình quyết định một cách chính xác những gì ta muốn thực hiện và các thức tốt nhất để đạt được mục tiêu [22, tr.72]
Chức năng tổ chức: Tổ chức là một chức năng cơ bản của QL. Đó là quá trình sắp xếp con người và các nguồn lực để cùng nhau làm việc nhằm đạt tới một mục tiêu cụ thể. Quá trình này liên quan đến việc tạo ra sự phân công lao động thực hiện các nhiệm vụ và việc điều phối các kết quả nhằm đạt được mục tiêu chung. [19, tr.125]
Chức năng chỉ đạo (lãnh đạo): Hướng dẫn, chỉ đạo, điều khiển. Là quá trình khích lệ mọi người cùng cố gắng làm việc để hoàn thành các nhiệm vụ quan trọng thông qua việc nhà QL đề ra các chủ trương, đường lối, nguyên tắc hoạt động và vận hành các hoạt động của nhà trường. [22, tr.155] Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Chức năng kiểm tra: Đó là quá trình đo lường việc thực hiện và hành động để đảm bảo những kết quả mong muốn. Mục đích của kiểm tra là minh bạch – để đảm bảo các kế hoạch được thực hiện đầy đủ và việc thực hiện đó đáp ứng hoặc vượt các mục tiêu. Nền tảng của kiểm tra là thông tin. [22, tr.189]
Bốn chức năng QL trên đây có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đan xen lẫn nhau, khi thực hiện chức năng này thường cũng có mặt các chức năng khác ở các mức độ khác nhau. Mối quan hệ giữa các chức năng QL được minh họa trong sơ đồ sau:
Hình 1.1. Sơ đồ mối quan hệ giữa các chức năng quản lý
1.2.2. Bồi dưỡng, hoạt động bồi dưỡng
1.2.2.1. Bồi dưỡng
Theo Từ điển Giáo dục học, nhà xuất bản Từ điển bách khoa Hà Nội (2001), Bồi dưỡng được xem là quá trình trang bị thêm kiến thức, kỹ năng nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện năng lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể [39].
Như vậy, Bồi dưỡng chính là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp bậc đào tạo nhằm bổ sung, bồi đắp những thiếu hụt về tri thức, cập nhật cái mới trên cơ sở “nuôi dưỡng” những cái đã có để mở mang chúng, làm cho chúng phát triển thêm, có giá trị làm tăng hệ thống những tri thức, kỹ năng, nghiệp vụ, làm giàu vốn hiểu biết, nâng cao hiệu quả học tập và lao động.
1.2.2.2. Hoạt động bồi dưỡng
Hoạt động được hiểu là một tổ hợp các quá trình con người tác động vào đối tượng nhằm đạt mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất định và chính kết quả của hoạt động là sự cụ thể hóa nhu cầu của chủ thể. Nói cách khác, hoạt động là mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể, bao gồm quá trình khách thể hóa chủ thể và quá trình chủ thể hóa khách thể.
Hoạt động bồi dưỡng là quá trình làm tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất cho đối tượng bồi dưỡng; là việc duy trì và hoàn thiện kết quả học tập của HS hiện có, đang diễn ra.
1.2.3. Học sinh năng khiếu, học sinh giỏi Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
- Năng khiếu, tài năng
Tác giả Đỗ Ngọc (2015), đã nghiên cứu về GD HSNK ở các nước phát triển và tổng hợp được một số quan niệm liên quan đến khái niệm HSG/HSNK như sau [35]:
Nhìn chung các nước đều dùng hai thuật ngữ chính là gift (giỏi, có năng khiếu) và talent (tài năng) để chỉ HSNK.
Cơ quan GD Hoa Kỳ miêu tả khái niệm HSNK như sau: Đó là những học sinh có khả năng thể hiện xuất sắc hoặc năng lực nổi trội trong các lĩnh vực trí tuệ, sự sáng tạo, khả năng lãnh đạo, nghệ thuật, hoặc các lĩnh vực lý thuyết chuyên biệt. Những HS này thể hiện tài năng đặc biệt của mình từ tất cả các bình diện xã hội, văn hóa và kinh tế.
Nhiều nước quan niệm: HSNK là những đứa trẻ có năng lực trong các lĩnh vực trí tuệ, sáng tạo, nghệ thuật và năng lực lãnh đạo hoặc lĩnh vực lý thuyết. Những HS này cần có sự phục vụ và những hoạt động không theo những điều kiện thông thường của nhà trường nhằm phát triển đầy đủ các năng lực vừa nêu trên.
- Nghiên cứu của Tác giả Đỗ Tiến Đạt (2018) [15], cho rằng:
Năng khiếu là những thuộc tính nhân cách cho phép con người có thể hoạt động với chất lượng cao, nhưng có tính chất bẩm sinh, di truyền.
Tài năng cũng là những thuộc tính nhân cách cho phép con người tạo ra sản phẩm có chất lượng cao và mới đối với xã hội, nhưng phải qua quá trình học tập và rèn luyện. Cấu trúc của tài năng gồm bốn thành tố là: Trí thông minh, tính sáng tạo, năng lực chuyên biệt và động cơ hoạt động.
Tài năng là những thuộc tính nhân cách có thể GD, đào tạo được và phải bắt đầu từ những HSNK.
Tác giả Kim Ngọc Minh (2021) đã giới thiệu một số quan điểm về năng khiếu và tài năng [44]:
Quan điểm của Gagné (1985, trong NAGC, 2019), trong đó, ông phân biệt năng khiếu như là việc có khả năng thiên phú (natural abilities) ở ít nhất một khía cạnh năng lực cơ bản (về trí tuệ và/hoặc thể chất ở dạng tiềm năng) và tỉ lệ % số trẻ em được coi là năng khiếu trong cùng độ tuổi là khoảng 10%. Trong khi đó, tài năng được ông chỉ ra là có năng lực một cách hệ thống hay kĩ năng, kiến thức nổi trội được xác định bằng thành tựu (performance) trong một hoặc một vài lĩnh vực cụ thể, với khoảng 10% số lượng người được coi là tài năng so với tổng số trong cùng độ tuổi. Gagné cũng là tác giả tiêu biểu chỉ rõ tiến trình phát triển tài năng (talent development) từ khả năng tự nhiên (năng khiếu) tới thành tựu (tài năng), trong đó các yếu tố xúc tác từ môi trường và bản thân cá nhân năng khiếu đều tác động lên quá trình này.
Hiệp hội trẻ em năng khiếu Hoa Kỳ dùng chung khái niệm “gifted” (năng khiếu) để chỉ ra rằng cá nhân năng khiếu là những người thể hiện mức độ vượt trội về tiềm năng (Xác định bằng khả năng xuất sắc trong tư duy và học hỏi) hoặc năng lực (Thành tựu cá nhân được ghi nhận hoặc thành tích nằm trong top 10% hoặc ít hơn) trong một hoặc nhiều lĩnh vực (Cả học thuật lẫn nghệ thuật, thể thao). Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Theo Freeman (2019), ở góc độ quan niệm chung, có những nơi cho rằng có một tỷ lệ nhỏ trong tổng số dân nói chung có năng khiếu, trong khi đó ở nơi khác cho rằng, mọi đứa trẻ đều tiềm ẩn năng khiếu và miễn là nỗ lực chăm chỉ thì tài năng sẽ phát lộ.
Newfoundland và Bộ Giáo dục Labrador (2021), Giảng dạy HS năng khiếu và tài năng, (“Teaching Student Who Are Gifted And Talented”), nghiên cứu và đưa ra khái niệm năng khiếu theo nghĩa hẹp, họ cho rằng: (1) Những HS có năng khiếu thì thể hiện hoặc có tiềm năng thể hiện khả năng xuất chúng trong việc học, sáng tạo hoặc thể hiện; (2) HS có năng khiếu sẽ có năng lực nhận thức hơn mức trung bình thể hiện phổ biến (Ở nhiều lĩnh vực) hoặc trong một lĩnh vực đặc biệt. Năng khiếu có thể rõ ràng (Nhưng ko giới hạn) ở những lĩnh vực: Ngôn ngữ; Tư duy – Toán học; Không gian; Âm nhạc; Cảm giác về chuyển động cơ thể; Quan hệ giữa các cá nhân; Nội tâm; Tính tự nhiên [40].
Như vậy, chưa có một sự thống nhất ở mức quốc tế nào về khái niệm “Năng khiếu”, qua nghiên cứu những quan điểm về năng khiếu được trình bày ở trên, trong đề tài nghiên cứu, khái niệm HSNK được xem là đối tượng HS có tư chất thông minh, có tiềm năng ở một môn học khoa học hoặc một vài môn khoa học (Có liên quan), có khả năng sáng tạo, có động cơ học tập mãnh liệt, có năng lực tự học, cần được phát hiện và được GD với những hình thức GD đặc biệt để đạt được trình độ tương ứng với tư chất sẵn có của HS và đặc biệt là có thể đạt được kết quả cao trong các kỳ thi chọn HSG các cấp. Đây là lực lượng có thể BD để phát triển nhân tài cho xã hội. HSNK có thể học bằng nhiều cách khác nhau và tốc độ nhanh hơn bình thường, vì thế cần có một chương trình chuyên sâu để đáp ứng được sự phát triển tài năng của họ.
- Học sinh giỏi
Luật bang Georgia (Hoa Kỳ) định nghĩa: HSG là học sinh chứng minh được trí tuệ ở trình độ cao và có khả năng sáng tạo, thể hiện một động cơ học tập mãnh liệt và đạt xuất sắc trong lĩnh vực lý thuyết/khoa học; người cần một sự GD đặc biệt và sự phục vụ đặc biệt để đạt được trình độ tương ứng với năng lực của người đó (Georgia Law) [35]. Đây cũng là khái niệm được tác giả Trần Thị Tuyết Mai và các cộng sự (2023) sử dụng trong giáo trình Tài liệu học tập bồi dưỡng cán bộ quản lí trường phổ thông [25, tr.103]. Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Trong đề tài này, chúng tôi tiếp cận khái niệm HSG là những HS có năng khiếu trong các môn khoa học, được phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng và đạt được những thành tích cao trong các kỳ thi HSG các cấp.
1.2.4. Hoạt động bồi dưỡng học sinh năng khiếu trong trường phổ thông
Từ những khái niệm trên có thể hiểu: Hoạt động BD HSNK là quá trình phát triển ở HSNK những tố chất vượt trội, hứng thú và khát vọng thực hiện các hoạt động trí tuệ với mức độ cao nhất, giúp HSNK có điều kiện khẳng định năng lực thực sự của mình; Trong hoạt động BD HSNK, GV là người chủ động tạo ra môi trường và những điều kiện thích hợp cho HSNK phát huy cao độ nội lực, trí tuệ của mình, đi đôi với việc tiếp nhận một cách thông minh, hiệu quả ngoại lực (người thầy có vai trò quan trọng hàng đầu trong môi trường có tính ngoại lực), mà cốt lõi là giúp cho người học về phương pháp, biết cách học, cách nghiên cứu, cách tư duy, cách tự đánh giá, tận dụng phương tiện hiện đại nhất chủ động tìm kiếm, thu thập và xử lý thông tin để tự học, tự bồi dưỡng.
1.2.5. Quản lý hoạt động bồi dưỡng học sinh năng khiếu trong trường phổ thông
Quản lý HĐ BD HSNK là những tác động của chủ thể quản lý vào hoạt động bồi dưỡng HSNK nhằm đạt được mục đích BD HSNK trong nhà trường.
Chủ thể quản lý hoạt động bồi dưỡng HSNK là: HT, PHT, các TTCM.
Đối tượng quản lý hoạt động bồi dưỡng HSNK là: Hoạt động dạy bồi dưỡng của GV và hoạt động học bồi dưỡng của HSNK.
Đề tài nghiên cứu công tác QL HĐ BD HSNK theo các nội dung quản lý, bao gồm: QL kế hoạch và chương trình; QL việc phát hiện và tuyển chọn HSNK, QL hoạt động dạy BD HSNK của GV; QL hoạt động học BD của HSNK; QL kiểm tra đánh giá kết quả học BD của HSNK; QL sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK; QL hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho GV; QL một số yếu ảnh hưởng đến HĐ BD HSNK.
1.3. Lý luận về hoạt động bồi dưỡng HSNK ở trường Phổ thông Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
1.3.1. Tầm quan trọng của hoạt động bồi dưỡng HSNK
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1986) đã chỉ rõ: Nhân tài không phải là sản phẩm tự phát mà phải được phát hiện và BD công phu. Nhiều tài năng sẽ bị mai một nếu không được phát hiện và sử dụng đúng lúc, đúng chỗ… [12]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2023) đã xác định mục tiêu của ngành GD-ĐT, trong đó chỉ rõ, BD nhân tài là một trong ba chân kiềng quan trọng của giáo dục Việt Nam đó là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài [13]. Và giáo dục HSNK trong các trường phổ thông là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện thành công nhiệm vụ BD nhân tài của ngành GD- ĐT . Thông qua HĐ BD HSNK, HS sẽ được lĩnh hội hệ thống kiến thức chuyên sâu và có điều kiện thuận lợi để phát huy tối đa khả năng của bản thân trong những môn học có ưu thế.
Bên cạnh đó, xét về góc độ nhà trường, chúng tôi nhận thấy, trong một nhà trường, HSNK sẽ là những lớp học sinh ưu tú, tiêu biểu cả về năng lực, phẩm chất đạo đức, khả năng giải quyết vấn đề, khả năng vượt khó vươn lên và là tấm gương sáng, gần gũi nhất để HS toàn trường học tập, noi theo. Xa hơn nữa, các em sẽ là những chủ nhân tương lai của đất nước, những con người thành đạt, mang lại uy tín và thương hiệu cho nhà trường. Các em còn hứa hẹn sẽ trở về để chung tay góp sức xây dựng nhà trường, hỗ trợ cho các thế hệ học trò sau.
Ngoài ra, HĐ BD HSNK còn góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo cả về năng lực chuyên môn cũng như nghiệp vụ sư phạm và phương pháp giảng dạy. Bởi lẽ, để có được những HSG thì trước tiên người GVBD phải tự học, tự đào tạo và không ngừng sáng tạo để nâng cao chuyên môn, rèn luyện kỹ năng sư phạm. Một khi đã có thầy giáo giỏi thì tất cả các thế hệ HS đều được hưởng thụ, đó chính là thành quả sâu xa mà giáo dục HSNK mang lại.
Như vậy, HĐ BD HSNK có tác động tích cực đến quá trình dạy và học, tạo động lực, làm nòng cốt trong phong trào thi đua dạy tốt, học tốt; kích thích ý chí vươn lên đỉnh cao thành tích học tập, rèn luyện, góp phần giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh, hướng tới thực hiện mục tiêu giáo dục bồi dưỡng nhân tài. Ngoài ra, HĐ BD HSNK còn góp phần đào tạo đội ngũ GV vừa tâm huyết yêu nghề, vừa có trình độ chuyên môn vững vàng; góp phần quan trọng nâng cao uy tín về trí tuệ, về truyền thống thông minh, hiếu học của dân tộc Việt Nam; củng cố và phát triển hệ thống giáo dục HSNK của các trường phổ thông trong cả nước.
1.3.2. Mục đích của hoạt động bồi dưỡng HSNK
Trên cở sở nghiên cứu quy chế thi chọn HSG cấp quốc gia (2019), tác giả xác định mục đích của hoạt động BD HSNK trong nhà trường nhằm: Động viên, khích lệ những HS học giỏi và các GV dạy giỏi; góp phần thúc đẩy việc cải tiến, nâng cao chất lượng dạy và học, chất lượng của công tác QL, chỉ đạo của các cấp QLGD; đồng thời nhằm phát hiện HS có năng khiếu về môn học để tiếp tục BD ở cấp học cao hơn, nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước [4].
1.3.3. Mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức bồi dưỡng HSNK và hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học bồi dưỡng của HSNK Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
1.3.3.1. Mục tiêu bồi dưỡng HSNK
Bồi dưỡng HSNK giúp HS hoàn thiện tri thức, phát huy hơn nữa những tiềm năng năng khiếu của mình nhằm phát triển phương pháp suy nghĩ ở trình độ cao phù hợp với khả năng trí tuệ; bồi dưỡng sự lao động, làm việc sáng tạo cho học sinh; Phát triển các kĩ năng, phương pháp và thái độ tự học suốt đời cho học sinh; nâng cao ý thức và khát vọng của HS về sự tự chịu trách nhiệm; khuyến khích sự phát triển về lương tâm và ý thức trách nhiệm trong đóng góp xã hội của HS. Phát triển phẩm chất lãnh đạo,…vv.
1.3.3.2. Nội dung bồi dưỡng HSNK
Căn cứ trên mục tiêu bồi dưỡng HSNK, nội dung thi chọn HSG các cấp, HT chỉ đạo các TCM chủ động xây dựng chương trình, nội dung BD HSNK đồng thời hướng dẫn GV tham gia BD HSNK biên soạn nội dung, chương trình BD HSNK lớp mình phụ trách. BGH cần chú trọng khâu phê duyệt nội dung, chương trình BD HSNK của từng TCM, từng GV; kiểm soát việc cập nhật, bổ sung tư liệu bồi dưỡng, yêu cầu cao việc đầu tư biên soạn tài liệu, giáo trình BD HSNK. Đồng thời kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các nội dung, chương trình BD HSNK đã được phê duyệt. Ngoài chương trình sách giáo khoa và tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học, GV cần tăng cường thời lượng thực hành, thí nghiệm, ngoại khóa cho HSNK; cần tăng cường BD cho HS các chuyên đề, các bài tập nâng cao, các bài tập hay và khó, tìm tòi kiến thức nâng cao và tham gia các diễn đàn giáo dục, cuộc thi trực tuyến trên Internet,…vv, đảm bảo kiến thức nâng cao phải dựa trên nền tảng nắm vững kiến thức cơ bản. Cùng với sự nghiên cứu của tác giả Bạch Ngọc Linh (2023), chúng tôi xác định việc xây dựng chương trình BD HSNK ở các trường THPT cần thể hiện đầy đủ các nội dung sau:
- Các nội dung BD phẩm chất đạo đức: BD cho HS về động cơ học tập đúng đắn, trong sáng, có tinh thần trách nhiệm, say mê khoa học, khiêm tốn, tinh thần chủ động cao, kiên trì nhẫn nại, độc lập suy nghĩ và hành động.
- Các nội dung BD kiến thức nâng cao: Mở rộng và nâng cao phạm vi kiến thức của một môn học trên cơ sở chương trình chính khóa HS đã tiếp thu.
- Các nội dung nhằm phát triển năng lực trí tuệ, tư duy, sáng tạo: Rèn luyện cho HS năng lực tư duy, khả năng tưởng tượng, phân tích tổng hợp sự vật, hiện tượng có tính hệ thống và chính xác, có khả năng trừu tượng hóa, khả năng tiếp thu nhanh và sáng tạo. Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
- Các nội dung nhằm rèn luyện, phát triển kỹ năng, kỹ xảo: Rèn luyện kỹ năng nhận và xử lý thông tin, trình bày vấn đề mạch lạc, biết phán đoán đề ra phương án giải quyết nhanh chóng chính xác; linh hoạt về ngôn ngữ, vận dụng sáng tạo lý thuyết vào thực hành.
- Các nội dung nhằm phát triển lòng đam mê môn học, hứng thú học tập: GV BD HSNK không chỉ đơn thuần là truyền đạt kiến thức cho HS mà còn khơi dậy cho HS lòng đam mê, hứng thú đối với môn học mình dạy. Đây là thái độ đặc biệt cần có của HSNK trong hoạt động học tập.
1.3.3.3. Phương pháp bồi dưỡng HSNK
Theo tác giả Đỗ Tiến Đạt (2018), phương pháp GD phù hợp với HSNK là các phương pháp dạy học tích cực như dạy học theo dự án, dạy học theo hướng giải quyết vấn đề, phát triển phong cách làm việc nhóm, hợp tác, cộng tác, … v.v, [15]. Trong đó cần lưu ý vận dụng linh hoạt các phương pháp sau:
- Dạy học phân hóa: GV phân loại đối tượng HS của từng lớp để có phương pháp giảng dạy phù hợp với từng nhóm đối tượng, thậm chí từng HS ngay trong các tiết học chính khóa. Trong các tiết học chính khóa, GV cần sử dụng các câu hỏi tư duy bậc cao đòi hỏi HS phải phân tích, tổng hợp, đánh giá và sáng tạo để phát hiện và BD HSNK. Thiết kế các bài tập, nhiệm vụ chuyên biệt cho từng nhóm HS, từng HS khác nhau để các em phát huy khả năng độc lập, sáng tạo của bản thân.
- Sử dụng KTĐG như một công cụ dạy học nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của HS. Kế hoạch KTĐG cần được xây dựng chi tiết, cụ thể đến từng lớp, từng môn. Đề kiểm tra cần được xây dựng theo ma trận, trong đó chú trọng các dạng câu hỏi mở, các dạng câu hỏi đòi hỏi HS vận dụng kiến thức, kỹ năng vào thực tiễn.
- Hướng dẫn và kiểm tra việc tự học, tự nghiên cứu của HS/nhóm HS trong suốt quá trình BD.
1.3.3.4. Hình thức bồi dưỡng HSNK Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Lịch sử phát triển của loài người đã chứng tỏ rằng thế hệ trước muốn truyền lại kiến thức, kinh nghiệm về mọi mặt cho lớp người sau thì phải qua các hình thức GD-ĐT thích hợp. Vì vậy, đối với HSNK ở trường THPT cần phải có những hình thức BD phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của các em, phù hợp với mục tiêu, nội dung, phương pháp GD-ĐT ở bậc học THPT. Các hình thức BD HSNK rất đa dạng, phong phú, song có thể tổ chức BD HSNK dưới ba hình thức cơ bản, đó là: (1) Học trong trường/lớp bình thường, với cùng chương trình, tài liệu và phương pháp dạy học; (2) Học trong trường/lớp riêng, với chương trình, tài liệu và phương pháp dạy học riêng; (3) Dung hòa giữa hai xu thế trên; trong đó xu thế thứ ba đang là phổ biến [15]. Cụ thể như sau:
BD HSNK trên trường/lớp học bình thường ở những giờ học chính khóa: Kiến thức, kỹ năng mà HS đạt được trong các tiết học chính khóa là nền tảng cơ bản nhất để tiếp tục được BD, phát triển và nâng cao trong các hình thức khác. Vì vậy, HT cần chỉ đạo GV lựa chọn, điều chỉnh nội dung dạy học trên lớp để có sự phân hóa phù hợp với nhu cầu nhận thức của HSNK.
Ưu điểm của hình thức này là việc cung cấp kiến thức để BD HSNK ngay trên lớp học bình thường là trách nhiệm của GV. Sự phát triển nhân cách của HS luôn có sự thay đổi nên lớp học bình thường là chỗ dựa tốt nhất để tiếp nhận sự biến đổi đó và để BD sự phát triển toàn diện. Tính toán nhanh nhẹn, sáng tạo và tư duy logic tốt của HSNK có tác dụng kích thích tốt đến chất lượng của HS toàn lớp. HSNK có nhận thức sâu sắc, sáng tạo hơn HS bình thường nên luôn làm phong phú hơn những tình huống diễn ra trên lớp, tạo không khí học tập và hứng thú dạy học cho thầy và trò. Tuy nhiên, với hình thức này thì GV sẽ gặp khó khăn trong việc điều khiển lớp học nhiều trình độ, ở thời điểm này chú ý tới đối tượng HS yếu kém thì bỏ rơi HSNK và ngược lại. HSNK dễ bằng lòng với kết quả đạt được với điểm số cao nhưng đánh giá chất lượng ở mức thấp BD theo đội tuyển riêng: Sắp xếp học sinh theo các nhóm đặc biệt có sự tương đồng về năng khiếu, thành tích, năng lực, hứng thú, động cơ. Các nhóm HS này được BD riêng mỗi tuần một hoặc hai buổi.
Ưu điểm của hình thức này là giảm bớt sự khác biệt giữa các cá nhân trong nhóm, cho phép dễ áp dụng thử nghiệm các nội dung học ở mức độ cao hơn. HS được phát huy hết khả năng nhận thức của mình, tạo nhiều cơ hội để kích thích học sinh trao đổi những năng lực, thành tích, hứng thú và phán đoán. Tuy nhiên, nếu không quản lý tốt HS dễ rơi vào tình trạng học quá sức, học lệch và xu hướng BD các em thành các thợ Toán, thợ Văn,…vv dễ xảy ra.
Ngoài ra, các trường THPT còn tổ chức BD HSNK thông qua các hình thức bổ trợ như tổ chức các câu lạc bộ học thuật; hướng dẫn HS tham gia các diễn đàn trên mạng Internet, tham gia các hội thi sáng tạo như vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình huống thực tiễn, khoa học kỹ thuật dành cho HS trung học, sáng tạo thanh thiếu niên; tổ chức các cuộc thi theo chương trình của các cuộc thi như “Rung chuông vàng”, “Đường lên đỉnh Olympia”, “Thực hiện ước mơ”; tham gia các cuộc thi trực tuyến, … v.v. Bên cạnh đó, đối với những HS có khả năng nhận thức vượt trội đặc biệt, nhà trường có thể tổ chức BD riêng với những nội dung và thời gian khác biệt với những HS khác. Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
1.3.3.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả học BD của HSNK
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận được trang bị trong học phần Đánh giá và kiểm định chất lượng trong GD của giảng viên Nguyễn Đức Danh (2024) tại lớp cao học QLGD, Trường đại học Thủ Dầu Một [10] và nghiên cứu của tác giả Trần Thị Tuyết Mai và cộng sự (2021) [25], chúng tôi xây dựng lý luận cho HĐ KTĐG kết quả học BD của HSNK như sau:
Kiểm tra và đánh giá kết quả học BD của HSNK là hai khâu quan trọng của một quy trình thống nhất nhằm xác định mục tiêu BD HSNK. Trong quá trình thực hiện phải đảm bảo 3 yêu cầu cơ bản đó là: Tính minh bạch, tính tin cậy và tính giá trị.
Cũng như hoạt động dạy học, GVBD, TCM và nhà trường phải lên kế hoạch và tổ chức thực hiện KTĐG kết quả học BD của HSNK bằng những phương pháp và hình thức kiểm tra khác nhau như thực hiện các bài kiểm tra truyền thống theo hình thức kiểm tra tự luận và kiểm tra trắc nghiệm, đồng thời sử dụng các bài kiểm tra thực tế thông qua việc đánh giá thái độ học tập, ý thức tổ chức kỹ luật của HS, làm các bài kiểm tra thực hành, các bài tập nhóm, các bài tiểu luận, đồ án để HSNK sáng tạo và vận dụng kiến thức đã học để giải quyết những công việc trong thực tiễn cuộc sống nhằm phát triển các kỹ năng mềm của HS, nhờ đó tạo hứng thú học tập và nghiên cứu cho HS.
HĐ KTĐG kết quả học BD của HSNK trước tiên được thực hiện để phát hiện và tuyển chọn HSNK thông qua các bài kiểm tra nhanh tại lớp và thông qua kỳ thi chọn đội tuyển, tiếp theo được thực hiện thường xuyên trong quá trình học BD. Bên cạnh đó, thông thường mỗi năm học nhà trường cần phải tổ chức kiểm tra chất lượng đội tuyển HSNK vài lần để sàng lọc, bổ sung đội tuyển, đồng thời điều chỉnh phương pháp dạy BD của GV, phương pháp học BD của HS, phương pháp QL của
1.4. Các nội dung quản lý hoạt đồng bồi dưỡng HSNK ở trường phổ thông
Trên cơ sở nghiên cứu của tác giả Trần Thị Tuyết Mai và cộng sự (2021) [25], chúng tôi xây dựng cơ sở lý luận về các nội dung QL HĐ BD HSNK ở trường phổ thông như sau:
1.4.1. Quản lý kế hoạch và chương trình bồi dưỡng HSNK Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Kế hoạch BD HSNK là văn bản quy định trình tự BD, thời gian BD cho từng đội tuyển trong từng năm học, từng tháng và từng tuần học.
Chương trình BD HSNK là văn bản quy định mục tiêu BD, nội dung BD, xác định phương pháp, phương tiện BD và KTĐG kết quả học BD của HSNK.
Đối với HĐ BD HSNK không có khung chương trình như hoạt động dạy học chính khóa. Vì vậy, việc QL kế hoạch và chương trình BD HSNK gặp không ít khó khăn. Để QL kế hoạch, chương trình BD HSNK, HT cần đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nội dung sau:
- Thành lập Ban chỉ đạo xây dựng kế hoạch, chương trình BD
- HT chỉ đạo PHT xây dựng kế hoạch HĐ BD HSNK trong nhà trường và triển khai kế hoạch để toàn thể CB-GV-NV và HS tham gia đội tuyển nắm vững.
- TCM xây dựng kế hoạch, chương trình BD HSNK cho từng bộ môn.
- TCM chỉ đạo, hướng dẫn GVBD xây dựng kế hoạch, chương trình và giáo án dạy BD HSNK
- Ban giám hiệu (BGH) duyệt kế hoạch, chương trình BD HSNK của các TCM; TCM duyệt kế hoạch, chương trình, giáo án dạy BD HSNK của GV.
- BGH, TTCM kiểm tra việc thực hiện kế hoạch, chương trình BD HSNK của các TCM và GVBD.
1.4.2. Quản lý việc tuyển chọn HSNK
Tuyển chọn HSNK là một trong những khâu rất quan trọng, quyết định phần lớn chất lượng của đội tuyển HSNK, nó còn mang ý nghĩa lớn trong việc định hướng đúng đắn cho sự hình thành và phát triển một con người. Để QL việc tuyển chọn HSNK, HT cần thực hiện các nội dung sau:
- BGH lập kế hoạch tuyển chọn
- BGH tổ chức triển khai kế hoạch tuyển chọn HSNK đến các
- TTCM tổ chức triển khai kế hoạch tuyển chọn HSNK đến các GV để GV giới thiệu các HS có năng khiếu.
- HT thành lập hội đồng và tổ chức thi tuyển cho các HS được giới thiệu
- HT công bố kết quả thi tuyển và danh sách những HS đủ điều kiện vào đội tuyển
- HT ra quyết định thành lập các đội tuyển HSNK
1.4.3. Quản lý giờ dạy BD HSNK của GV trên lớp Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Hiệu quả các giờ dạy BD HSNK của GV trên lớp có vai trò rất quan trọng để đảm bảo chất lượng HĐ BD HSNK. Do đó, HT cần QL tốt giờ dạy BD HSNK của GV trên lớp thông qua việc đảm bảo thực hiện có hiệu quả các nội dung sau:
- BGH xếp thời khóa biểu (TKB) BD HSNK và triển khai đến TCM, GVBD và HSNK.
- Quy định chế độ thông tin, báo cáo, sắp xếp, thay thế hoặc dạy bù
- BGH tổ chức dự giờ và phân tích giờ dạy HSNK của GV, trong đó chú trọng việc đổi mới phương pháp dạy của GV và phương pháp học của HS
- Xử lý việc thực hiện không đúng yêu cầu giờ lên lớp của GVBD HSNK
1.4.4. Quản lý HĐ kiểm tra, đánh giá kết quả học BD của HSNK
Kiểm tra và đánh giá kết quả học BD của HSNK là 2 khâu quan trọng nhằm xác định kết quả của việc thực hiện mục tiêu dạy BD HSNK. Qua đó, giúp thúc đẩy quá trình học BD của HSNK phát triển không ngừng; giúp GV dạy BD HSNK biết được thành tích học tập của HS, đồng thời tự đánh giá vốn tri thức, trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, nhân cách và uy tín của mình trước HS; giúp HT có cơ sở để xây dựng chiến lược phù hợp trong HĐ BD HSNK về mục tiêu, về đội ngũ GV BD, về vấn đề đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức HĐ BD HSNK. Vì vậy, HT cần QL tốt HĐ KTĐG kết quả học BD của HSNK thông qua việc đảo bảo thực hiện tốt các nội dung sau:
- BGH lập kế hoạch KTĐG kết quả học BD của HSNK theo từng thời gian cụ thể.
- BGH phân công các bộ phận phụ trách công tác KTĐG kết quả học BD của HSNK.
- Tổ chức KTĐG kết quả học BD của HSNK
- Tổ chức họp rút kinh nghiệm trong công tác KTĐG kết quả học BD của HSNK
1.4.5. Quản lý hoạt động sinh hoạt tổ chuyên môn về công tác BD HSNK
Quá trình QL HĐ dạy học của HT luôn gắn chặt với việc chỉ đạo HĐ của TCM. TCM là nơi tổ chức các HĐ chuyên môn, trong đó có HĐ BD HSNK. Vì vậy, để nâng cao chất lượng BD HSNK, HT cần QL tốt HĐ sinh hoạt TCM về công tác BD HSNK thông qua việc thực hiện các nội dung sau:
- BGH chỉ đạo các TCM xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên môn về công tác BD HSNK
- TTCM lập kế hoạch sinh hoạt chuyên môn về BD HSNK
- BGH dự giờ các buổi sinh hoạt TCM về BD HSNK
- BGH khen thưởng các TCM có nội dung sinh hoạt về BD HSNK phong phú, hiệu quả.
1.4.6. Quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho GV tham gia BD HSNK Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Trả lời phỏng vấn của phóng viên đài truyền hình Việt Nam trước thềm năm học 2024 – 2025, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ đã khẳng định: Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo là giải pháp then chốt để chấn hưng GD. Điều đó khẳng định tính tất yếu, cấp thiết trong công tác QL HĐ đào tạo, BD cho GV nói chung và GV tham gia BD HSNK nói riêng. GVBD HSNK cần phát triển những kỹ năng đặc biệt mà GV bình thường không cần và GVBD HSNK cần có sự chuẩn bị đặc biệt về kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, sự tham gia và sự sáng tạo. Vì vậy, HT cần QL tốt HĐ đào tạo, BD cho GVBD HSNK thông qua việc thực hiện các nội dung sau:
- BGH xây dựng kế hoạch đào tạo, BD cho GV tham gia BD HSNK
- BGH phân công bộ phận phụ trách công tác đào tạo, BD cho GV tham gia BD HSNK
- Tổ chức công tác bồi dưỡng GV: Mời chuyên gia, GV có kinh nghiệm; tổ chức hội nghị để trao đổi kinh nghiệm BD HSNK, …vv.
- Họp rút kinh nghiệm trong công tác đào tạo, bồi dưỡng GV
1.4.7. Quản lý HĐ học BD của HSNK
Cũng như các HS khác, HSNK cũng phải hoàn thành tất cả các bài học, các HĐ học tập theo chương trình chung ở giờ học chính khóa. Bên cạnh đó, HSNK sẽ được tham gia các lớp học dành riêng cho đội tuyển HSNK của từng môn học được tổ chức ngoài giờ học chính khóa. HSNK biết tự học, tự BD, biết biến quá trình BD thành quá trình tự BD sẽ là tiền đề, là điều kiện cần để HSNK đạt kết quả cao trong kỳ thi chọn HSG, HSNK các cấp. Để QL HĐ học BD của HSNK, HT cần tập trung thực hiện tốt các nội dung sau:
- BGH ban hành các quy định cụ thể để quy định trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của TCM, GV, HS và các bộ phận có liên quan trong việc quản lý HĐ học BD của HSNK
- TTCM chỉ đạo GV dạy BD HSNK hướng dẫn phương pháp học BD và tự BD cho đội tuyển HSNK.
- GVBD theo dõi sự tiến bộ của HSNK trong suốt quá trình bồi dưỡng.
- Xây dựng các câu lạc bộ học thuật cho các đội tuyển HSNK
- Khen thưởng HS đạt thành tích tốt trong quá trình học BD
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến QL HĐ BD HSNK Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
1.5.1. Các yếu tố khách quan
- Chủ trương, chính sách về BD nhân tài nói chung và BD HSNK trong các trường phổ thông nói riêng.
- Nội dung, hình thức tổ chức các cuộc thi, hội thi HSG các cấp.
Quy chế dạy học và quy chế quản lý hoạt động dạy học. Quy chế dạy học và quy chế quản lý hoạt động dạy học là cơ sở pháp lý để sắp xếp tổ chức, xây dựng cơ chế quản lý, điều hành nhân sự, xác định mục đích, nội dung, chương trình và kế hoạch bồi dưỡng HSNK.
Điều kiện CSVC, trang thiết bị dạy học hiện tại, tài liệu tham khảo cho GV và HSNK. CSVC phục vụ HĐ BD HSNK trước hết phải là CSVC lớp học, trang thiết bị thí nghiệm thực hành, đồ dùng dạy học. Bên cạnh đó, nguồn tư liệu tham khảo và cơ sở hạ tầng kỹ thuật về công nghệ thông tin cũng đóng vai trò quan trọng trong HĐ BD HSNK. Nhà trường cần tạo điều kiện để GV và HS dễ dàng tiếp cận, sử dụng các trang thiết bị, tài liệu tham khảo, nguồn tài nguyên mở trên Internet để phục vụ tốt cho HĐ BD HSNK.
Sự ủng hộ của CMHS là yếu tố quan trọng cho sự thành công trong việc thực hiện các nhiệm vụ GD của nhà trường nói chung và HĐ BD HSNK nói riêng. Sự ủng hộ của CMHS trước tiên thể hiện trong việc phối hợp với nhà trường để cùng GD, giúp đỡ HS thực hiện nhiệm vụ học tập; sau đó là sự ủng hộ về mặt tinh thần bởi sự đồng thuận với chủ trương thực hiện HĐ GD HSNK trong nhà trường; ủng hộ về mặt vật chất thông qua việc tự nguyện đóng góp kinh phí để bồi dưỡng tiết dạy HSNK cho GV, khen thưởng GVBD và HS đạt thành tích cao trong các kỳ thi, hội thi HSG, HSNK, đầu tư, mua sắm các trang thiết bị phục vụ trực tiếp cho HĐ BD HSNK, …vv.
Sự ủng hộ của chính quyền địa phương, của các cơ quan, tổ chức, các công ty, cựu học sinh, mạnh thường quân thông qua các hoạt động cụ thể như: tài trợ để mua sắm trang thiết bị phục vụ dạy học BD HSNK, trao học bỗng, khen thưởng, ….vv.
1.5.2. Các yếu tố chủ quan Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Nhận thức của CBQL, GV, HS, CMHS và xã hội về HĐ BD HSNK và QL HĐ BD HSNK:
Để hoạt động BD HSNK đạt hiệu quả cao, trước hết CBQL, GV, CMHS, HS cần có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác này.
CBQL cần có hiểu biết, nhận thức nhất định về HĐ BD HSNK ở trường phổ thông từ đó mới xây dựng được kế hoạch phù hợp, khả thi; mới có thể tổ chức thực hiện tốt kế hoạch đã đề ra đảm bảo phát huy tối đa sức mạnh của đội ngũ và tiềm năng của HS.
GV cần có những hiểu biết về mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và đổi mới KTĐG kết quả học tập của HSNK
- Năng lực đội ngũ CBQL và GV
Đối với CBQL: Với vai trò nhà QL, lãnh đạo nhà trường, đòi hỏi CBQL phải có năng lực lập kế hoạch; năng lực tổ chức thực hiện kế hoạch; năng lực lãnh đạo, chỉ đạo; năng lực kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch đề ra.
Đối với GVBD HSNK: Học trò giỏi đòi hỏi phải có thầy giáo giỏi và có thầy giỏi sẽ có nhiều trò giỏi. Người thầy giáo giỏi là người biết truyền cảm hứng, phát hiện những HSNK kịp thời và biết khơi dậy trong các em niềm đam mê khám phá các tri thức khoa học. Chính vì vậy, năng lực của người thầy có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao chất lượng BD HSNK. Đội ngũ GVBD cần được BD thường xuyên để nâng cao năng lực dạy học, năng lực tìm hiểu đối tượng GD, năng lực xây dựng môi trường học tập, năng lực hướng dẫn HS tiếp cận với nghiên cứu khoa học, … v.v.
Chất lượng học sinh: HĐ cá nhân của HS đóng vai trò quyết định đến chất lượng học tập của bản thân các em, mà hoạt động cá nhân của HS lại phụ thuộc rất lớn vào tư chất cá nhân, tinh thần và thái độ, niềm đam mê của chính HS đó. Vì vậy, kết quả của HĐ BD HSNK phụ thuộc rất lớn vào việc nhà trường có tuyển chọn được những HS có chất lượng tốt hay không.
- Công tác thi đua khen thưởng của nhà trường: Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Chất lượng BD HSNK phụ thuộc rất lớn vào việc nhà trường sử dụng kết quả của HĐ này như thế nào. Nếu GV, HS thấy được việc sử dụng kết quả BD HSNK là thiết thực; nếu nhà trường có các biện pháp động viên cả về vật chất và tinh thần đối với những cá nhân đạt thành tích tốt thì chắc chắn GV và HS sẽ nỗ lực, cố gắng vươn lên. Mặt khác, nếu những nỗ lực, cố gắng của GV và HS không được ghi nhận kịp thời, không được đánh giá đúng, hoặc khi nhà trường sử dụng cách QL theo kiểu “cào bằng”, hay thờ ơ, không quan tâm đến kết quả thì chắc chắn nhiệt huyết của GV sẽ dần bị giảm sút.
Theo thuyết thứ bậc nhu cầu của A. Maslow, các nhu cầu được thỏa mãn bậc cao là nhu cầu về sự thừa nhận như một thành viên; nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu được tự thể hiện [24]. HT cần chú trọng làm cho GV được thỏa mãn các nhu cầu bậc cao này, có được như vậy họ sẽ nỗ lực cố gắng hết mình trong công tác nói chung và trong HĐ BD HSNK nói riêng.Việc khen thưởng phải được kết hợp hài hòa giữa biểu dương tinh thần và bằng vật chất thông qua những định mức khen thưởng phù hợp với thành tích mà GV và HS đạt được.
Tất cả việc biểu dương, vinh danh, khen thưởng chỉ phát huy hết tác dụng động viên, khích lệ nếu được tổ chức một cách trang trọng, được đưa ra một cách chân thành và trên hết phải kịp thời. Theo lý thuyết kỳ vọng về động cơ của Porter- Lawler, khi con người hiểu rõ sẽ được thỏa mãn những gì thì họ sẽ có động cơ, nỗ lực gấp đôi để đạt được mục tiêu [24].
Chính vì vậy, cần cho GV, HS thấy được những gì mà họ sẽ đạt được đối với từng mức độ của sự thành công trong HĐ BD HSNK bằng cách quán triệt cụ thể, chi tiết về các quy định trong công tác thi đua khen thưởng, nâng lương trước thời hạn, trong quy định xếp lớp chọn, trong việc phân công nhiệm vụ giảng dạy, chủ nhiệm lớp. HT cần nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra mức thưởng phù hợp sao cho không vượt quá khả năng chi trả của các nguồn quỹ nhưng cũng đồng thời đáp ứng được tốt nhất nhu cầu, nguyện vọng của GV, HS.
- Công tác phối hợp:
Phối hợp các lực lượng trong nhà trường: QL HĐ BD HSNK cần được tổ chức thực hiện thông qua việc phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các lực lượng trong nhà trường. Trước hết, cần có sự phối hợp trong việc hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch của các cấp quản lý bên trong nhà trường như HT, các PHT, TTCM. Tiếp theo, cần có sự vào cuộc của GVCN, GVBM, GV được phân công BD HSNK. Đồng thời, để phục vụ HĐ BD HSNK cần có sự góp sức của các thành viên tổ Văn phòng trong công tác phục vụ, bảo vệ; sự duy trì ổn định nề nếp của Đoàn thanh niên, bộ phận An ninh và giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường; sự động viên, khích lệ tổ chức của Công đoàn trường.
Phối hợp các lực lượng ngoài nhà trường: Phối hợp các lực lượng GD ngoài trường hay huy động cộng đồng tham gia xây dựng và phát triển GD là quá trình vận động (động viên, khuyến khích, thu hút) và tổ chức mọi thành viên trong cộng đồng tham gia vào việc xây dựng và phát triển nhà trường, từ việc xây dựng CSVC, trang thiết bị phục vụ dạy học, chăm lo đời sống GV, tạo môi trường GD thống nhất giữa nhà trường – gia đình – xã hội đến việc tham gia GD HS.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
Trong chương này chúng tôi đã giải quyết các vấn đề cơ bản của cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu, đồng thời khẳng định tính đúng đắn về hướng nghiên cứu của đề tài. Các vấn đề được giải quyết trong chương, bao gồm:
Qua tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề, chúng tôi nhận thấy, GD HSNK đã được các nhà khoa học trong nước và trên thế giới quan tâm, nghiên cứu. Ở Việt Nam, có đề tài cấp bộ của tác giả Đỗ Tiến Đạt (2018) nghiên cứu về phương thức BD HSNK ở các trường phổ thông Việt Nam và nhiều đề tài luận văn thạc sĩ đã đi sâu tìm hiểu thực trạng QL HĐ BD HSNK, HSG ở các phổ thông và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả QL HĐ BD HSNK, HSG. Tuy nhiên, các đề tài này chưa đi sâu vào nghiên cứu sự khác biệt trong QL HĐ BD HSNK giữa các trường trong cùng địa bàn nghiên cứu để khẳng định tính quyết định của QL HĐ BD HSNK đối với chất lượng HĐ BD HSNK.
Qua nghiên cứu và hệ thống hóa lý luận về HĐ BD HSNK và QL HĐ BD HSNK, chúng tôi đã xây dựng được các khái niệm công cụ cho đề tài như: HSNK, HSG, HĐ BD HSNK; QL HĐ BD HSNK. Chúng tôi đã nghiên cứu và tìm hiểu về vị trí, tầm quan trọng của HĐ BD HSNK ở trường phổ thông; xác định mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức BD và KTĐG kết quả học BD của HSNK. Đồng thời, chúng tôi đã xây dựng được cơ sở lý luận về các nội dung QL HĐ BD HSNK và các yếu tố ảnh hưởng đến QL HĐ BD HSNK.
Việc tìm hiểu lý luận là cơ sở quan trọng giúp chúng tôi có cơ sở khoa học tiến hành tìm hiểu thực trạng, phân tích, đánh giá các kết quả nghiên cứu. Từ đó xác định biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả QL HĐ BD HSNK ở các trường THPT tại tỉnh Bình Phước. Luận văn: Quản lý bồi dưỡng HS năng khiếu ở các trường THPT.
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY:
===>>> Luận văn: Thực trạng bồi dưỡng HS năng khiếu ở trường THPT

Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 Chuyên cung cấp dịch vụ làm luận văn thạc sĩ, báo cáo tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp và Làm Tiểu Luận Môn luôn luôn uy tín hàng đầu. Dịch Vụ Viết Luận Văn 24/7 luôn đặt lợi ích của các bạn học viên là ưu tiên hàng đầu. Rất mong được hỗ trợ các bạn học viên khi làm bài tốt nghiệp. Hãy liên hệ ngay Dịch Vụ Viết Luận Văn qua Website: https://dichvuvietluanvan.com/ – Hoặc Gmail: lamluanvan24h@gmail.com

